March 16, 2020

Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 3)


Biên tập: Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Phạm Nguyên Trường dịch

Chương 1

Brazil

Công cuộc chuyển hóa của Brazil: Từ tự do hóa có giới hạn tới chế độ dân chủ đầy sức sống (tiếp theo)

Frances Hagopian

 Kết quả hình ảnh cho Fernando Henrique Cardoso
Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống thứ 34 của Brasil (1995-2003)

Kinh nghiệm lưu vong

Trong nhiều cuộc chuyển hóa thường có sự căng thẳng giữa những người sống lưu vong và những nhà lãnh đạo phe đối lập ở trong nước. Kinh nghiệm Brazil cung cấp những bài học gì về vấn đề này?


Luôn luôn có sự căng thẳng giữa những người ở trong nước, đang đấu tranh chống lại chế độ và những người ở bên ngoài, tức là những người lưu vong. Tôi đã ở cả bên ngoài lẫn bên trong, trong những giai đoạn khác nhau. Những người bên trong, tức là những người thấy tình hình mỗi ngày, có nhiều khả năng hơn trong việc nắm bắt những hiện tượng đang xảy ra trong các giai đoạn khác nhau của quá trình này, nhưng đồng thời, họ lại coi thường những người ở bên ngoài.

Tôi còn nhớ rõ buổi nói chuyện với Brizola, ở Paris. Ông ta nhấn mạnh rằng ngay sau khi ông trở về Brazil, MDB sẽ trở thành PTB, đây là đảng của của ông và của Getulio Vargas. Ông không tin vào tính liên tục của MDB và nghĩ rằng PTB sẽ trở lại mạnh mẽ như xưa. Thời gian tiếp tục trôi, sau khi được ân xá, ông trở về Brazil. Chúng tôi cùng với Brizola đến nhà một nhà báo, tên là Claudio Abramo, đấy là cuộc họp của những người trẻ và cả những người không còn trẻ. Bất ngờ, một người đứng lên và sửa lại nhiều ý kiến của Brizola về phong trào công đoàn. Brizola tức giận và thách thức: “Ông biết gì về chuyện này? Ông là ai?” Hóa ra đấy là Almir Pazzianotto, luật sư của công đoàn của Lula. Brizola đã nhắc lại phong trào công đoàn thời ông, mà không nhận ra rằng chúng tôi đã ở trong một giai đoạn khác; ông nghĩ rằng khi trở về, ông sẽ giành lại được tất cả mọi thứ. Ông đã giành lại được một số thứ, nhưng tất cả không còn như xưa và MDB mạnh hơn rất nhiều so với đảng của Brizola.

Tôi nhớ rằng Ulysses Guimaraes, nhà lãnh đạo lớn của phong trào tái dân chủ hóa, nhìn Brizola và Arraes với cặp mắt coi thường, vì họ là các chính trị gia trường phái cũ, những người đã phải sống lưu vong. Ulysses đã tới châu Âu, nhưng không muốn nói chuyện với hai ông này. Có một sự căng thẳng nhất định giữa các lãnh đạo đối lập ở đây và những người lưu vong, và vì tôi đã tiếp xúc với cả hai bên, cho nên trong chừng mực nào đó, tôi là cầu nối. Có lần Ulysses gọi điện cho tôi và nói rằng Arraes, , người lãnh đạo Đảng Cộng sản (theo Ulysses), đang chuẩn bị trở về. Luôn có nguy cơ không tìm được chỗ đứng chung và khó mà đưa được hai nhóm làm việc cùng với nhau.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Ông trở thành thượng nghị sĩ, còn Franco Montoro thì trở thành thống đốc như thế nào?
Tôi tranh cử thượng nghị sĩ trong cuộc bầu cử năm 1978. Nhiều người nghi ngờ là liệu cơ quan bầu cử có cho tôi ứng cử hay không. Luật AI-5 đã đẩy tôi ra khỏi trường đại học vào năm 1969. Tôi đã buộc phải nghỉ hưu; tôi đã 37 tuổi và là Giáo sư ở Đại học Sao Paulo. Luật pháp không cho phép chấp nhận tôi là ứng cử viên. Điều đó cho phép tôi thuyết phục vợ tôi rằng, đối với tôi, trở thành ứng cử viên chỉ để phản đối chứ không phải là khởi đầu của nghề chính trị.

Lúc đó, đã có hệ thống sát nhập các cuộc bầu cử nội bộ đảng với tổng tuyển cử, gọi là hệ thống lemas. Như ở Uruguay, mỗi đảng phái chính trị có thể đề cử ba ứng viên thượng viện, và phiếu mà các ứng cử viên nhận được sẽ được cộng lại để quyết định đảng nào thắng; ứng viên nào có số phiếu cao nhất sẽ trở thành thượng nghị sĩ. Mục tiêu ứng cử của tôi là tăng số phiếu bầu cho MDB, bằng cách dựa vào thanh niên, trí thức, nghệ sĩ..v.v.. Vì vậy mà chúng tôi đã tổ chức một buổi họp mặt ở nhà người bạn của tôi, Jose Gregori, ông này sau đó trở thành bộ trưởng tư pháp trong chính quyền của tôi; còn lúc đó ông là thành viên của Ủy ban Công lý và Hòa bình của Giáo hội Công giáo. Những người dự họp kết luận rằng tôi là người duy nhất có uy tín nhất định trong xã hội, mặc dù không nổi bật lắm, vì tôi không phải nghị sĩ và tôi chưa tham gia hoạt động chính trị. Các tòa án của Sao Paulo bác bỏ, không chấp nhận cho tôi ứng cử, tòa phúc thẩm cũng bác bỏ. Thế mà chỉ hai tuần trước khi bầu cử, tòa án Tối cao Liên bang lại chấp nhận. Một vị thẩm phán đã đồng ý với lập luận rằng học hàm Giáo sư đại học là suốt đời, và không ai có thể bị tước quyền chính trị suốt đời.

Tôi được 1.300.000 phiếu, nhiều hơn ứng cử viên của ARENA, nhưng ít hơn Montoro. Vì vậy, từ năm 1978 họ phát minh ra khái niệm: tôi là thượng nghị sĩ thay thế. Trước đó không có chức như vậy. Khi họ đưa chúng tôi vào, phiếu của Montoro có một người thay thế, tôi có một người khác, tôi đã được Lula lựa chọn. Người thay thế tôi là Mauricio Soares, có liên hệ với công đoàn công nhân luyện kim. Montoro là thị trưởng thành phố Campinas.

Năm 1982, Montoro trở thành thống đốc và tôi thay ông, giữ chức thượng nghị sĩ. Lúc đó tôi đang ở Berkeley, là Giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Robert Bellah gọi điện cho tôi để đề nghị cho tôi chức vụ cố định trong trường đại học này. Tôi từ chối, vì tôi đã quyết định trở về Brazil để làm thượng nghị sĩ.

