March 24, 2020

Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 12)

Biên tập: Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm
Dịch: Phạm Nguyên Trường

Chương 3

Ghana: Con đường tới dân chủ thật quanh co (tiếp theo)

Kwame A. Ninsin


Tiểu sử John Agyekum Kufuor, Tổng thống Ghana giai đoạn 2001–2009


Kết quả hình ảnh cho John Agyekum Kufuor 
 John Agyekum Kufuor tổng thóng Ghana 2001-2009

John Agyekum Kufuor, luật sư dòng dõi hoàng gia thuộc nhóm sắc tộc Ashanti, chiếm đa số ở Ghana, kết hợp được kinh nghiệm về kinh doanh và tài chính cả trong nước lẫn quốc tế, cũng như vai trò quan trọng trong lĩnh vực kĩ trị với nhiều năm đóng vai lãnh tụ phe đối lập. Ông từng là bộ trưởng trong chính phủ Kofi Busia (1969–1972) của nền Đệ nghị Cộng hòa và là nghị sĩ đối lập của nền Đệ tam Cộng hoà dưới thời Hilla Limann (1979-1981) và thư kí của chính quyền địa phương dưới thời chính phủ quân sự thuộc Đảng NDC của Jerry Rawlings. Kufuor là một thành viên sáng lập Đảng NPP, Đảng này đã tổ chức tranh cử trong những cuộc bầu cử dân chủ hồi giữa những năm 1990. Ông dẫn dắt Đảng NPP, trong vai trò ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1996 và giành được chiến thắng. Việc Kufuor giành được chức tổng thống đánh dấu vụ chuyển giao quyền lực thành công đầu tiên từ một chính phủ được bầu theo lối dân chủ sang một chính phủ dân chủ khác, kể từ khi Ghana giành được độc lập năm 1957. Ông tái đắc cử tổng thống vào năm 2004, hoàn thành hai nhiệm kì được hiến pháp quy định, rồi sau đó giao quyền cho vị Tổng thống mới được bầu, John Atta Mills, thuộc Đảng NDC, và bằng cách đó, làm sâu sắc thêm chế độ dân chủ tự do của Ghana. Kufuor cũng củng cố các thiết chế dân chủ của Ghana bằng cách giảm bớt đáng kể những hạn chế về tự do báo chí và thành lập ủy ban điều tra những vụ vi phạm nhân quyền, xảy ra dưới những chế độ trước năm 1992. Là người đứng đầu đảng chính trị với tư tưởng tự do dân chủ và thị trường tự do đã có truyền thống từ lâu đời, Kufuor theo đuổi các chính sách kinh tế thị trường tự do kiên định, giúp Ghana hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

Phỏng vấn Tổng thống John Agyekum Kufuor


Các chu kì can thiệp của quân đội vào chính phủ


Hình ảnh trên trường quốc tế của Ghana: Đây là trường hợp chuyển đổi thành công sang hệ thống dân chủ, trong đó đã và đang có những cuộc bầu cử tự do và công bằng, luân phiên cầm quyền, các thiết chế bầu cử hoạt động, tự do báo chí, phân chia quyền lực và nền quản trị dân chủ. Danh tiếng quốc tế như thế của chế độ dân chủ của Ghana có chính xác không? Nếu chính xác, làm sao làm được như thế?


Danh tiếng quốc tế của chế độ dân chủ Ghana là khá chính xác, nhưng chẳng có danh tiếng ở đâu là hoàn hảo cả. Dân chủ không xảy ra một cách tự nhiên. Nhiều cái phụ thuộc vào con người, phụ thuộc vào tính khí của họ và thậm chí là phụ thuộc cả vào văn hóa của họ nữa. Tôi có thể nói tính khí của người Ghana, các bộ lạc, sinh sống từ bờ biển đến cực bắc, từ đông sang tây, có xu hướng thỏa hiệp. Các du khách tới Ghana nhận xét rằng người Ghana rất thân thiện, hòa bình, tuân thủ pháp luật và sùng đạo. Vì vậy, với tính khí như thế và lịch sử của đất nước chúng tôi, từ xa xưa họ đã sống rất tốt với nhau; họ là thông gia với nhau và những mối quan hệ tương tự như thế.

