Richard
Pipes
Phạm Nguyên Trường dịch
___
Xem xét vụ cướp chính quyền của những người cộng sản trong hoàn
cảnh lịch sử lúc đó ta sẽ cảm thấy kinh ngạc vì sự liều lĩnh của họ. Tất cả các
lãnh tụ cộng sản đều chưa hề có kinh nghiệm quản lý hành chính trong bất kì
lĩnh vực nào, thế mà họ sẵn sàng nhận trách nhiệm quản lý đất nước có diện tích
lớn nhất thế giới. Không hề có kinh nghiệm kinh doanh, nhưng họ lập tức tiến
hành quốc hữu hoá toàn bộ nền kinh tế và sẵn sàng nhận trách nhiệm quản lý nền
kinh tế đứng thứ năm thế giới. Về nguyên tắc, họ coi giai cấp tư sản và các
điền chủ là kẻ thù, còn trên thực tế, đa số nông dân và trí thức cũng bị coi là
kẻ thù của giai cấp công nhân công nghiệp, họ tự nhận mình là người đại diện
của giai cấp này. Công nhân chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, nhiều nhất cũng chỉ từ một
đến hai phần trăm dân số. Công nhân đã ít như thế, mà số công nhân theo
Bolshevik còn ít hơn nhiều: ngay trước cuộc đảo chính tháng 11, chỉ có 5,3%
công nhân là đảng viên Bolshevik[1].
Điều đó có nghĩa là, chính quyền mới không có sự lựa chọn nào khác ngoài chế độ
chuyên chính, nhưng đấy không phải là chuyên chính vô sản mà là chuyên chính
đối với giai cấp vô sản và tất cả các giai cấp khác. Sau một thời gian, nền
chuyên chính này đã biến thành chế độ toàn trị. Như vậy nghĩa là, chuyên chính
xuất phát từ bản chất của cuộc đảo chính Bolshevik. Nếu những người cộng sản
muốn giữ quyền lực thì họ buộc phải cai trị bằng những biện pháp chuyên chế tàn
bạo, không bao giờ họ dám buông lỏng. Và đây cũng trở thành nguyên tắc của các
chế độ cộng sản sinh ra sau này.
Lenin hiểu là đang áp đặt cho đất nước một chế độ độc tài cực kì
tàn nhẫn, nhưng lương tâm ông ta không hề cắn rứt. Lenin định nghĩa mọi chế độ
“chuyên chính”, trong đó có “chuyên chính vô sản” là “chính quyền dựa trực tiếp
vào vũ lực, không bị hạn chế bởi bất cứ luật lệ nào, không bị gò bó bởi bất cứ
nguyên tắc nào”[2].
Ông ta sẵn sàng áp dụng những biện pháp khủng bố khốc liệt nhất nhằm tiêu diệt
kẻ thù cũng như doạ dẫm dân chúng. Ông ta làm như thế một phần là do thái độ
thờ ơ đối với đời sống của con người và một phần là do lịch sử đã dạy rằng các
cuộc cách mạng trong quá khứ thường thất bại là vì đã dừng lại ở giữa đường,
không tiêu diệt hết kẻ thù giai cấp, để cho chúng tập hợp lại lực lượng. Bạo
lực – dùng bạo lực một cách phổ biến và tàn bạo (hình dung từ thường được ông
ta sử dụng) - sẽ tạo nền móng cho chế độ mới. Nhưng ông ta tin rằng bạo lực sẽ
không kéo dài: có lần ông ta đã dẫn lời Machiavelli: “Nếu vì mục đích chính trị
mà cần áp dụng một số biện pháp tàn bạo thì phải làm một cách kiên quyết và
thật nhanh vì quần chúng không thể chịu nổi bạo lực trong một thời gian dài”.
Trái ngược với dự đoán của ông ta, bạo lực đã trở thành đặc điểm thường trực
của chế độ do ông ta lập nên.
Thái
độ quyết liệt và năng lực hoạt động của Lenin trái ngược hoàn toàn với sự bất
lực của chính phủ lâm thời vừa bị lật đổ. Ông ta lập
tức quyết định ngày bầu cử quốc hội. Đảng Bolshevik chỉ nhận được 24% số phiếu,
trong khi Đảng Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa có số phiếu bầu hơn gấp hai lần.