Chiến dịch đòi bầu cử trực tiếp tổng thống

Thời điểm quan trọng trong cuộc đấu tranh vì công cuộc tái dân chủ hóa bắt đầu, đây là cuộc đấu tranh trên các đường phố: Chiến dịch đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ (Diretas Já). Chuyện đó xảy ra vì, trong cuộc bầu cử năm 1982 (đây là lần đầu tiên, kể từ năm 1965, còn có cuộc bầu cử thống đốc bang), phe đối lập đã giành được Sao Paulo với Montoro làm thống đốc, Tancredo làm thống đốc Minas, còn Brizola thì làm thống đốc Rio.

Phong trào đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ xuất hiện trong bối cảnh sau: Chế độ được điều hành từ các khu quân sự của Brasilia, họ liên minh với các thống đốc ở những bang ít năng động về mặt xã hội và kém năng động về kinh tế, trong khi phe đối lập đã giành được những căn cứ quyền lực mới: Thống đốc ba bang đứng đầu Brazil. Andre Franco Montoro, thống đốc Sao Paulo, có vai trò quyết định trong chiến dịch Diretas Já.

Năm 1982, khi Montoro được bầu làm thống đốc bang Sao Paulo, thì tôi cũng nhậm chức thượng nghị sĩ. Tôi cũng trở thành chủ tịch của PMDB ở Sao Paulo vì chủ tịch đương nhiệm, Mario Covas, được Montoro bổ nhiệm làm thị trưởng thành phố Sao Paulo (bầu cử trực tiếp chính quyền bang diễn ra trước cuộc bầu cử trực tiếp thị trưởng thủ đô các bang). Tôi là chủ tịch của MDB trong giai đoạn vận động đòi bầu cử trực tiếp, và tôi nói với bạn như thế để nhắc lại vai trò quan trọng của Montoro lúc đó. Cuối năm 1983, Montoro gọi điện cho tôi và nói với tôi rằng đã đến lúc tổ chức một cuộc mít tinh lớn để ủng hộ bầu cử trực tiếp chức vụ tổng thống của nước cộng hòa. Tôi nói với ông rằng tôi không nghĩ là đã có đủ điều kiện. Tôi tham khảo ý kiến của đảng; Ban Chấp hành nhất trí tuyệt đối với quyết định rằng đấy là hành động điên rồ, rằng chúng ta sẽ tự đưa mình vào tình thế nguy hiểm. Vì vậy, tôi đề nghị với Montoro rằng chúng tôi nói chuyện với các đảng khác; tôi tìm được PT, nhưng PT muốn hành động một mình, vì lúc đó họ phản đối liên minh.

PT đã tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ bầu cử trực tiếp vào tháng 10 hay tháng 11 năm 1983, tôi tham gia. Họ không chế nhạo khi tôi đề nghị một phút im lặng để mặc niệm Teotonio Vilela. Đấy là một cuộc biểu tình rất nhỏ, mang tính giáo phái của PT. Montoro muốn làm lớn hơn nhiều, với sự tham gia của Brizola, Lula, Ulysses, và tất cả các nhà lãnh đạo của các đáng phái đối lập với chính phủ. Và vì vậy, ông kêu gọi tổ chức cuộc biểu tình của các nhóm đối lập khác vào ngày 25 tháng 1 năm 1984, tại quảng trường trước Đại Giáo Đường của Sao Paulo.

25 tháng 1 là ngày thành lập thành phố Sao Paulo và trường Đại học Tổng hợp Sao Paulo, cho nên tôi tham gia buổi lễ kỉ niệm của trường này như một giáo sư. Chúng tôi ở đó khi Jose Gregori (nghị sĩ), đang đứng trên quảng trường trước nhà thờ, gọi điện cho tôi và nói, “Đến đây, có một đám khá đông”. Không phải tất cả mọi người đều nghe được loa phóng thanh, đám đông tiếp tục kéo tới, mặc dù trời đang mưa. Cho nên chúng tôi đi, chúng tôi đã rất ngạc nhiên vì đông người quá. Đó là cuộc biểu tình lớn đầu tiên, tiếp theo là những cuộc biều tình khác. Mọi người cùng nhau đến đây: Lula, Montoro, Tancredo. Dân chúng cản trở xe của hãng truyền hình Globo; phải mất một thời gian Globo mới phủ sóng được toàn bộ chiến dịch, với đầy đủ qui mô và ý nghĩa của nó. Sau đó là chiến dịch lớn ủng hộ tu chính hiến pháp nhằm tái lập bầu cử trực tiếp tổng thống, được gọi là tu chính Dante de Oliveira, đấy là tên của nghị sĩ đảng PMDB, bang Mato Grosso, người đưa ra dự thảo tu chính án này.

Tháng 4 năm 1984, tu chính được đưa ra bỏ phiếu tại quốc hội. Nó giành được đa số tại hạ viện, nhưng không đủ số phiếu cần thiết để có thể sửa đổi hiến pháp. Vì vậy, câu hỏi lúc đó là: Làm gì đây? Vài tuần trôi qua.

Sau khi thất bại trong việc kêu gọi bầu cử tổng thống trực tiếp, các ông phản ứng như thế nào?

Tôi tới thượng viện và đọc bài diễn văn với thông điệp “thay đổi ngay bây giờ”, nghĩa là chúng ta sẽ chiến đấu trong quốc hội để bầu vị tổng thống mới. Chúng tôi chấp nhận một lần nữa rằng cuộc bầu cử có thể là gián tiếp. Đó không phải là quyết định dễ dàng. Chúng tôi dự định sử dụng các công cụ của chế độ để làm cho nó thay đổi, nhưng nếu chúng tôi không thành công, chúng tôi có thể chấm dứt việc giúp chế độ giành được tính hợp pháp. Bữa ăn tối hôm đó, có bốn hay năm người chúng tôi, trong đó có Ulysses, tôi nói với ông rằng trong số những người có mặt, tôi là người trả giá cao nhất vì tôi phải lưu vong, mất chức trong trường đại học, bị tù, và là đối tượng mà họ đang đe dọa. Trong số những người có mặt không ai phải chịu tất cả những chuyện đó. Tôi nói rằng tôi không muốn thấy tình hình như thế này ở Brazil kéo dài thêm nữa, tôi tin rằng có cơ hội giành chiến thắng thông qua bầu cử gián tiếp và đem lại thay đổi. Ulysses, người mà tôi rất ngưỡng mộ, nói với tôi rằng chúng tôi phải quyết định nhưng ông sẽ không làm theo cách đó - ông tiếp tục tin rằng chúng tôi phải tiếp tục huy động dân chúng ủng hộ bầu cử trực tiếp.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Ứng cử viên của chúng tôi cho cuộc bầu cử trực tiếp là Ulysses, nhưng ông không tham gia tranh cử gián tiếp, bởi vì ông đã chiến đấu kiên cường với giới quân nhân, ông là người chỉ trích gay gắt và có ít phiếu hơn trong quốc hội. Montoro hoặc Tancredo có thể được quốc hội chấp thuận. Chúng tôi muốn bầu cử trực tiếp, nhưng khi chúng tôi thua, chúng tôi quyết định tiến hành cuộc chiến ngay bên trong quốc hội. Giai đoạn mới bắt đầu như thế đấy: Làm sao để ứng cử viên đối lập có thể giành chiến thắng trong cử tri đoàn? Ai sẽ là ứng cử viên? Có hai lựa chọn khả dĩ: Montoro và Tancredo.