Với nền tảng như thế và những bản hiến pháp tốt, quy định những thủ tục của chế độ dân chủ, người ta sẽ nghĩ rằng thiết lập nền quản trị dân chủ là việc dễ. Nhưng Ghana không phải là trường hợp dễ. Ghana, nước đầu tiên ở phía nam sa mạc Sahara, châu Phi, giành được độc lập, năm 1957. Nhưng sau đó, nước này bị lực lượng quân sự và các cuộc đảo chính làm cho rối loạn trong một thời gian dài. Trong trường hợp Ghana, tôi xin nói rằng trong suốt 50 năm độc lập, nhân dân đã gặp nhiều hình thức quản trị khác nhau. Hiến pháp đầu tiên là dân chủ, nhưng sau đó, cùng với thời gian, chính phủ Kwame Nkrumah đã lạc vào hệ thống độc đảng, những người bất đồng với chế độ bị bắt và giam giữ vì lý do chính trị mà không được đưa ra xét xử. Vì vậy, năm 1966, khi cuộc đảo chính quân sự nổ ra, nhiều người đã bị giam giữ mà không được xét xử, không có công lí. Nhân dân không thích như thế, vì vậy, binh lính đã tham gia vào, nhưng họ lại đưa tới chế độ độc tài quân sự, nhân dân cũng vẫn không thích. Quân đội nắm quyền trong khoảng ba năm, rồi sau đó, năm 1969, bàn giao cho chính phủ của Giáo sư Busia, tôi bắt đầu tham gia chính trị từ đấy. Họ cho các quan chức dân sự tham gia, để cai trị theo bản hiến pháp dân chủ.

Chế độ dân chủ kế tiếp chỉ kéo dài được hai năm ba tháng, và binh lính quay trở lại, họ nói rằng chính quyền đã tước của họ một vài đặc quyền đặc lợi. Họ cư xử như thể họ từng đã nếm mùi quyền lực mà họ tin rằng nó phải là của họ. Quân đội cai trị trong tám năm tiếp theo. Họ phá hủy nền kinh tế của Ghana và tham nhũng đến mức nhân dân nói rằng, một lần nữa, họ muốn có chế độ dân sự và chế độ dân chủ hiến định.

Cuối nhiệm kỳ đó lại có một cuộc đảo chính quân sự, họ giải tán chính phủ của chính mình, rồi một sĩ quan trẻ [Jerry J. Rawlings], tổ chức cuộc đảo chính thứ hai. Họ đã giết các tướng lĩnh, trong đó có ba cựu nguyên thủ quốc gia, trước khi chuyển giao quyền lực cho chính quyền dân sự. Đó là năm 1979. Nền Đệ Tam Cộng Hòa hình thành như thế đấy. Chế độ dân sự [đứng đầu là Tổng thống Hilla Limann] xuất hiện cùng với sự ra đi của quân đội cũng chỉ kéo dài được hai năm ba tháng. Sau đó là cuộc đảo chính nữa, ngay đêm giao thừa [31 tháng 12 năm 1981], khi cả nước đang hừng hực tâm lí vui mừng nhân lễ Giáng sinh. Hiến pháp dân chủ bị bãi bỏ để binh lính có thể một lần nữa nắm quyền, lần này họ tự tuyên bố là nắm quyền để dọn dẹp nạn tham nhũng..v.v... Các binh sĩ giành và sau đó giữ quyền lực trong khoảng 10 năm nữa. Đấy hoàn toàn là chế độ độc tài quân sự. Đất nước không biết hòa bình là gì. Đất nước bị giới nghiêm suốt ba năm trời. Đời sống xã hội bị đảo lộn, còn kinh tế thì không hoạt động được. Khu vực tư nhân không được phép phát triển, nghèo đói làm cho đất nước và nhân dân chết dần chết mòn.

Chuyển hóa hệ thống độc tài ngay từ bên trong


Lúc đó, tới cuối những năm 1980 đã diễn ra những thay đổi trên khắp thế giới. Bức tường Berlin sụp đổ, vì vậy hội chứng Đông-Tây từng siết chặt châu Phi bỗng mở toang và lúc đó yêu cầu tự do hóa lan tràn khắp nơi. Trong khi đó, nền kinh tế Ghana rơi vào tình trạng hỗn loạn hoàn toàn. Nhân dân bất mãn và dưới áp lực quốc tế, bản hiến pháp của Nền Cộng hòa Đệ tứ - bản hiến pháp rất dân chủ, hiện đang có hiệu lực - ra đời. Năm 1992, khi nhân dân có được cơ hội, họ liền nắm lấy và từ đó trở đi người dân đã thể hiện sự kiên nhẫn. Chính phủ từng bước xây dựng bản hiến pháp hiện hành, với tinh thần phân quyền; tôn trọng các quyền cơ bản của con người; dung hợp tất cả mọi người, không phụ thuộc vào bộ tộc, tôn giáo hay giới tính; và công nhận các tổ chức của xã hội dân sự. Hiến pháp thiết lập chế độ pháp quyền và tái thẩm tư pháp, tự do thông tin, hệ thống đa đảng..v.v... Đó là chế độ hiến định mà chúng tôi đang tiếp tục xây dựng.

Từ năm 1992, khi hệ thống mới này ra đời, Ghana đã thành công trong việc thay đổi chính phủ. Chúng tôi đã có năm cuộc bầu cử [kể cả cuộc bầu cử tháng 9 năm 2012]. Trong năm 2000, phe đối lập thắng và quyền lực được chuyển giao một cách hòa bình; đó là lúc tôi nhậm chức. Rồi năm 2008, chúng tôi tổ chức một cuộc bầu cử nữa. Đảng của tôi thua không đáng kể. Với gần 9 triệu cử tri, bên chúng tôi chỉ mất có 40.000 phiếu. Việc này có thể gây ra biến động trong nhiều khu vực khác, nhưng chúng tôi chấp nhận kết quả bầu cử.