Nhưng đấy không phải là điều ông ta bận tâm: tuyên bố rằng đa số binh lính và
công nhân bầu cho Đảng Bolshevik, ông ta chỉ để cho quốc hội vừa được bầu họp
đúng một ngày và sau đó giải tán. Chính phủ do ông ta thành lập, gọi là Xô Viết
Dân uỷ, gồm toàn đảng viên Bolshevik. Thực chất, đây chỉ là cơ quan-bình phong,
có trách nhiệm thực hiện các mệnh lệnh của Đảng Bolshevik mà thôi. Ông ta bãi
bỏ tất cả các thủ tục pháp lý, chuyển công việc xét xử vào tay các toà án cách
mạng, do những người không có kiến thức, nhưng “giác ngộ cách mạng” lãnh đạo,
cũng như vào tay cảnh sát mật vừa được thành lập, lấy tên là Uỷ ban Khẩn cấp
(Cheka). Khủng bố bắt đầu ngay từ khi Lenin vừa cướp được chính quyền.
Nhận
thức được rằng việc thành lập một cơ sở chính trị vững chắc và thực hiện cương
lĩnh cách mạng phải cần thời gian, tháng 3 năm 1918,
Lenin hạ lệnh cho các cộng sự kí ở Brest-Litovsk một hoà ước rất mất lòng dân
với Đức, Áo, Thổ và Bulgaria, nhường cho các nước này những vùng lãnh thổ rộng
lớn.
Ông ta phát động cuộc nội chiến như là một cách khơi mào cách mạng
thế giới. Sau này, những người Bolshevik đã gán cho bọn phản cách mạng trong và
ngoài nước là đã gây ra cuộc nội chiến làm tan hoang nước Nga và giết chết mấy
triệu người. Nhưng như chúng ta đã thấy, từ trước năm 1917, việc biến chiến
tranh giữa các nước thành nội chiến giữa các giai cấp là một trong những luận
điểm cơ bản của đường lối Bolshevik. Trotsky đã công nhận như thế khi viết:
“Chính quyền Xô Viết là một cuộc nội chiến có tổ chức”. Có thể nói rằng, những
người Bolshevik cướp chính quyền ở nước Nga là để phát động cuộc nội chiến.
Lenin và tờ Sự Thật
Ban đầu, Lenin đã sử dụng các khẩu hiệu vô chính phủ nhằm tranh
thủ sự ủng hộ hay ít nhất cũng vô hiệu hoá giai cấp công nhân và nông dân. Ông
ta khuyến khích nông dân tịch thu và chia nhau ruộng đất không chỉ thuộc quyền
sở hữu của nhà nước hay địa chủ mà cả ruộng đất của những người nông dân khác.
Sắc lệnh, công bố vào ngày đảo chính, tuyên bố quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất,
nhưng tạm thời không động đến phần đất do nông dân canh tác. Ông ta khuyến
khích công nhân chiếm các nhà máy xí nghiệp; đây là lập trường của các công
hội, chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa Marx. Nhưng đấy chỉ là những biện pháp
tạm thời, một khi chính quyền được củng cố ông ta sẽ đoạn tuyệt ngay. Vì mục
đích cuối cùng của ông ta là quốc hữu hoá toàn bộ nhân tài vật lực của quốc
gia, nhằm buộc toàn bộ nền kinh tế phải tuân theo một kế hoạch duy nhất.