Montoro là thống đốc Sao Paulo và nhận được nhiều phiếu phổ thông hơn Tancredo, nhưng trong quốc hội thì Tancredo lại có khả năng nhận được nhiều phiếu hơn. Quan điểm của ông được nhiều người, trong đó có giới quân nhân chấp nhận hơn, ông còn là người dễ thỏa hiệp hơn Ulysses. Một lần, khi tôi làm chủ tịch đảng ở Sao Paulo, Ulysses đến gặp tôi tại trụ sở chính, tọa lạc trong một biệt thự. Chúng tôi đến gần cửa sổ, cạnh một cái cây to. Ông hỏi tôi nghĩ gì về sự kiện là thư kí đối nội của Montoro đã trả lời phỏng vấn tạp chí Veja, trong đó ông ta nói rằng có thể ủng hộ Tancredo. “Ông tin rằng Montoro cũng ủng hộ Tancredo?”, ông hỏi. “Vâng”, tôi nói, “Tôi nghĩ vậy; muốn giành chiến thắng, thì phải là Tancredo”. Ông không thích câu trả lời của tôi, nhưng ông là một người tuyệt vời. Ông lại hỏi tôi, “Ông nghĩ, tôi phải làm gì?” Tôi nói rằng ông phải ủng hộ Tancredo và tiến hành chiến dịch tranh cử. Ông bảo rằng muốn nghe Montoro trực tiếp nói như thế.

Chúng tôi đã có một bữa ăn tối quá nặng nề ở ngay tòa lâu đài đó - có Montoro, thư kí đối nội của ông này, tên là Roberto Gusmao, Ulysses, và tôi - Ulysses đề nghị mọi người có mặt quanh bàn ăn nói ra ý nghĩ thực của mình. Ulysses nhận ra rằng đây là thời điểm của Tancredo. Ông là một người ghê gớm, và ông đồng ý nắm toàn bộ chiến dịch tranh của cử Tancredo. Muốn chiến thắng trong quốc hội thì cần phải có sự ủng rộng hơn, từ các phe phái khác, tức là của những người vốn vẫn ủng hộ chính phủ. Vì vậy, chúng tôi lập ra nhóm, gọi là Mặt trận Tự do (Frente Liberal), gồm những người tách ra khỏi đảng của chính phủ. Nhóm này đã đổi tên khi nền chính trị đa đảng được thiết lập. Trước đây nó có tên ARENA, sau này gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (Partido Democratico Social PDS), rồi sau này là Đảng Mặt trận Tự do (Partido del Frente Lberal - PFL ), thoát thai từ PDS.

Chúng tôi muốn Aureliano Chaves hay Marco Maciel làm ứng viên phó tổng thống, nhưng PFL quyết định đưa Jose Sarney lên làm ứng viên. Sarney vừa mới thôi chức chủ tịch PDS. Ông không phải là lựa chọn đầu tiên của chúng tôi. Tuy nhiên, quyết định đã được thông qua rồi. Nếu chúng tôi muốn Frente Liberal ủng hộ thì phải là Sarney, vì vậy phiếu bầu là Tancredo-Sarney. Cặp này rất khó được đảng PMDB của chúng tôi ủng hộ. Hơn 100 trong số 500 đại biểu có quyền biểu quyết tại đại hội phê duyệt cặp ứng viên Tancredo-Sarney đã bỏ phiếu chống. Tháng 1 năm 1985, Tancredo được bầu làm tổng thống trong cử tri đoàn.

Ulysses có ảnh hưởng đáng kể trong việc lựa chọn các bộ trưởng trong nội cách của tổng thống Tancredo vừa đắc cử. Tôi có quan hệ rất tốt với cả hai người. Một hôm, khoảng giữa tháng 1 và tháng 3, là lúc tổng thống mới nhậm chức, Tancredo đưa tôi đến văn phòng của ông ở Fundacao Getulio Vargas trong thành phố Brasilia và nói với tôi, theo cách của ông: “Tôi muốn mời ông làm bộ trưởng, nhưng tôi có bốn bộ trưởng người Sao Paulo, và nếu tôi bổ nhiệm ông, thì ông là người thứ năm”. Tôi trả lời rằng tôi không tha thiết chức vụ trong nội các. Tôi sẽ khó từ bỏ chức thượng nghị sĩ, vả lại, tôi muốn trở thành người lãnh đạo của PMDB ở thượng viện, nếu việc bổ nhiệm ứng cử viên khác làm lãnh đạo ở thượng viện, Pedro Simon, được thông qua. Simon đã được Tancredo bổ nhiệm, và người thay mặt đảng tôi tìm cách trở thành chủ tịch thượng viện, Humberto Lucena, đã thất cử, nhưng muốn tiếp tục nắm vị trí lãnh đạo trong đảng. Đó là lý do vì sao Tancredo đề nghị tôi từ bỏ.

Hai hoặc ba ngày trước khi chuyển quyền lãnh đạo đảng, Ulysses gọi điện cho tôi và nói rằng Tancredo vừa bổ nhiệm tôi làm lãnh đạo lực lượng thân chính phủ trong quốc hội. Tôi ngạc nhiên, vì không có chức như thế. Tôi gặp Tancredo để nói chuyện. Ông ở trang trại của mình cùng với Miguel Arraes. Ông ngừng thảo luận với Arraes và sau đó đi đến với tôi. Tôi hỏi ông việc bổ nhiệm là như thế nào. Ông bảo: “Đừng lo, tôi đã gọi điện cho thượng viện và nói với họ bỏ mấy bức tường để văn phòng của ông sẽ là văn phòng lớn nhất ở thượng viện. Thế là mọi người sẽ biết rằng ông đang có chức. Hơn nữa, làm nhà lãnh đạo quan trọng hơn làm bộ trưởng”. Rồi chúng tôi đi ăn trưa: Tancredo, vợ ông, Arraes, và tôi. Arraes là nhà lãnh đạo của phái tả, nhưng là người bạn rất thân của tôi và cũng là người bạn tốt của Tancredo.