Hệ thống này không phải là hoàn hảo, Ủy ban Bầu cử thì cũng thế. Nếu bạn đọc báo ngày hôm nay [tháng 9 năm 2012], bạn sẽ thấy nhiều khu vực đang dùng Ủy ban Bầu cử để giải quyết công việc cho những người muốn tạo ra khu vực bầu cử mới, trước cuộc bầu cử có hai tháng và sau khi việc đăng kí cử tri đã chấm dứt. Nhưng hiến pháp có một khiếm khuyết là Ủy ban Bầu cử được lập ra mà không có biện pháp đảm bảo trách nhiệm giải trình trước nhân dân. Cho nên, đây là thách thức mà hiện nay chúng tôi đang phải đối mặt, vì các phương tiện truyền thông được tự do cho nên nhân dân phê phán. Các thẩm phán phê phán, các đảng đối lập phê phán, Đại hội Công đoàn phê phán, nhưng chính phủ dường như ủng hộ Ủy ban Bầu cử.

Vì vậy, có thể nói, chúng tôi đang cải thiện trong việc theo đuổi dân chủ. Nhưng nhiều thành tích trong đó thuộc về nhân dân, vì tính khí của họ và lịch sử của họ khuyến khích việc cho và nhận, “sống và để cho người khác sống” và đấy là những điều cực kì quan trọng đối với chế độ dân chủ. Tuy nhiên, tôi đã học được từ kinh nghiệm của mình rằng tự do khác với dân chủ. Tôi chưa thấy người nào không yêu tự do. Tôi tin rằng tự do đến với con người một cách tự nhiên, ai cũng muốn có không gian để tự thể hiện. Nhưng, bạn có thể có tự do, nhưng nếu bạn không có nền văn hóa dân chủ - là cái phải vun trồng và chăm sóc – hỗn loạn có thể thắng thế hay một nhóm người thông minh nào đó có thể xoay sở nhằm chiếm đoạt quyền lực và sau đó không cho nhân dân chế độ dân chủ nữa.

Ông nói với chúng tôi rằng nhân dân Ghana, do lịch sử và bản chất là những người dễ thỏa hiệp, cởi mở và không thích đụng độ mà muốn giải quyết các vấn đề. Nhưng nhân dân, tự họ, rất khó hoạt động như một đơn vị để tạo ra thay đổi. Cần phải có quy trình, thiết chế và các nhà lãnh đạo.

Quần chúng, không thể xây dựng được các thiết chế; đó là lý do vì sao lãnh đạo lại quan trọng.

Ảnh hưởng quốc tế


Ông nhắc đến một sĩ quan trẻ, Jerry Rawlings, người đã lật đổ chính quyền quân sự của mình và sau đó đi qua những giai đoạn khác nhau mà ông mô tả. Làm thế nào mà ông ta lại trở thành một nhà lãnh đạo của quá trình dẫn tới kết quả mang tính dân chủ như ông nói?

Vụ sụp đổ Bức tường Berlin năm 1989 đã tháo cũi sổ lồng cho tự do tung bay khắp thế giới, vì cho đến lúc đó hệ thống lưỡng cực, sự phân chia tư tưởng giữa Đông và Tây, đã thâm nhập vào mọi hang cùng ngõ hẻm. Năm 1989, các lực lượng của chủ nghĩa tự do đã giành được uy thế, và sau đó các thiết chế của Bretton Woods (ý nói Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế - ND) và các tổ chức quốc tế khác bắt đầu gây áp lực khắp nơi, kể cả ở đây. Và đấy là điều mà tôi tin rằng chế độ quân sự dưới quyền người sĩ quan trẻ này – đã cầm quyền khoảng 10 năm - buộc phải đáp ứng những áp lực của các nhà tài trợ. Các phương tiện truyền thông tự do, tức là những phương tiện tự thể hiện ở khắp mọi nơi cũng gây áp lực lên các nhà độc tài của châu lục này. Vì vậy, ở đây, nhân dân bắt đầu lên tiếng, và những thành phần bên trong chế độ nhận ra rằng họ cũng bị ảnh hưởng, sau đó, họ bắt đầu nói đến việc đưa vào một bản hiến pháp mới. Đấy không phải là lòng tốt của bất cứ người nào nằm trong chế độ quân sự. Nó là kết quả của áp lực quốc tế. Nền kinh tế hoạt động không tốt, các nhà tài trợ của Ghana và các chủ nợ bắt đầu áp đặt điều kiện.