Chúng ta sẽ không dừng lại lâu trong giai đoạn lịch sử từ năm 1917
đến năm 1920. Chỉ xin nói rằng, cộng sản - từ năm 1918, những người Bolshevik
tự gọi mình như thế - đã thắng, một phần vì kiểm soát được các khu vực dân cư
đông đúc với những nguồn lực to lớn về công nghiệp (và quân sự), một phần vì
các nước phương Tây đã không dành cho “Bạch vệ” một sự ủng hộ đúng mức. Trong
thời kì nội chiến và sau đó không lâu, chế độ của Lenin đã giành lại phần lớn
vùng biên thuỳ như Ukraine, Caucasus và Trung Á, là những vùng trước đó đã tách
khỏi Nga. Các vùng này được hợp nhất với Nga và hình thành Liên bang Cộng hoà
Xô viết Xã hội Chủ nghĩa vào năm 1924. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Nga, với
tổng hành dinh ở Moskva, đã quản lý tất cả các vùng đất của đế chế vừa được
thành lập. Đại diện của các tổ chức Đảng có mặt trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống, thực hiện nhiệm vụ “mao mạch” của chế độ - theo cách nói của
Mussolini, kẻ đã xây dựng chế độ phát xít theo mô hình của Lenin. Không một tổ
chức xã hội nào có thể tránh được sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhà
nước độc đảng đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện như thế đấy.
________________
Những người Bolshevik đã giữ được chính quyền, nhưng lại chịu thất bại trong hầu hết các lĩnh vực khác. Hoá ra, cuộc sống chẳng ăn nhập gì với lý thuyết. Nhưng họ không chịu công nhận rằng mình sai: nếu công việc diễn ra không như ý, họ không những không chịu nhân nhượng mà còn sử dụng bạo lực điên cuồng hơn. Việc công nhận sai lầm nhất định sẽ làm lung lay toàn bộ cơ sở học thuyết, vì họ cho rằng các bộ phận cấu thành học thuyết đã được kiểm chứng một cách khoa học.
Trước hết xin nói về nhà nước.
Việc xuất hiện bộ máy quan liêu đồ sộ, tự tư tự lợi và không thể kiểm
soát nổi, là một trong những thất vọng của Lenin. Theo lý thuyết Marxist, nhà
nước chỉ là công bộc của giai cấp nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, bản thân
nhà nước không có quyền lợi riêng tư nào. Chỉ có thể nói đấy là một sự ngu tín,
vì lịch sử thế giới, kể từ thời các Pharaoh Ai Cập, có đầy dẫy các bằng chứng,
chứng tỏ rằng các viên chức nhà nước quan tâm trước hết đến quyền lợi của chính
mình, họ đã từng tạo ra những nhóm lợi ích có quyền lực, nhiều khi còn mạnh hơn
cả giai cấp hữu sản. Sự phát triển với tốc độ chóng mặt của bộ máy quan liêu Xô
Viết, do Lenin tạo ra, đã làm ông ta phát hoảng. Cùng với việc Đảng Cộng sản
nắm quyền lãnh đạo toàn diện đời sống của đất nước, quốc hữu hoá toàn bộ nền
công nghiệp, hệ thống bán buôn và bán lẻ, phương tiện giao thông vận tải và
dịch vụ, văn hoá và giáo dục thì tầng lớp viên chức thay thế cho các chủ sở hữu
tư nhân và các nhà quản lý cũ cũng phát triển theo cấp số nhân. Chỉ xin dẫn ra
một ví dụ, đấy là tổ chức chịu trách nhiệm quản lý ngành công nghiệp, gọi là
Hội đồng Kinh tế Tối cao, vào năm 1921 đã có hai trăm năm mươi ngàn viên chức,
trong khi sản xuất công nghiệp chỉ bằng một phần năm năm 1913. Năm 1928, bộ máy
quan liêu của Đảng và nhà nước có tổng số 4 triệu viên chức.
Phần lớn những người chui vào hàng ngũ công chức Xô Viết - nhiều
người đã từng phục vụ chế độ cũ – là vì làm ở đây thì được an toàn và đủ sống.
Chẳng bao lâu sau, họ đã tạo thành một giai tầng đặc biệt, giai tầng đặt quyền
lợi tập thể của mình cao hơn không chỉ quyền lợi của toàn dân, mà còn cao hơn
cả quyền lợi của chủ nghĩa cộng sản, mà trên danh nghĩa họ phải phục vụ.