Những bước thụt lùi

Việc tổng thống mới đắc cử Tancredo Neves bị bệnh và chết một cách đột ngột chắc chắn là một cú sốc đối với quá trình chuyển hóa dân chủ. Đã xảy ra những chuyện gì khi cần phải thay thế vị tổng thống dân cử đầu tiên sau khi bãi bỏ chế độ quân sự?

Đêm trước lễ nhậm chức, tôi ở đại sứ quán Bồ Đào Nha cùng với Mario Soares, Ulysses Guimaraes và các nhà lãnh đạo chính trị khác thì được thông báo qua điện thoại rằng Tancredo đã được đưa vào bệnh viện. Một số người trong chúng tôi đến bệnh viện để hỏi thăm tình hình. Đấy là phòng chờ. Vị bác sĩ đi ngang qua để làm phẫu thuật, không ai biết sẽ như thế nào. Lúc đó mọi người thảo luận ai sẽ tạm thời thay thế Tancredo. Sarney, một người rất khéo léo, nói rằng người đó không phải là ông, và đề xuất Ulysses, vì cho rằng ông vẫn chưa tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống và trên nguyên tắc, người thay thế tiếp theo là chủ tịch hạ viện, mà Ulysses lại đang là chủ tịch hạ viện. Nhưng Ulysses khẳng định rằng Sarney phải giữ chức tổng thống cho đến khi Tancredo khỏe hẳn. Cuộc thảo luận diễn ra ngay ở bệnh viện. Rồi họ quyết định đi tới nhà của chánh văn phòng phủ tổng thống, Leitao de Abreu. Ông này là luật gia cực kì bảo thủ, quê ở miền nam Brazil, nhưng là một người cực kì tử tế. Chính ông, khi làm thẩm phán ở Tòa án Tối cao, đã thông qua phán quyết cho phép tôi ứng cử thượng nghị sĩ vào năm 1978.

Ulysses, Jose Fragelli (chủ tịch thượng viện), tướng Leonidas (được bổ nhiệm làm bộ trưởng lục quân) và tôi, tất cả đều đến vào lúc một giờ sáng. Leitao de Abreu đang ngủ. Ông dậy và mặc quần áo, thậm chí đeo cả cà vạt, rất trịnh trọng, và mọi người bắt đầu thảo luận. Ông này cũng tin rằng Ulysses phải trở thành tổng thống lâm thời. Tôi nhắc lại trường hợp tổng thống mới đắc cử, Rodrigues Alves, từ trần trước khi nhậm chức và phó tổng thống lên thay vào năm 1918, nhưng tôi không biết rõ hoàn cảnh. Quyết định, về cơ bản do Ulysses và Leitao de Abreu đưa ra, với sự đồng ý của chủ tịch thượng viện, là dứt khoát: Jose Sarney sẽ lên thay Tancredo Neves.

Chúng tôi ra khỏi nhà Leitao de Abreu và đi đến quốc hội. Chúng tôi gặp nhau trong văn phòng chủ tịch thượng viện. Các nghị sĩ và các chính trị gia khác cũng tới. Đảng tôi rất tức giận vì họ muốn Ulysses chứ không phải Sarney làm tổng thống. Tôi nhớ rằng bài diễn văn của Afonso Arinos mang tính quyết định. Arinos là học giả về hiến pháp nổi tiếng, ngoài ra, ông còn là người viết tiểu sử của Rodrigues Alves. Ông nói rằng đấy phải là Sarney. Tôi không biết vì sao Ulysses lại muốn Sarney trở thành tổng thống. Có người nói rằng đó là vì ông đã tính rằng nếu ông nhận chức tổng thống, ông sẽ không thể làm ứng cử viên cho nhiệm kì tiếp theo. Sự thật là không ai biết rằng Tancredo sẽ chết: chúng tôi nghĩ chỉ cần thu xếp vấn đề tạm thời trong quãng một tuần lễ. Chúng tôi không bàn ai sẽ là tổng thống tương lai của Brazil; chúng tôi chỉ thảo luận ai có thể giữ chức vụ tạm thời, vàngăn ngừa được thiệt hại ở mức tối đa. Vì vậy, trên thực tế, Ulysses không lo về cuộc bầu cử tiếp theo, mà ông sợ gây ra phản ứng rất mạnh mẽ từ phía quân đội. Ulysses mâu thuẫn gay gắt với quân đội; ông là một người tầm cỡ, cho nên những vấn đề đang được tranh luận không bao giờ là những vấn đề nhỏ.

Điều đó cho thấy sự không chắc chắn của quá trình chuyển hóa. Chúng tôi đang giải quyết vấn đề kế thừa chính phủ quân sự, và chúng tôi rất thận trọng. Quá trình chuyển hóa rất phức tạp; phải suy tính rất nhiều vì không bao giờ biết chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày hôm sau. Phải có quan điểm tổng quát, nhưng phải luôn luôn nghĩ tới mục tiêu chính. Mục tiêu chính là giành được quyền lực, nhưng bằng cách nào? Trong những điều kiện nào? Khi nào? Điều kiện tiên quyết để có thể cai trị là gì? Liên minh với ai thì được chấp nhận, với ai thì không được chấp nhận? Và biện pháp thực hiện điều đó? Không bao giờ có sự chắc chắn nào hết. Trong trường hợp của chúng tôi, Tancredo chết và Sarney đã trở thành tổng thống dân sự đầu tiên, mà ông lại từng là một trong những nhà lãnh đạo chính trị của chế độ độc tài quân sự! Tình hình cực kỳ tế nhị và tiếp tục như thế trong suốt thời gian Sarney tại chức; Sarney thừa kế nội các do Tancredo cùng với Ulysses tạo ra. Ulysses là một nhà lãnh đạo lớn, còn Sarney thì không có đủ sức mạnh trong quốc hội, chí ít là ở đầu nhiệm kỳ.

Những quyết định quan trọng nhất mà Sarney đã làm, và làm sao duy trì được sự gắn kết của các lực lượng dân chủ?

Một lần, sau khi Sarney đã là tổng thống, Ulysses tổ chức một bữa ăn tối tại nhà ông với tất cả các vị bộ trưởng, chỉ thiếu bộ trưởng tài chính, Francisco Dornelles, vì ông này không phải đảng viên PMDB. Tôi tới nhà Dornelles để giải thích cho ông ta biết rằng bữa ăn tối không phải là cuộc họp nhằm chống lại ông. Ulysses mời tất cả các vị bộ trưởng tới, do đó, đây gần như là thách thức đối với Sarney. Có lúc Sarney không biết phải làm gì và trong khi Tancredo còn sống thì đấy là điều rất khó khăn. Sarney là – nhưng đồng thời chưa là – người nắm quyền, và đến lúc chúng tôi nói ông phải bắt đầu cai trị, bởi vì Tancredo không khỏi được. Nhưng ông lại do dự, và chúng tôi sợ. Sarney là người rất khéo léo. Tôi từ chức lãnh đạo hữu danh vô thực ở quốc hội, nhưng Sarney đề nghị tôi không từ chức vì dường như ông sẽ mất người, trước hết là vì ông cần người để đối thoại với cánh tả. Vì vậy, tôi ở lại làm người lãnh đạo của Sarney trong quốc hội trong vòng một năm. Đấy là giai đoạn rất khó khăn do những căng thẳng về chính trị giữa Sarney và Ulysses. Mỗi lần xảy ra khủng hoảng là Sarney lại tìm kiếm sự hỗ trợ của quân đội. Ông là người rất gần gũi với quân đội; ông biết rõ các tướng lĩnh.