Hiện tượng này đã xảy ra ở nhiều nước châu Phi. Tới những năm 1990, thậm chí chế độ phân biệt chủng tộc cũng bắt đầu phải đáp ứng các áp lực của quốc tế, còn ở những nơi khác, những nhà cầm quyền cứng rắn bắt đầu rời khỏi vũ đài. Một lần nữa, trên lục địa châu Phi, Ghana luôn luôn là người bắt nhịp cho cả châu lục, có lẽ là nước đầu tiên chia tay với chế độ quân sự độc tài vì quá trình chuyển hóa diễn ra vào năm 1992. Nhưng, điều thú vị là người sĩ quan trẻ không những không từ bỏ chức vụ cùng với chế độ độc tài quân sự, mà đã tìm cách chuyển bộ quân phục sang bộ cánh dân sự và lập ra một đảng [Đại hội Dân chủ Quốc gia - NDC] và trở thành ứng viên tranh chức tổng thống. Trước khi có sự thay đổi như thế, hiến pháp mới đã được thông qua và một số người được bổ nhiệm vào các thiết chế do hiến pháp quy định, Ủy ban Bầu cử, vì nó được chế độ sắp ra đi lập ra và bị để cho thất bại.

Huy động xã hội

Những sự kiện dẫn tới việc hình thành bản hiến pháp năm 1992 cho thấy cách thức mà quá trình đàm phán bí mật hay công khai có thể dẫn sự chuyển hóa từ bất bạo động sang dân chủ. Các phong trào xã hội đã có đóng góp như thế nào vào việc tạo áp lực lên chính phủ Rawlings, buộc họ phải chấp nhận sự thay đổi to lớn, nếu ông ta không sẵn sàng?


Năm 1988, Adu Boahen, giáo sư sử học, đã giảng bài tưởng niệm người được cho là vào năm 1947 đã đưa nền chính trị đảng phái vào Ghana, đấy là J. B. Danquah. Năm 1947, Danquah đã mời Kwame Nkrumah [tổng thống đầu tiên của Ghana, giai đọan 1960-1966] từ nước ngoài về Ghana. Khi về nước, Nkrumah đã từ bỏ công việc đang làm trong tổ chức gọi là United Gold Coast Convention (một tổ chức đấu tranh giành độc lập cho Ghana từ tay thực dân Anh – ND) để thành lập đảng chính trị đầu tiên ở nước này. Nkrumah lãnh đạo nhóm ban đầu này, và sau đó theo đuổi nền chính trị dẫn tới độc lập, Nkrumah lãnh đạo đảng chiếm đa số, những người khác, tức là những người đã mời ông trở về thành phe đối lập. Năm 1960, khi Ghana quyết định trở thành nước cộng hòa, J. B. Danquah, được gọi là đại trưởng lão của nền chính trị Ghana, tranh chức tổng thống với Nkrumah. Năm 1964, Nkrumah bỏ tù ông này. Không may là, Danquah chết trong trại giam vào năm 1965. Đúng một năm sau, Nkrumah bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Những bài giảng tưởng niệm Danquah ở Ghana hình thành từ đấy. Năm 1988, bài giảng do Giáo sư Adu Boahen đọc, có tựa đề “Con Sphinx của Ghana – Nền văn hóa im lặng”. Ông nói rằng Ghana bị nền văn hóa im lặng làm cho đau khổ. Và đúng là cả nước dường như đang nằm dưới bức màn che do chế độ phủ xuống. Mọi người sợ, không dám nói. Nền kinh tế không hoạt động, nhưng nhân dân không thể tự thể hiện một cách công khai. Khu vực tư nhân bị tàn phá. Bí mật của các giao dịch ngân hàng không còn. Chính phủ có thể tịch thu tài sản. Cho nên, lúc đó, trên thực tế, đất nước này không phải quốc gia hạnh phúc. Vì vậy, năm 1988, khi Adu Boahen đọc bài giảng này, nhiều sự kiện bắt đầu xuất hiện. Mọi người bắt đầu nói, và Adu Boahen trở thành anh hùng ngay lập tức. Mặc dù ông không phải là chính trị gia dòng chính, chỉ riêng bài giảng đó của ông đã đưa ông thẳng tiến vào đảng của tôi, ông tham gia tranh chức tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1992, đối đầu với Rawlings. Các ủy viên ủy ban bầu cử đã tìm cách ngăn chặn ông.

Cải cách hiến pháp

Cố vấn trưởng của Rawlings, Justice Daniel F. Annan, là người tham gia thành lập các thiết chế được quy định trong hiến pháp - Ủy ban Bầu cử, Ủy ban nhân quyền và Tòa án Hành chính, Ủy ban giáo dục công dân – là những thiết chế đã ăn sâu bén rễ trong hiến pháp. Vì nhân dân rất muốn thoát ra khỏi nanh vuốt của giới quân nhân, cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp đã được thông qua. Trên thực tế, hiến pháp còn có những điều khoản chuyển tiếp, miễn tố những người tiến hành đảo chính [Phần 34]. Nó được coi là những điều khoản chuyển tiếp, nhưng vẫn là một phần của bản hiến pháp. Vì sao? Vì nhân dân sẵn sàng trả bất cứ giá nào miễn là thoát khỏi được nanh vuốt của giới quân nhân. Nhưng, chúng tôi vẫn coi đó như chỉ là phần phụ, bên cạnh nội dung chính của bản hiến pháp, nói về pháp quyền và phân chia quyền lực..v.v..