Joseph Stalin là người đầu tiên nhận thức được rằng có thể sử dụng
sức mạnh tiềm tàng của bộ máy quan liêu Xô Viết làm vũ khí nhằm củng cố địa vị
của mình. Ông ta là người Georgia, một người học hành không đến nơi đến chốn,
đã từng bị đuổi khỏi trường dòng, nhưng được Lenin tin cậy vì có biệt tài trong
lĩnh vực tổ chức và rất trung thành với cá nhân lãnh tụ. Khác với Trotsky, hay
Kamenev, Zinoviev; Stalin luôn luôn tôn trọng các ý kiến của Lenin và trong khi
những người kia viết sách hay diễn thuyết thì ông ta lặng lẽ quan sát tầng lớp
cán bộ. Lenin ngày càng đưa ông ta lên các chức vụ cao hơn, đến năm 1922 thì
đặt ông ta vào chiếc ghế Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tạo cho ông
ta điều kiện kiểm soát toàn bộ công tác cán bộ của Đảng.
Stalin sử dụng ngay vị trí của mình để thăng chức cho những người
trung thành với mình, những người mà ông ta có thể dựa dẫm trong cuộc đấu tranh
giành quyền lãnh đạo, cuộc tỉ thí này nhất định sẽ diễn ra nay mai vì sức khoẻ
của Lenin đang xấu đi từng ngày. Chính ông ta là người tạo ra thiết chế gọi là nomenclatura: tầng lớp cán bộ cộng sản
có thể được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền và
hưởng các ưu đãi, như được vào những cửa hàng đặc biệt, được chữa trong những
bệnh viện cao cấp, có các khu nghỉ mát riêng, thậm chí có cả thợ may và nghĩa
địa riêng. Chính việc tạo ra tầng lớp ưu tú đặc quyền đặc lợi đó đã giữ cho chế
độ cộng sản tồn tại trong suốt bảy mươi năm, buộc giai cấp những kẻ làm công
việc quản lý đó phải coi việc bảo vệ chế độ là quyền lợi sống còn của mình.
Nhưng chính sách đó lại đã biến lý tưởng cộng sản về bình đẳng xã hội thành
những khẩu hiệu rỗng tuếch.
Việc quản lý nền kinh tế cũng làm những người Bolshevik thất vọng
không kém. Sách báo xã hội chủ nghĩa bảo họ rằng chủ nghĩa tư bản, chỉ chạy
theo lợi nhuận, không thể hữu hiệu bằng nền kinh tế do nhà nước nắm độc quyền.
Họ cho rằng xí nghiệp càng lớn thì càng hiệu quả. Họ còn tin rằng không dùng
tiền vẫn có thể quản lý được nền kinh tế.
Nhưng hoá ra tất cả các luận điểm đó đều sai. Mọi cố gắng nhằm ép
buộc nền kinh tế tuân theo một kế hoạch duy nhất đều thất bại. Việc đưa công
nhân, rồi sau đó là các cán bộ Đảng nắm quyền quản lý xí nghiệp đã làm cho năng
suất lao động ngày một giảm đi. Dùng các uỷ ban khẩn cấp (Cheka) để bóp chết tư
thương cũng không đạt kết quả, vì người sản xuất và thương lái đã tìm mọi cách
lách luật; thị trường tự do mà những người cộng sản coi là bản chất của chủ nghĩa
tư bản và quyết tâm tiêu diệt, không những không biến mất mà đi vào hoạt động
chợ đen. Chẳng bao lâu sau, nền kinh tế ngầm đã lớn hơn nền kinh tế chính thức.
Lạm pháp phi mã, do cố tình tung ra một lượng tiền giấy quá lớn, đến năm 1923
người dân có tiền gửi tiết kiệm đã hoàn toàn trắng tay, giá cả so với năm 1917
đã tăng hơn 100 triệu lần. Nhưng bãi bỏ tiền tệ lại làm cho ngân sách và việc
thanh toán giữa các xí nghiệp không thể thực hiện được.
Cách quản lý mang tính nghiệp dư như thế, cộng với nội chiến, đã
dẫn đến kết quả là tất cả các chỉ tiêu sản xuất đều sụt giảm một cách không thể
cứu vãn được. Năm 1920, tổng sản phẩm của ngành công nghiệp nặng chỉ bằng 20%
năm 1913; than còn 27%, sắt 2,4%. Năm 1921, số công nhân làm việc trong ngành
công nghiệp giảm một nửa, mức sống của họ giảm chỉ bằng một phần ba trước chiến
tranh[3].