Hiến pháp và hệ thống chính phủ mới

Bị áp lực, nhưng Sarney đã tự mình triệu tập Hội đồng Lập hiến. Đây là một trong những đòi hỏi của của phe đối lập: Thực sự thay đổi chế độ cũ và thay đổi hiến pháp do quân đội ban hành. Đó là thời điểm cực kì quan trọng đối với đất nước. Hội đồng Lập hiến tồn tại trong gần hai năm, từ đầu năm 1987 đến cuối năm 1988. Hầu hết phe đối lập cũ muốn có bản hiến pháp thực sự mang tính dân chủ xã hội, trong đó, tất cả các quyền và quyền tự do sẽ được đảm bảo và quyền xã hội sẽ được mở rộng. Sarney lập ra một nhóm bảo thủ hơn.

Trong số các vấn đề chính trị, các chủ đề lớn được đem ra tranh luận là có nên thay hệ thống tổng thống bằng hệ thống đại nghị hay không. Một số thành viên của PMDB là những người ủng hộ hệ thống đại nghị - đấy là những người mà sau này đứng ra thành lập đảng PSDB. Ulysses cũng như Sarney, tương tự như giới quân sự, là những người ủng hộ hệ thống tổng thống; tôi phải tìm họ để giải thích cách hoạt động của hệ thống đại nghị. (Tôi còn nhớ cuộc tranh luận gay go với bộ trưởng Lục quân). Cuộc thảo luận về hệ thống của chính phủ kết hợp với cuộc tranh luận về thời hạn cầm quyền của Sarney. Thời hạn kế thừa từ bản hiến pháp trước là sáu năm. Sarney không muốn quốc hội thay đổi thời gian cầm quyền của ông, nhưng hầu hết phe đối lập bảo vệ nhiệm kì bốn năm. Sarney đủ sức tập hợp đủ số người ủng hộ bảo đảm nhiệm kì kéo dài năm năm. Bộ trưởng thông tin trong nội các của ông, Antonio Carlos Magalhaes, có vai trò quan trọng trong công việc này. Tương tự như Sarney, Antonio Carlos Magalhaes, chúng tôi gọi là Magalhaes là nhân vật chính trị lớn thời chế độ quân sự.

Vai trò của giới quân nhân trong công cuộc cải cách hiến pháp

Tôi tin rằng giới quân nhân là những người biết suy nghĩ; họ đã bổ nhiệm một số cố vấn về quá trình cải cách hiến pháp. Đọc bản hiến pháp ta chỉ thấy có một điểm nói về quân đội mà thôi. Đã diễn ra cuộc thảo luận kéo dài nhằm xác định liệu các lực lượng vũ trang nên được giới hạn trong công tác bảo vệ lãnh thổ và biên giới quốc gia, hay còn có vai trò trong việc duy trì trật tự ở trong nước. Văn bản được Hội đồng Lập hiến thông qua qui định rằng, các lực lượng vũ trang có trách nhiệm bảo vệ đất nước và các cơ quan được thành lập phù hợp với hiến pháp và có trách nhiệm, theo yêu cầu của các cơ quan này, duy trì trật tự nội bộ. Ví dụ, chỉ được tuyên bố tình trạnh bị bao vây, theo yêu cầu của tổng thống, sau khi đã tham khảo ý kiến của hội đồng cộng hòa, và được sự uỷ quyền của Quốc hội.

Các quyền chính trị và xã hội

Chúng tôi có tiến bộ cả trong lĩnh vực các quyền chính trị lẫn quyền xã hội. Kết quả là đã có một bản hiến pháp tốt, mặc dù từ quan điểm kinh tế thì nó có tính dân tộc và dựa vào nhà nước và do đó không quan tâm đến việc giữ cho ngân sách cân đối. Đã xảy ra nhiều chuyện điên rồ trong Hội đồng Lập hiến; người ta đã lập ra nhiều khoản trợ cấp mà không có cơ sở để chi trả. Do đó, hiến pháp đã được tu chính khi tôi lên cầm quyền. Nếu không có những tu chính như thế thì không thể ổn định hay hiện đại hoá được nền kinh tế. Dù nói thế nào thì bản hiến pháp năm 1988 cũng thể hiện những thành tích về chính trị và xã hội. Tôi không biết nếu Tancredo làm tổng thống thì có thể tạo ra được bản hiến pháp có tính dân chủ xã hội như thế hay không. Ông ta là người bảo thủ hơn. Sarney cũng thế, nhưng ông không có sức mạnh chính trị đủ sức đối đầu với phần lớn phe đối lập cũ trong những cố gắng của mình nhằm “giải quyết món nợ về mặt xã hội” của chế độ quân sự.

Cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên

Các bầu cử trực tiếp tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa được tổ chức năm 1989, trong điều kiện kinh tế khá bất lợi đối với chính phủ. Trong giai đoạn cuối của chính quyền Sarney, chúng tôi đã tiến đến bờ vực của nạn lạm phát phi mã. Chính phủ đã rất suy yếu về chính trị. Lula và đảng PT; Brizola và đảng PDT đứng lên chống lại chính phủ; những người còn lại trong đảng PMDB thì ủng hộ chính phủ. Franco Montoro, Mário Covas, José Serra (người được bầu làm hạ nghị sĩ năm 1986) và tôi đã bỏ PMDB cách đấy một năm để thành lập đảng PSDB.

Ngay khi còn là thành viên PMDB, chúng tôi đã chiến đấu cho chế độ đại nghị và nhiệm kì của Sarney chỉ kéo dài bốn năm mà thôi. Chúng tôi thấy PMDB ngày càng trở thành lực lượng chính trị truyền thống, ngày càng gần gũi hơn với nhà nước. Với PSDB, chúng tôi đặt mục tiêu là xây dựng đảng dân chủ xã hội kiểu khác. Serra và tôi đặc biệt quan tâm đến sự cô lập của đất nước trong quan hệ với những thay đổi trong nền kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng tôi soạn một văn kiện có vai trò quan trọng trong chiến dịch của Mário Covas, ứng cử viên của chúng tôi trong cuộc bầu cử năm 1989. Văn kiện có tên là “Cú sốc tư bản chủ nghĩa” (The Capitalist Shock) và ủng hộ cho quan điểm nói rằng Brazil phải hợp nhất với thế giới.