Những cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên

Cho nên, Rawlings tự chuyển thành thường dân để đại diện cho đảng của ông ta tranh chức tổng thống. Dường như kết quả đã được quyết định từ trước. Mặc dù vậy, đảng tôi cũng tham gia tranh cử. Kết quả diễn ra là đảng tôi không thể chấp nhận, chúng tôi viết cuốn Phán quyết bị đánh cắp (The Stolen Verdict – bản báo cáo về cuộc bầu cử tổng thống năm 1992 do Đảng Ái quốc Mới phát hành, đảng này thành lập vào năm 1992 và là tổ chức sưu tầm những bằng chứng về gian lận bầu cử). Chúng tôi cảm thấy rằng kết quả không phù hợp với tâm trạng của nhân dân, cho nên đảng tôi quyết định tẩy chay cuộc bầu cử nghị viện, vì bầu cử tổng thống và bầu nghị viện không được tổ chức trong cùng một ngày. Vì vậy, đảng tôi đứng ngoài Nghị viện suốt nhiệm kì đó.

Ông đánh giá như thế nào về việc phe đối lập tẩy chay cuộc bầu cử nghị viện năm 1992?

Ngay cả trong đảng tôi cũng có những người không hài lòng với vụ tẩy chay, mặc dù trong ban lãnh đạo, tất cả chúng tôi đều cảm thấy cuộc bầu cử tổng thống năm 1992 bị gian dối một cách rất nghiêm trọng.

Năm 1996, khi tôi lại tranh cử tổng thống với Rawlings, tất nhiên là ông ta được hưởng lợi thế của người đang nắm quyền. Tôi hoàn toàn không có nhà tài trợ nào. Tôi đã phải bán một số tài sản để chi cho chiến dịch của mình. Ngay cả với nguồn lực ít hơn, kết quả do các ủy viên ủy ban bầu cử công bố là phe đối lập, mặc dù không có phương tiện, không có tiền, không được các phương tiện truyền thông đại chúng ủng hộ, vẫn giành được 39% phiếu bầu. Tôi vẫn giành được 39% phiếu bầu. Và sau đó, khoảng năm ngày sau kết quả vẫn không được công bố, dân chúng hỏi vì sao lại chậm như thế. Các ủy viên hội đồng đề nghị được bảo vệ. Câu hỏi là: “Bảo vệ khỏi ai?” Cuối cùng, khi họ tuyên bố kết quả, có một số người tìm cách thuyết phục tôi tẩy chay một lần nữa. Tôi nói không, chúng ta cần có mặt trong Nghị viện vì hiến pháp do Tổng thống kí chỉ cho Tổng thống nắm quyền hai nhiệm kì mà thôi. Lúc đó Rawlings đã hoàn thành một nhiệm kì kéo dài bốn năm rồi. Câu hỏi đặt ra là liệu ông ta có vi phạm bản hiến pháp mà ông ta đã ban hành hay không.

Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1996, đảng tôi giành được 61 ghế, còn đảng của chính phủ giành được 133 ghế. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, John Atta Mills, từng là Phó Tổng thống dưới thời Rawlings, trở thành ứng viên tổng thống của Đảng Đại hội Dân chủ Quốc gia [thành lập tháng 7 năm 1992, là người kế thừa của PNDC]. Tôi đại diện Đảng NPP đứng ra tranh cử. Tôi thắng trong vòng bỏ phiếu thứ hai và sau đó, trước mắt toàn thế giới, Rawlings thừa nhận đảng của ông ta đã thất bại.

Điều tôi muốn nói là dân chủ đã tới, nhưng chúng ta cần loại bỏ một số góc cạnh thô nhám của các thiết chế. Cốt lõi của hiến pháp là dân chủ. Một số người khẳng định rằng những điều khoản chuyển tiếp đã tồn tại quá lâu, nhưng những người khác lại khẳng định rằng những người được hưởng lợi từ những điều khoản chuyển tiếp vẫn còn quyền lực, cho nên chúng tôi không muốn gây ra bất kỳ biến động xã hội nào, đấy là nói nếu xóa sổ những điều khoản này. Chúng tôi không muốn che dấu các thách thức. Ở đây chúng tôi có các phương tiện truyền thông đại chúng mở màn cuộc tranh luận. Những người hưởng được hưởng lợi từ các điều khoản đang già đi và họ đang điều chỉnh theo tinh thần tự do của đất nước, ngay cả Rawlings cũng làm như thế. Dân chủ đang phát triển, và tôi không nghĩ nhân dân muốn quay trở lại quá khứ.

Công lí và hòa giải

Chính phủ của ông đã thành lập Ủy ban Sự thật và Hòa giải. Ông đánh giá kinh nghiệm của Ghana về vấn đề hòa giải và công lí như thế nào?