Một chuyên gia cộng sản nói rằng kinh tế Liên Xô giai đoạn 1917-1920 đã rơi vào
thảm hoạ “chưa từng có trong lịch sử loài người”[4].
Trong điều kiện tan hoang như thế, bản năng sinh tồn đã mách bảo
Lenin là phải sử dụng các đội hành quyết. Isaak Steinberg, một đảng viên cách
mạng xã hội cánh tả, có thời là dân uỷ tư pháp trong chính phủ Bolshevik đã mô
tả một cuộc họp của Hội đồng Dân uỷ vào tháng 2 năm 1918 như sau: Lenin đưa ra
dự thảo nghị định “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy!”, trong đó có yêu cầu bắn
“tại trận”, nghĩa là không cần xét xử, một loạt tội phạm được gọi một cách
chung chung là “gián điệp của kẻ thù, bọn ăn cắp, bọn lưu manh, tuyên truyền
phản cách mạng và gián điệp của Đức”. Steinberg phản đối nghị định vì nó chứa
đựng “mối đe doạ… những vụ khủng bố mà hậu quả không thể lường được”.
Lenin nhân danh chính nghĩa của cách mạng, bác bỏ phản đối của
tôi. Quá tuyệt vọng, tôi phải kêu lên: “Thế thì chúng ta còn dùng tên Dân uỷ Tư
pháp làm gì? Hãy gọi thẳng là Dân uỷ Huỷ diệt Xã hội là xong”. Mặt Lenin bỗng
tươi tỉnh hẳn lên, ông ta bảo: “Nói hay quá… đúng là phải như thế đấy… nhưng chúng
ta không thể nói như thế”[5].
Sụt giảm sản lượng lương thực là bi đát nhất.
Như đã nói bên trên, cộng sản cũng như những người Marxist khác,
coi nông dân là giai cấp tiểu tư sản, kẻ thù không đội trời chung của giai cấp
công nhân, mặc dù đa số công nhân Nga xuất thân từ nông thôn và vẫn giữ quan hệ
gắn bó với nông thôn. Cộng sản tuyên chiến với nông dân nhằm hai mục đích: cướp
đoạt lương thực cho thành phố và Hồng quân và mở rộng quyền lực của mình về
nông thôn là vùng mà cuộc đảo chính chưa hề động chạm tới.
Mùa hè năm 1918, Moskva bắt đầu chiến dịch tịch thu lúa mì, nông dân
không chịu bán lúa mì cho chính phủ vì giá quy định quá thấp. “Uỷ hội dân
nghèo” được thành lập tại các làng xã, các uỷ hội này sẽ giúp chính phủ tước
đoạt những người nông dân có của ăn của để (kulak), bị nghi là có hành vi che
giấu lương thực. Uỷ hội dân nghèo sẽ được chia một phần lương thực tước đoạt
được. Moskva còn gửi về nông thôn các đội vũ trang để thu gom “lương thực
thừa”. Các vụ đụng độ giữa nông dân, nhiều người đã từng đi lính, với các đơn
vị thu gom lương thực diễn ra thường xuyên. Nhiều vùng rơi vào nội chiến, một
cuộc nội chiến còn thảm khốc hơn cả chiến tranh giữa Hồng quân và Bạch vệ. Bất
cứ người nông dân nào chống lại chính quyền Xô Viết cũng đều bị Lenin gọi là
kulak, ông ta nổi điên và hạ lệnh tiến hành những vụ tàn sát quy mô lớn. Chỉ
xin dẫn ra dưới đây hai chỉ thị của ông ta, cả hai đều diễn ra vào tháng 8 năm
1918, chỉ thị thứ nhất lấy từ bài nói chuyện của ông ta với công nhân, chỉ thị
thứ hai là một tài liệu mật gửi cho các cán bộ Đảng tỉnh Penza:
Kulak căm thù chính quyền Xôviết và sẵn
sàng bóp cổ, sẵn sàng cắt cổ hàng trăm ngàn công nhân… Hoặc là kulak cắt cổ rất
nhiều công nhân hoặc là công nhân đập tan cuộc bạo loạn của kulak, cuộc bạo
loạn của thiểu số dân chuyên nghề ăn cướp chống lại chính quyền của nhân dân
lao động… Kulak là bọn bóc lột thô lỗ nhất, tàn bạo nhất, man rợ nhất… Bọn uống
máu người đó đã làm giàu trên sự đói khổ của nhân dân trong thời chiến… Bọn
nhện độc đó đã béo lên vì bóc lột những người nông dân bị phá sản trong thời
chiến, béo lên vì bóc lột những người công nhân đói khát. Những con đỉa đó đã
hút máu quần chúng lao động, chúng càng giàu thì công nhân trong các thành phố
và các công xưởng càng đói khát thêm. Những con qủy hút máu người đó đã giành
được các khu đất của địa chủ, chúng tiếp tục nô dịch những người nông dân nghèo
khổ.