Tuy nhiên, Collor de Melo đã thắng trong cuộc bầu cử này. Ông đã thắng trong vòng bầu cử thứ hai, ông đánh bại Lula. Đảng PSDB quyết định sẽ ủng hộ PT trong vòng bầu cử thứ hai. Tôi được giao nhiệm vụ đàm phán với PT. Họ đưa ra 13 điểm chính. Người đối thoại với tôi là Jose Dirceu và Plinio Sampaio, tôi biết rõ hai ông này. Họ ủng hộ cải cách ruộng đất không có sự can thiệp trực tiếp của chính phủ và đề nghị rằng báo chí cần được hội đồng biên tập viên định hướng. Đây là những đề nghị cấp tiến đến mức tôi quyết định thảo luận với nhà lãnh đạo cộng sản cũ là Joao Amazonas, chủ tịch của Đảng Cộng sản Brazil (Partido Comunista do Brasil) và là thành viên của liên minh ủng hộ Lula, để nói với ông rằng đây là cuộc bầu cử, chứ không phải là cuộc cách mạng. Chúng tôi không thỏa thuận được với nhau, vì vậy, đảng tôi quyết định bầu cho Lula, mặc dù chúng tôi không cam kết với chương trình này. Thật hồi hộp vì, nếu Lula thắng thì chúng tôi sẽ có chân trong thành phần chính phủ. Nhưng Collor đã thắng. Tất cả chúng tôi đều rất may mắn vì kết quả đó; Lula đã nói như vậy nhiều lần: May mà ông thua vì ông không thể cầm quyền với những tư tưởng mà ông có trong đầu vào lúc đó.

Hóa ra, đề tài chung trong quá trình chuyển hóa là có nhiều may mắn và bất ngờ?

Vâng. Khi những điều bất khả kháng ập đến, thì sẽ có những bất ngờ. Tôi luôn luôn nói như thế. Chính trị, tương tự như cuộc đời, là như thế. Collor là người rất thú vị. Ông đã từng tìm cách trở thành ứng cử viên phó tổng thống cho Covas. Bây giờ ông là người thận trọng hơn, nhưng lúc đó ông đã có những sai lầm rất lớn. Mới đây, Collor, hiện là thượng nghị sĩ, đã khuyên tổng thống hiện nay của chúng tôi, Dilma Rousseff: “Đứng làm những việc tôi đã làm, tôi coi thường Quốc hội”.

Collor muốn cai trị mà không cần các đảng phái. Ông đã đụng độ với người em trai, giữa năm 1992 ông này đã tung ra những cáo buộc nghiêm trọng về tham nhũng trong chính phủ. Tại quốc hội, một ủy ban được thành lập để xem xét những cáo buộc này. PT giữ vai trò đầu tầu trong ủy ban đó. Báo chí chống lại ông và vì không được sự ủng hộ của quốc hội, Collor bị đem ra luận tội. Đảng PSDB bỏ phiếu tán thành luận tội. Tôi không mong muốn kết quả như thế. Trong thời gian đó, có lần tôi đã nói rằng luận tội chẳng khác gì sử dụng bom nguyên tử: Tốt nhất là không sử dụng. Nhưng tình hình của Collor trở nên quá bất ổn.

Collor còn quá trẻ. Ông mở cửa kinh tế một cách vội vã và tiến hành một số thay đổi lớn mà không có bất kì cuộc thương lượng nào. Tất cả chúng tôi đều phê phán cách làm đó, nhưng tôi tin rằng nếu không có những thay đổi như thế thì nền kinh tế Brazil sẽ không bao giờ mở cửa ra với thế giới. Khi tôi làm bộ trưởng tài chính, sau khi Collor mất chức, các nhà công nghiệp và các nhà kinh tế học của Sao Paulo ủng hộ mạnh mẽ những biện pháp can thiệp nhiều hơn của nhà nước, bảo hộ nhiều hơn, trợ cấp nhiều hơn. Đấy là nền văn hóa giữ thế thượng phong, nhưng đấy không phải là hiện đại hóa. Collor đã tiến hành thay đổi và dỡ bỏ hoàn toàn bộ máy hành chính công. Ông có tư tưởng đầy sáng tạo, nhưng hành động lại không có ý nghĩa vì không tính đến những điều kiện thực tế. Thay đổi không xảy ra bằng những cú đột phá bất thình lình, phải tích lũy lực lượng thì mới giành được chiến thắng. Collor muốn thay đổi đất nước một cách đột ngột, nhưng không thành công. Ông đã đánh mất lực lượng ủng hộ trong quốc hội và bị bãi chức.

Vì vậy, Itamar Franco, phó tổng thống của Collor, trở thành tổng thống (1992-1995). Ông là nhân vật khác thường, ông từng là đối thủ của Tancredo ở bang Minas Gerais. Ông không muốn bầu cho Tancredo trong cử tri đoàn. Ông cũng từng là thành viên của PMDB nhưng không theo đường lối của đảng này; ông bầu theo cách của mình, và khi tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng ông sẽ ủng hộ Covas thì ông lại ủng hộ Collor. Tuy nhiên, ông là người tốt và đã thành lập được chính phủ liên minh. Các đảng PFL và PT vẫn nằm bên phía đối lập. Một người phụ nữ nổi bật thuộc đảng PT đồng ý trở thành bộ trưởng, và vì thế mà bà bị khai trừ.

Itamar Franco, một người có quan điểm dân tộc chủ nghĩa, lúc đó đang ngưỡng mộ tôi và gọi tôi tới văn phòng của ông khi đã biết rõ là hạ viện sẽ tiến hành luận tội Collor. Kết quả là, tổng thống bị bãi chức và phó tổng thống lên thay. Itamar sợ Sao Paulo vì ông là người xuất thân từ bang Minas, và trong cuộc nói chuyện, ông hỏi tôi dân Sao Paulo nghĩ ông là người như thế nào. Tôi nói với ông rằng tôi nghĩ ông là người bướng bỉnh, nhất quán về tư tưởng, và rằng lúc nào ông cũng muốn được tham gia vào tất cả mọi việc. Ông hỏi tôi liệu tôi có nghĩ ông là người ngốc nghếch hay không. Tôi nói không, nhưng tôi nghĩ rằng ông là người bướng bỉnh. Chúng tôi bắt đầu câu chuyện như thế, và khi chúng tôi kết thúc, ông cho tôi quyền trả lời phỏng vấn một tờ báo ở Sao Paulo để thể hiện ý tưởng rằng ông sẽ là một vị tổng thống biết rõ điều hơn lẽ thiệt.