Phát triển quốc gia là một quá trình lâu dài. Có rất ít nước trên thế giới, nơi bạn không tìm được trong lịch sử của họ những giai đoạn với những nhà độc tài cứng rắn. Vấn đề chính là phác họa ra con đường và làm cho mọi người nhìn về phía trước, và sau đó bạn xây dựng từ kinh nghiệm lịch sử. Không bao giờ quên, nhưng không để lại những dấu vết có thể làm phát sinh trở lại lòng thù hận. Ví dụ, khi tôi được bầu, tôi đã cho khai quật thi hài mấy viên tướng bị Rawlings xử tử và giao lại cho gia đình để họ chôn cất. Những viên tướng này bị bắn và chôn ở những nơi bí mật, như vậy, đây là một phần của sự hòa giải, các gia đình của những viên tướng này kháng cáo và đòi hỏi rằng họ phải được chôn cất một cách đàng hoàng. Đã làm đúng như thế. Tôi được mọi người chấp nhận.

Chúng tôi thành lập Ủy ban Sự thật và Hòa giải, gồm các nhà lãnh đạo tôn giáo và nhiều người không thuộc đảng của tôi; chúng tôi tìm cách cho tất cả mọi người cơ hội để đi và nói về những việc sai lầm trong những giai đoạn đó và chúng tôi không giới hạn công việc của ủy ban vào thời gian cầm quyền của Rawlings. Những người bị đau khổ vì những điều mà họ cho là sai lầm trong giai đoạn cầm quyền của Kwame Nkrumah cũng được tạo điều kiện để đưa ra bằng chứng, và trên cơ sở báo cáo của Ủy ban, những tài sản bị tịch thu và những thứ tương tự như thế đã được đem trả lại cho các gia đình. Điều này do hành pháp thực hiện, nhưng theo kiến nghị của Ủy ban, với quyền lực tương đương Tòa án Tối cao. Ủy ban kiến nghị trả lại tài sản và bồi thường. Có những khoản bồi thường. Cho nên, chính phủ đã làm những việc có thể làm.

Ông cảm nhận công việc của Ủy ban Sự thật và Hòa giải hiện nay như thế nào? Ông đã có thể đi xa hơn một chút nếu phải làm việc này một lần nữa?

Tôi ngủ rất ngon. Hiện nay, tôi tin rằng vấn đề đó đã được giải quyết rồi. Tôi nghĩ rằng không còn bất kỳ vấn đề nào để cho bất kỳ chính phủ nào phải quay trở lại nữa. Ủy ban đã họp công khai trong một thời gian dài và đã mời người dân tới để họ thể hiện tình cảm của mình. Ngay cả Rawlings cũng được mời, và một số người nghi ngờ là có sai lầm cũng được mời. Họ có thể tới và phát biểu. Một số người không sử dụng cơ hội để kể câu chuyện của mình, nhưng một số khác đã làm như thế, và cuối cùng, chính phủ chỉ hành động theo báo cáo của Ủy ban.

Những cuộc chuyển hóa hiện nay

Ông đã nhắc tới hoàn cảnh quốc tế và áp lực quốc tế từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế ..v.v.. có đóng góp vào quá trình chuyển hóa ở Ghana. Có thể học những bài học nào từ kinh nghiệm của Ghana, tức là những bài học có thể trở thành kim chỉ nam cho các tác nhân quốc tế, muốn hỗ trợ các tiến trình dân chủ?

Tôi nghĩ rằng lịch sử của sự can dự của quốc tế có xu hướng làm cho người ta thêm nghi ngờ, ngay cả với những mục đích tốt nhất. Ví dụ, ở Trung Đông, Mỹ và các cường quốc thực dân cũ như Anh và Pháp, sẽ bị người Syria và người dân những các nước khác nghi ngờ nhất. Đó là lịch sử của họ. Nhưng để dân chủ hóa tiến triển, thì dân chủ phải được chăm chút và nuôi dưỡng. Trong trường hợp của Ghana, khi áp lực xuất hiện, chúng tôi đã có giải pháp thay thế cho chế độ quân sự, chế độ này đã tự chuyển đổi thành đảng dân sự. Các đảng phái phát triển, vì luân phiên nắm quyền là điều kiện quyết định cho việc giữ gìn chính phủ dân chủ. Trong hiến pháp của Ghana có điều khoản nói rằng các đảng phái chính trị là thiết chế thiết yếu đối với chế độ dân chủ. Ở Bắc Phi, các đảng phái đã không được chăm sóc đúng cách. Vì thế, khi Mubarak ra đi, ngoài Huynh đệ Hồi giáo, các đảng phái khác ở đâu? Các nhà lãnh đạo Ai Cập đã không tự mình thành lập các đảng phái và đã không cung cấp cho nhân dân tầm nhìn hay cung cấp cho họ khát vọng tiến lên phía trước: Tầm nhìn thay thế cho Mubarak và thậm chí là tầm nhìn cho Huynh đệ Hồi giáo.