Hãy thẳng tay với bọn kulak! Hãy giết chết chúng![6]
Hãy thẳng tay với bọn kulak! Hãy giết chết chúng![6]
Các đồng chí! Phải đàn áp cuộc bạo loạn của kulak ở năm
huyện một cách không khoan nhượng.
Lợi ích của cách mạng đòi hỏi phải làm như thế vì bây giờ là “trận quyết định với
kulak’” Cần phải cho mọi người thấy.
1.Treo cổ (nhất định phải treo cổ để cho dân chúng thấy) ít nhất là 100 tên kulak, bọn nhà giàu, bọn hút máu người.
2. Công bố tên tuổi bọn chúng.
3. Tịch thu tất cả lúa mì của chúng.
4. Bắt con tin, như bức điện hôm qua đã nói. Phải làm
sao để cách cả trăm dặm nhân dân vẫn nhìn thấy, run sợ, biết và thét
lên: Bóp cổ bọn hút máu người, bọn kulak.
Điện cho biết đã nhận được và quá trình thực hiện.
Lenin.
P/S. Phải tìm cho được những người thực sự cứng rắn[7].
Đáp lại những cuộc đàn áp chống lại nông dân, cả người giàu lẫn
người nghèo, là sự sụt giảm diện tích canh tác vì nông dân không muốn “dư thừa”
để khỏi bị tịch thu. Đồng thời, vì ngựa đã bị đưa ra mặt trận, sức kéo giảm
cũng dẫn đến năng suất giảm. Sản lượng ngũ cốc giảm từ 78,2 triệu tấn vào năm
1913 xuống còn 48,2 triệu tấn vào năm 1920.
Đầu năm 1921, tất cả những vấn đề mà chính phủ của Lenin tự khoác
lên vai, vì muốn áp đặt chủ nghĩa cộng sản cho một đất nước phần nhiều là phản
động - đấy là theo lời của chính ông ta, đều trở thành cực kì căng thẳng. Tháng
1, Kronshtadt, căn cứ hải quân gần Petrograd, vốn là dinh luỹ của chủ nghĩa
cộng sản, nổi loạn và ra lời kêu gọi nhân dân đứng lên chấm dứt chế độ độc tài
cộng sản. Đồng thời, ở Petrograd cũng diễn ra các cuộc bãi công phản đối nạn
thiếu lương thực. Những cuộc khởi nghĩa nông dân làm rung chuyển tỉnh Tambov.
Không do dự, Lenin đã hạ lệnh đàn áp những vụ bạo loạn một cách
cực kì khốc liệt, kể cả sử dụng hơi ngạt. Nhưng ông ta cũng buộc phải thú nhận
rằng, biện pháp quân sự không thôi thì chưa đủ. Đầu năm 1921, ông ta tuyên bố
áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP), mà điểm quan trọng nhất là bãi bỏ việc
tịch thu lương thực: từ nay trở đi nông dân chỉ phải đóng thuế bằng hiện vật và
được quyền bán số lương thực thừa trên thị trường tự do. Chính phủ cũng cho
phép buôn bán và sản xuất hàng tiêu dùng một cách hạn chế. Nhưng chính phủ vẫn
giữ quyền kiểm soát cái mà họ gọi là “đỉnh cao chỉ huy” của nền kinh, mà cụ thể
là công nghiệp nặng, ngoại thương, ngân hàng, phương tiện giao thông và liên
lạc.