Đối phó với khủng hoảng kinh tế

Vị tổng thống đầu tiên bị chết, còn người thứ hai thì bị luận tội, chắc chắn là rất khó ổn định tình hình kinh tế và củng cố quá trình chuyển hóa. Vị tổng thống mới giải quyết các vấn đề kinh tế như thế nào?

Trước hết, ông bổ nhiệm tôi làm bộ trưởng ngoại giao và bảy tháng sau thì bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính – bộ trưởng tài chính thứ tư trong vòng bảy tháng. Tình hình khá phức tạp; lạm phát gia tăng, còn chính phủ thì không tìm được cách giải quyết. Mọi người lại hi vọng, khi tôi nhậm chức bộ trưởng tài chính. Tôi biết và nói rằng chống lạm phát là ưu tiên, nhưng tôi không muốn áp dụng gói bình ổn mới cùng với kiểm soát giá cả, đóng băng tiền lương ..v.v.. Chúng tôi phải xây dựng gói chính sách khác.

Tôi lập ra một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học gần gũi với tôi. Nhiều người hoài nghi rằng chúng tôi sẽ không thể làm gì, ngoài việc kiềm chế tình hình. Họ không muốn lặp lại “sai lầm của quá khứ”, và họ sợ rằng Itamar sẽ không thể cưỡng lại sự cám dỗ, ông sẽ áp dụng liệu pháp sốc mới trong cuộc chiến chống lạm phát. Ngoài ra, Quốc hội cũng vừa trải qua cuộc khủng hoảng, vì giữa năm 1993 đã xảy ra vụ bê bối trong ủy ban ngân sách đầy quyền lực, liên quan tới nhiều đảng và nhiều nghị sĩ. Ví dụ, làm sao thông qua được những biện pháp điều chỉnh về mặt tài chính mà không có sự ủng hộ mạnh mẽ của tổng thống và của các nhà lãnh đạo đảng, những người đang lo phòng thủ trước vụ bê bối mà không ai biết nó sẽ kết thúc như thế nào (hay lúc nào)?

Tôi tìm cách thuyết phục các nhà kinh tế học rằng cuộc khủng hoảng đã cho chúng tôi cơ hội thông qua chương trình nghị sự với các biện pháp mà trong những tình huống bình thường thì quốc hội sẽ không chấp nhận. Nói về Itamar, ông là một chính trị gia khó lường, nhưng chúng tôi từng là đồng nghiệp ở thượng viện, chúng tôi khá hợp nhau, tôi biết tính ông và cách suy nghĩ của ông, còn ông thì tin tôi. Tôi cũng được đảng của mình ủng hộ, đặc biệt là Mário Covas và Tasso Jereissati, và đấy là nhân tố quyết định để thuyết phục các nhà kinh tế học làm việc với tôi về chương trình bình ổn kinh tế. Trong bối cảnh đó, đây không phải là ảo tưởng.

Tôi nhậm chức vào tháng 5, nhưng mãi đến tháng 12 năm 1993 chúng tôi mới công bố trước quốc dân chương trình điều chỉnh tài chính khẩn cấp và cơ chế tiền tệ đầy sáng tạo để chuyển sang đồng tiền mới. Điều sáng tạo là, đây là lần đầu tiên, có các nỗ lực ổn định nền kinh tế mà không có sự bất ngờ nào và hoàn toàn minh bạch về biện pháp thực hiện. Thành công phụ thuộc vào việc quốc hội thông qua chương trình điều chỉnh tài chính và sự tham gia một cách tự nguyện của các chủ thể kinh tế vào cơ chế tiền tệ, tức là những biện pháp sẽ dẫn tới việc phát hành đồng tiền mới.

Từ tháng 5 đến tháng 12 đã xảy ra rất nhiều vấn đề. Lạm pháp vẫn cao và có xu hướng gia tăng. Áp lực cả trong chính phủ lẫn từ xã hội đòi bộ Tài chính phải hành động ngay lập tức cũng luôn luôn gia tăng. Itamar tức giận trước một vấn đề khá nhỏ với thống đốc Ngân hàng Trung ương và bãi chức ông này. Tôi lợi dụng dịp đó để đưa thêm người vào nhóm của mình, và tôi đã thuyết phục được tổng thống bổ nhiệm Pedro Malan làm thống đốc Ngân hàng Trung ương. Itamar cũng gặp vấn đề với các chủ tịch ngân hàng Ngân hàng phát triển kinh tế và xã hội quốc gia (BNDES) và tôi đã thuyết phục ông bổ nhiệm Persio Arida thay ông này.

Persio được coi là một trong những người “cha” của Kế hoạch Cruzado, làm cho chính quyền Sarney thu phục được lòng dân trong suốt một năm, nhưng cuối cùng đã thất bại. Itamar có thể đã thấy Persio chính là tín hiệu là tôi có thể đã sẵn sàng tung ra kế hoạch tương tự như Kế hoạch Cruzado. Đó là lý do vì sao ông không phản đối việc bổ nhiệm Persio làm chủ tịch BNDES. Lúc đó tôi không biết rằng Persio kịch liệt phản đối Kế hoạch Cruzado, nhưng ông và Andre Lara Resende cùng với Edmar Bacha sẽ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng lí thuyết cho cơ chế chuyển đổi sang đồng tiền được coi là thực tế. Tôi có trách nhiệm nói chuyện với quốc dân, để giải thích những việc chúng tôi dự định làm, để thuyết phục Itamar rằng có rủi ro, nhưng chúng tôi đang đi đúng hướng, và để đàm phán việc thông qua những biện pháp điều chỉnh tài chính với các đảng phái.

Chúng tôi thông qua các biện pháp điều chỉnh tài chính vào tháng 2, rồi chuyển sang việc đổi tiền. Chúng tôi chưa quyết định thời gian. Còn bỏ ngỏ và phụ thuộc vào mức độ tin tưởng của các chủ thể kinh tế vào đồng tiền Unidade Real de Valor (Unidade Real de Valor, tiếng Bồ Đào Nha: Đơn vị giá trị thực), -một loại tiền tệ (song hành với đồng cruzeiro, mà không phụ thuộc vào mức độ lạm phát của cruzeiro, với tỉ lệ lạm phát hơn 1.200% một năm – ND) không bị lạm phát. Giá hàng hóa và dịch vụ được tính theo URV nhưng thanh toán bằng cruzeiro, đồng tiền đang bị lạm phát, giá trị của cruzeiro được chúng tôi điều chỉnh mỗi ngày. Chúng tôi loại bỏ được lạm phát bằng những biện pháp riêng của mình. Nhưng chúng tôi không biết việc chấp nhận URV sẽ kéo dài bao lâu, và theo luật thì tôi phải rời khỏi bộ vào tháng 4 để trở lại văn phòng. Tôi sợ rằng việc mình đi sớm có thể làm một số người mất tin tưởng vào sự thành công của chương trình bình ổn.