Các tác nhân quốc tế cần hiểu và nhấn mạnh rằng các đảng chính trị là quan trọng: Tổ chức quần chúng, giáo dục họ về các quyền mà họ nên theo đuổi và cung cấp cho họ lập trường để họ có thể tìm giải pháp thay thế cho hệ thống độc tài, khi hội đủ điều kiện để tống khứ những hệ thống đó đi. Nếu không có các đảng phái thì khi nhà độc tài ra đi ta sẽ có tự do, nhưng tự do để làm gì? Để cho hỗn loạn hay để cho các nhóm khéo léo nhanh chóng giành được quyền lực ngay trong cuộc bầu cử đầu tiên và sau đó tìm cách phá hoại chế độ dân chủ? Ở Ghana, chúng tôi đã gặp may vì đảng của chúng tôi luôn luôn sẵn sàng. Đảng này được thành lập năm 1947 và ở Ghana, truyền thống của nó bao giờ cũng mạnh, mặc dù chế độ quân sự kéo dài tới 19 năm.

Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang


Những biện pháp mà ông và chính phủ trước đó đã áp dụng để đảm bảo rằng quân đội sẽ không làm gián đoạn tiến trình dân chủ?

Làm sao xác định được vai trò thích hợp của quân đội? Chúng tôi không tạo ra kẻ thù của quân đội. Trên thực tế, mỗi khi có cơ hội, chúng tôi đều tìm cách truyền niềm tự hào về công việc của họ, để họ có thể tự hào là người lính. Họ đã tuyên thệ ở trong quân đội để bảo vệ đất nước, nếu chúng tôi bị tấn công từ bên ngoài hoặc khi tổng thống, cũng là tổng tư lệnh, giao cho họ làm một việc gì đó, nhưng không can thiệp và sử dụng vũ lực để chiếm quyền. Vậy, chúng tôi đã làm gì? Tôi đưa anh trai của tôi, Tiến sĩ Kwame Addo-Kufuor, làm bộ trưởng quốc phòng.

Trước đây, người lính chuyên nghiệp đã bị các chính trị gia lợi dụng. Ví dụ, Rawlings, đã cướp chính quyền, và cách ông điều khiển quân đội, vào giai đoạn cuối, sĩ quan thường trực không chỉ là thành phần của chính phủ mà còn là một thiết chế đã bị chính trị hóa quá mức. Vì vậy, binh sĩ thường trực cảm thấy nghề nghiệp của họ bị hoen ố.

Vì vậy, điều chúng tôi làm để buộc họ ở trong doanh trại là đối xử tốt với họ. Ví dụ, Ghana đã tham gia vào các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc ở tất cả các khu vực trên thế giới trong một thời gian dài. Phụ cấp cho việc tham gia vào sứ mệnh hòa bình khá thấp: 32 USD/ngày. Khi chính phủ của tôi bắt đầu nắm quyền, binh lính chỉ được nửa số đó, khoảng 15 hay 16 USD/ngày. Chính phủ của tôi đã nâng phụ cấp lên thành 27 USD/ngày vì các binh sĩ đã mạo hiểm cuộc sống của mình khi đi làm nhiệm vụ đó. Họ đánh giá cao việc này. Chúng tôi đảm bảo đời sống cho họ. Chúng tôi xây dựng một phòng, có lẽ là lớn nhất, ở Accra. Phòng này ở trong một doanh trại, gọi là Phòng Miến Điện. Chúng tôi cải tạo nó thành một phòng rất hiện đại, tuyệt vời. Chúng tôi xây dựng trung tâm ICT (công nghệ thông tin và truyền thông) trong các doanh trại để huấn luyện binh sĩ. Chúng tôi bồi dưỡng niềm tự hào là người lính, làm cho họ nhận thức được rằng có mặt ở đây không làm cho họ thành các chính trị gia. Chúng tôi làm cho binh sĩ hiểu rằng họ thuộc về thế giới của riêng mình và rằng họ đã thề phục vụ tổng thống, cũng là tổng tư lệnh, một quan chức dân sự và họ phải trung thành với lời thề đó.

Dường như cách làm đó vẫn còn tác dụng. Chính phủ không ve vãn một cách quá đáng để binh sĩ đổ xô tới và làm những việc họ không nên làm dưới chính quyền dân sự.

Những nguyên tắc nền tảng


Những bài học rút ra từ kinh nghiệm của chính mình mà ông muốn truyền đạt là gì?