Nhưng đã quá muộn, những nhượng bộ đó không đủ sức ngăn chặn nạn
đói, chưa một nước châu Âu nào từng trải qua một nạn đói khủng khiếp đến như
thế. Do hạn hán, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của 5,2 triệu nạn nhân và hậu quả
sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều nếu tổ chức American Relief Administration, một tổ
chức của Hoa Kỳ do Herbert Hoover, tổng thống tương lai của Hoa Kỳ, không kịp
thời giúp đỡ. Tổ chức này đã cung cấp lương thực cho 25 triệu người.
Công việc khôi phục trong giai đoạn NEP diễn ra với tốc độ nhanh
chưa từng thấy. Năm 1928 sản lượng ngũ cốc đã đạt mức cao nhất kể từ năm 1913.
Nhiều người ở Nga, cũng như bên ngoài nước này, cho rằng NEP chính
là sự từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Người ta đã bắt đầu nói đến “Termidor Nga”, ám
chỉ những sự kiện diễn ra vào năm 1794, dẫn đến sự sụp đổ và hành hình những
người Jacobin ở Pháp. Nhưng sự so sánh ở đây hoá ra khập khiễng: Thứ nhất, những
người Jacobin Nga nắm chắc quyền lực; thứ hai, họ coi những nhượng bộ đó chỉ là
một cú giải lao tạm thời. Các sự kiện đã diễn ra đúng như thế.
_____________
Bolshevik
cướp được chính quyền vì thời thế đã tạo cho họ cơ hội. Họ không có ý định thu
mình trong biên giới quốc gia, họ tin rằng nếu không
xuất khẩu được cách mạng sang các nước đã công nghiệp hoá thì họ sẽ không thể
trụ được trước những cuộc tấn công khi lực lượng tư bản quốc tế liên hiệp lại.
Lenin đã nói một cách công khai: “Chúng
ta luôn biết rằng không thể thực hiện được sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong một nước ”[8].
Trong diễn văn đọc vào năm 1920, ông ta đã nói đến khía cạnh quốc tế của cách
mạng Nga một cách không úp mở như sau:
(Tháng 11 năm 1917) chúng
ta đã biết rằng chiến thắng của chúng ta sẽ vững chắc khi, và chỉ khi sự nghiệp
của chúng ta giành được thắng lợi trên toàn thế giới[9].
Cho nên về mặt đối nội, bên trong biên giới, cộng sản là một nhà
nước cực kì bảo thủ, không chấp nhận bất kì sáng kiến nào từ bên dưới, nhưng ở nước
ngoài và chỉ ở nước ngoài, thì họ lại thi hành chính sách cấp tiến, kích động
chính cái khối quần chúng mà ở trong nước họ đã cố tình bịt miệng.
Mưu toan xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản sang các nước bại trận ở
Trung Âu được bắt đầu ngay vào giai đoạn cuối của Thế chiến I. Tháng 1 năm
1919, Moskva tổ chức cuộc khởi nghĩa ở Đức, nhưng đã bị đè bẹp ngay sau đó. Ở
Hungary, cộng sản đã giành được kết quả khả quan hơn, chính quyền cộng sản đứng
vững được nửa năm (năm 1919) vì Nga hứa sẽ bảo vệ nếu quân đội Rumania can
thiệp. Chính quyền tay sai bù nhìn đã sụp đổ sau khi Nga không thực hiện lời
hứa. Những mưu toan tương tự cũng được thực hiện ở các nước khác, ví dụ như ở Viena,
nhưng ở đây họ đã bị bóp chết ngay từ trong trứng nước.