Trong quá trình này, đã bắt đầu hình thành liên minh giữa PSDB và PFL, và liên mình sẽ có vai trò quan trọng nhất trong việc tôi ứng cử chức tổng thống. Itamar muốn tôi trở thành ứng cử viên. Ban đầu tôi rất phản đối. Nhưng ông nói đúng. Nếu chương trình bị bỏ rơi về mặt chính trị, thì đấy sẽ là tai họa cho toàn bộ cố gắng nhằm ổn định kinh tế. Lula, được mọi người yêu thích trong tất cả các cuộc thăm dò, phản đối trực diện chương trình này. Ông, đảng của ông, và công đoàn liên kết với CUT (Trung tâm công nhân hợp nhất) gọi Kế hoạch Thực (Real Plan) một cách giễu cợt là “bịp bợm mùa bầu cử”. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, họ phải trả giá và bị thua trong kì bầu cử tổng thống vào tháng 10 năm 1994.

Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Ông xử lí mối quan hệ với quân đội trước và trong giai đoạn cầm quyền như thế nào để buộc họ chấp hành chỉ đạo của các cơ quan dân sự?

Tôi có quan hệ tốt với các bộ trưởng thuộc lực lượng võ trang dưới thời Itamar. Xin nhắc đến một tình tiết để chứng tỏ điều này. Trong ngày hội vào tháng 2 năm 1994, Itamar đi Rio để tham dự cuộc diễu hành của trường dạy múa samba. Một nghị sĩ đê tiện đã bố trí một phụ nữ mặc sắc phục nữ cảnh sát một cách khêu gợi đi vào lô dành cho tổng thống, khi ông đang ngồi trong đó để xem chương trình. Đấy là âm mưu được sắp đặt trước. Các nhiếp ảnh gia, ngồi bên dưới lô dành cho tổng thống, chụp được hình ảnh người phụ nữ bên cạnh tổng thống. Itamar yêu bà ta. Ngày hôm sau ông chuẩn bị gọi điện cho bà ta ngay trước ống kính truyền hình.

Tôi ở Brasilia, còn tướng Cahim, bộ trưởng trong chính phủ, tìm tôi và nói rằng ông là đại diện cho các bạn đồng ngũ trong các lực lượng vũ trang. Họ cảm thấy bị xúc phạm trước hành vi của tổng thống, và ông ta nói với tôi rằng ông và các bạn đồng ngũ ủng hộ việc quốc hội thay thế. Họ nghĩ rằng có biện pháp hợp pháp để thay thế tổng thống bằng thượng nghị sĩ Jarbas Passarinho, một người đáng kính, một cựu đại tá quân đội và là người bảo thủ. Họ muốn biết tôi có đồng ý tiếp tục làm việc trong tình hình mới hay không. Tôi đã buộc họ dừng lại và không bao giờ nói với Itamar kế hoạch hạ bệ ông do các bộ trưởng quân sự đưa ra. Lúc đó, quân đội đã không còn sức mạnh như dưới thời Sarney, tức là lúc khởi đầu của quá trình trở về với chế độ dân chủ. Tôi đề nghị với Itamar rằng ông nên tìm hiểu thêm về những chuyện đang xảy ra trong giới quân nhân, rằng mấy thứ xấu xa do bức ảnh và cú điện thoại, cần phải điều tra xem liệu các sĩ quan quân đội có tham gia vào việc âm mưu đưa ông tới Rio hay không..v..v.. Ông đã không làm những việc đó, nhưng cũng không từ chức. Ông là một người tốt; cuối cùng, mọi người đều biết là ông ngây thơ, và ông đã không hành động với bất kì động cơ tiêu cực nào.

Khi được bầu làm tổng thống nước cộng hòa, tôi quyết định thành lập bộ Quốc phòng. Tôi gọi cho tất cả các sĩ quan quân đội mà tôi sẽ bổ nhiệm làm bộ trưởng Hải quân, bộ trưởng Không quân, bộ trưởng Lục quân, và chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, và nói với họ rằng tôi sẽ bổ nhiệm họ với điều kiện là họ phải hợp tác trong quá trình thành lập bộ Quốc phòng mới. Phải mất ba năm mới thành lập xong bộ này. Chỉ có một vấn đề cần phải giải quyết. Đấy là, tôi tin là thế, vào năm 1998, giai đoạn cuối cùng của quá trình thành lập bộ Quốc phòng, khi tôi đang cố gắng lựa chọn những người chỉ huy các bộ phận của lực lượng vũ trang sẽ phục vụ dưới quyền bộ trưởng quốc phòng, nhưng lại là quan chức dân sự. Bộ trưởng Hải quân xin nói chuyện với tôi tại dinh tổng thống; ông ta mặc quân phục. Ông muốn trở thành người đứng đầu lực lượng Hải quân. Tôi nói với ông ta rằng tôi không bổ nhiệm ông ta, mà muốn bổ nhiệm nhân vật số hai trong Hải quân, đô đốc Lacerda. Tướng Alberto Cardoso, một bộ trưởng trong nội các quân sự, thay mặt tôi mời Lacerda, nhưng ông ta nói rằng sẽ không nhận chức vụ này. Vì vậy, tôi gọi cho Cardoso một lần nữa và nói với ông ta: “Chúng ta sẽ bổ nhiệm vị đô đốc thứ ba, Sergio Chagastelles. Nếu ông ta cũng nói “không”, thì sẽ bỏ tù cả ba người, bởi vì đấy là bất phục tùng, chứ không phải là từ chối”. Ứng cử viên thứ ba chấp nhận chức vụ này.

Năm 1999, sau khi bộ Quốc phòng được thành lập, tôi đã buộc người chỉ huy lực lượng Không quân, thiếu tướng Walter Brauer, từ chức vì những lời tuyên bố với hãng truyền hình Globo làm cho người ta có ấn tượng rằng ông ta đang xem xét lại thẩm quyền của Bộ trưởng quốc phòng, nhưng lại là quan chức dân sự. Tôi gọi cho người đứng đầu bộ chỉ huy cao cấp của lực lượng không quân và nói với ông ta rằng tôi đã bãi chức Brauer vì những điều ông ta nói với các phóng viên. Không có gì xảy ra cả, các sĩ quan đang tại ngũ không có phản ứng gì. Một vài sĩ quan hồi hưu đã tổ chức buổi tiệc và mời ông này, như một cách thể hiện thái độ ủng hộ.

[1] Trao cho tổng thống quyền buộc các cơ quan lập pháp cấp quốc gia và cấp bang nghỉ họp, để nắm quyền lập pháp, quyền kiểm duyệt báo chí, và đình chỉ habeas corpus (lệnh buộc phải đem người bị bắt ra toà để xem nhà nước có quyền giam giữ người ấy hay không) đối với những tội “có động cơ chính trị”.

No comments:

Post a Comment