Tôi mới thăm Nigeria về, và người ta muốn biết làm sao chúng tôi chấp nhận kết quả mơ hồ của cuộc bầu cử năm 2008, với 9 triệu cử tri và 3 vòng bỏ phiếu, và cuối cùng của Ủy ban Bầu cử tuyên bố người chiến thắng với cách biệt chỉ là 40.000 phiếu. Nhưng tôi đã nhìn thấy trước kết quả đó. Sau vòng thứ hai, có một khu vực bỏ phiếu không tham gia bầu cử vì lí do kĩ thuật, hóa ra đấy là khu vực quyết định kết quả cuộc bầu cử. Trên thực tế, tôi đã đến đó để ủng hộ ứng cử viên của tôi, lúc đó mới biết rằng ứng cử viên của tôi đã đến tòa án để đề nghị tòa án ra lệnh cấm, không cho các ủy viên ủy ban bầu cử tổ chức bầu cử trong khu vực đó. Và chúng tôi chỉ có 10 ngày hoặc khoảng 10 ngày, tính từ ngày bầu cử và đến ngày vị tổng thống đắc cử nhậm chức. Tất nhiên, ngày bàn giao quyền lực đã được hiến pháp quy định, đấy là ngày 7 tháng 1. Vì vậy, nếu tôi đứng về phía ứng cử viên của tôi, thì có nghĩa là tôi phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp; đó là cách duy nhất để kéo dài thời hạn một cách hợp hiến trước khi bàn giao chức vụ tổng thống. Tôi xem xét được mất của của vấn đề, và tôi không thể đồng ý với ứng cử viên của tôi. Vì vậy, tôi nói với ông ta: “Ông đã đến tòa án nhưng ông không tham khảo ý kiến của tôi, bởi vì nếu ông tham khảo tôi thì tôi đã khuyên ông không làm như thế, vì tôi cảm thấy trên thực tế chúng ta đã có cơ hội. Nếu tòa bác bỏ tuyên bố của ông và cuộc bầu cử được tiến hành, chúng ta chắc chắn sẽ thua”. Vì vậy, tôi không thể tiến hành bất cứ cuộc vận động nào. Không những thế, tôi nói với họ mà không cần màu mè rằng tôi chuẩn bị tuyên bố với quốc dân rằng tôi sẵn sàng bàn giao quyền lực cho người được Ủy ban Bầu cử tuyên bố là người chiến thắng. Tòa án đã không ủng hộ yêu cầu của ứng cử viên của tôi, và Ủy ban tiếp tục tiến hành cuộc bầu cử ở những khu vực bầu cử còn lại và tuyên bố NDC là người chiến thắng với số chênh lệch chỉ có 40.000 phiếu bầu.

Tôi làm việc đó với lương tâm trong sáng. Hiến pháp nói phải bàn giao quyền lực cho Tổng thống đắc cử và tôi đã tuân thủ hiến pháp. Vì vậy, tất cả chúng ta hãy tuân theo hiến pháp. Đất nước cần một bản hiến pháp tốt, với những quy định như tôn trọng nhân quyền, tôn trọng lá phiếu, tôn trọng Ủy ban Bầu cử độc lập, tôn trọng nền tư pháp độc lập. Làm tất cả những việc này là xây dựng hòa bình vì mọi người thực sự cảm thấy rằng họ được tham gia vào chính phủ của mình. Phủ nhận tình cảm đó thì cuối cùng sẽ xuất hiện Mùa xuân Ả Rập; nghĩa là, trước sau gì người dân cũng sẽ vùng lên nhằm thúc đẩy các quyền của mình. Vì vậy, đến đâu tôi cũng nói: “Hãy thảo ra một hiến pháp tốt”. Chính phủ phải thề tuân theo hiến pháp, tôn trọng hiến pháp và tạo điều kiện cho người dân lên tiếng, cho các phương tiện truyền thông quyền tự do. Người dân phải thấy chính phủ có trách nhiệm giải trình. Làm được điều đó thì những người muốn chiếm đoạt quyền lực sẽ không còn đất dụng võ nữa.

[1] Phong trào vì Tự do và Công lý (MFJ), “Tuyên bố thành lập Phong trào có cơ sở trên toàn quốc: Phong trào vì Tự do và Công lý”, họp báo, ngày 1 tháng 8 năm 1990.
[2] Nguồn thượng dẫn.
[3] Steven Levitsky and Lucan A. Way, Competitive Authoritarianism: Hybrid Regimes after the Cold War (New York: Cambridge University Press, 2010).
[4] Kwame Boafo-Arthur, “The Quest for National Reconciliation in Ghana: Challenges and Prospects,” in Voting for Democracy in Ghana: The 2004 Elections in Perspectives, Thematic Studies 1, ed. Kwame Boafo-Arthur (Accra: Freedom Publications, 2006), 136.
[5] Eboe Hutchful, Democratic Governance of Security: Facing Up to Ghana’s Fragility (Accra: IDEG, 2007), 23.
[6] Điều 64 (1) của hiến pháp cho phép thách thức như thế trong vòng 21 ngày sau khi kết quả cuộc bầu cử được tuyên bố. Ngày 29 Tháng 9 năm 2013, Tòa án Tối cao, sau khoảng 8 tháng xét xử quanh co, quyết định “theo đa số” rằng John Mahama là Tổng thống được bầu hợp lệ của Ghana. Ứng cử viên tổng thống của Đảng NPP, Nana Addo Dankwa Akufo-Addo và người nằm trong liên danh với ông này chấp nhận phán quyết – phù hợp với cam kết của họ với các nguyên tắc dân chủ và chế độ pháp quyền.

Còn tiếp

No comments:

Post a Comment