Sự kiện đáng thất vọng hơn cả trong việc xuất khẩu cách mạng diễn
ra vào mùa hè năm 1920. Tháng 4 năm đó, nhằm ngăn chặn sự phục hồi đế chế Nga
và tách Ukraine ra khỏi Liên Xô, Ba Lan liên kết với những người theo đường lối
dân tộc chủ nghĩa Ukraine tấn công nước này. Nhưng dân Ukraine đã không nổi dậy
như Ba Lan hy vọng và họ đã phải mau chóng rút lui.
Khi Hồng quân tiến đến biên giới Ba Lan, Bộ Chính trị phải quyết
định: dừng lại hay tiếp tục tiến sang phía Tây. Lenin kiên quyết đòi phải tiếp
tục tấn công và cũng như mọi khi, ông ta đã thuyết phục được những người phản
đối. Ông ta tin rằng tình hình ở Đức và Anh đã chín muồi, cuộc thâm nhập của
lực lượng vũ trang cộng sản sẽ khơi mào cho cách mạng bùng nổ. Mùa hè năm 1920,
Hồng quân, có các chính uỷ người gốc Ba Lan đi theo, đặt chân lên đất Ba Lan.
Hồng quân kêu gọi công nhân và nông dân Ba Lan đứng lên giành lấy tài sản của
tư sản và địa chủ; ở Nga, những khẩu hiệu này tỏ ra rất có hiệu quả. Nhưng ở Ba
Lan, tất cả các giai cấp đều đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành
được. Trong trận đánh dưới chân thành Warsaw, một trong những trận đánh quan
trọng nhất trong lịch sử hiện đại, người Ba Lan đã đập tan và đẩy lùi được Hồng
quân.
Lenin không thể che giấu thất vọng. “Người Ba Lan coi Hồng quân là
kẻ thù chứ không phải những người anh em, những người giải phóng họ”, ông ta
cay đắng nói.
Trong tình cảm, suy nghĩ và hành động,
họ đã chứng tỏ là những tên đế quốc, những kẻ theo đường lối dân tộc chủ nghĩa,
chứ không phải là những người cách mạng, những người xã hội chủ nghĩa. Cách
mạng đã không diễn ra ở Ba Lan, như chúng ta từng hy vọng. Công nhân và nông
dân đã bảo vệ kẻ thù giai cấp của mình, họ buộc những người lính Hồng quân dũng
cảm của chúng ta phải chịu đói khát, họ đã phục kích và đánh đến chết các chiến
sĩ của chúng ta[10].
Kết luận được ông ta rút ra là: không bao giờ được sử dụng Hồng
quân như là biện pháp xuất khẩu cách mạng nữa. Thay vào đó, cần phải tìm mọi
cách giúp đỡ những người cộng sản ở mỗi nước, kể cả giúp đỡ về mặt tài chính.
Và đây là bài học thứ hai của ông ta: muốn xuất khẩu cách mạng ra
bên ngoài biên giới Nga thì tốt nhất là phát động một cuộc chiến tranh thế giới
mới. Trong cuộc chiến tranh này, nước Nga Xô Viết phải giữ vai trò trung lập và
chỉ tham gia khi hai bên đã cùng kiệt sức. Từ năm 1921, Moskva bí mật hợp tác
quân sự với Đức chính là nhằm mục đích như thế.
[1] Richard
Pipes, A Concise History of the Russian Revolution (Lịch sử
rút gọn của Cách mạng Nga) (New York, 1995).
[2] V. I.
Lenin, Polnoe sobranie cochinenii (Toàn
tập), 5 th ed. (Moscow, 1958-65), tập 41, trang 383
[4] L. N.
Kristman, Geroicheskii period
velikoi revoliutsii (Giai đoạn anh hùng của cuộc cách mạng vĩ đại,) (Moskva,
1926), trang 166.
[5] Isaac Steinberg, In the
Workshop of Revolution (tạm dịch: Trong phân xưởng của cách mạng) (London,
1955), trang 145
[7] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) (New Haven, conn., 1996), trang 50
[8] A. G. Latyshev, Rasskrechennyi
Lenin(Lenin được giải mật (Moskva,
1996), trang 40. Bài này không được đưa vào Toàn tập của
Lenin.
No comments:
Post a Comment