May 8, 2018

Chủ nghĩa cộng sản (3)


Richard Pipes

Phạm Nguyên Trường dịch


_______
I.                   Chủ nghĩa Lenin (1)

Bắt đầu từ năm 1709, khi Peter Đại Đế đánh bại Thuỵ Điển ở Poltava và chấm dứt giai đoạn bá quyền của họ ở vùng Baltic, nước Nga được coi và cũng tự coi là siêu cường và đòi hỏi vị trí siêu cường của mình trên lục địa châu Âu. 

Richrad Pipes (1923)

Ở khía cạnh nào đó, đòi hỏi này là chính đáng. Saint-Peterburg, thủ đô của nước Nga, được xây dựng theo mô hình của Amsterdam, trên thực tế, là một thành phố châu Âu, còn giới thượng lưu Nga, nói thông thạo tiếng Pháp, không xa lạ gì với văn hoá phương Tây. Văn học, nhạc, nghệ thuật và khoa học Nga xuất hiện vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có thể so sánh với văn hoá châu Âu và trong một vài lĩnh vực còn đi tiên phong, điều này dễ làm người ta ngộ nhận. 

Nhưng, nền văn hoá cao đó chỉ là tài sản của một giai tầng hạn hẹp của xã hội, đấy là giới quý tộc, trí thức và tầng lớp quan chức cao cấp. Ba phần tư dân chúng của đế chế là nông dân, mà phần đông trong số họ vẫn sống trong một thế giới riêng, chưa hề bị nền văn minh châu Âu đụng chạm tới. Họ không có tiếng nói chung với những người có học, thậm chí còn coi giới trí thức như người ngoại quốc. Đa số nông dân Nga không phải là các điền chủ, tự canh tác trên khoảnh đất của mình; họ là thành viên của các công xã nông thôn và thường phân chia lại ruộng đất theo định kì, tuỳ thuộc vào sự thay đổi số nhân khẩu trong từng gia đình. Theo quan niệm của nông dân, ruộng đất không phải là hàng hoá mà là nguồn sống, chỉ có những người canh tác mới có quyền sở hữu ruộng đất. 

Nông dân còn có đặc điểm là bảo thủ, trung thành với Hoàng đế và nhà thờ Chính thống giáo. Chỉ có một khía cạnh và là khía cạnh duy nhất, trong đó người nông dân có thể trở thành động lực của cách mạng, mà cụ thể là: họ là những người không đủ ruộng đất canh tác. Người nông dân Nga không phải là giai cấp vô sản bị áp bức ở nông thôn: năm 1916 họ chiếm tới 89,1% đất canh tác tại phần châu Âu của nước Nga[1]. Nhưng số lượng nông dân lại tăng nhanh hơn phần diện tích canh tác nằm dưới quyền sử dụng của họ: nếu giữa thế kỷ XIX, một diện tích đất dành cho hai nhân khẩu thì sau 50 năm phải nuôi đến ba nhân khẩu. Phương pháp quảng canh truyền thống cùng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt làm cho năng suất không cao. Nông dân tin rằng một ngày nào đó Sa hoàng, mà họ coi là người chủ hợp pháp của toàn bộ đất đai, sẽ thu hồi đất của địa chủ và cả những nông dân sở hữu ruộng đất để phân chia cho các công xã. Nếu ông ta không làm như thế, đầu những năm 1890 đã xuất hiện những ngờ vực là ông ta không làm như thế, thì nông dân sẵn sàng chiếm ruộng đất bằng vũ lực. Các tác nhân khác cũng góp phần ngăn chặn việc biến Nga thành một nước phương Tây. Trong suốt quá trình lịch sử của mình, chính quyền Nga là chính thể chuyên chế, Sa hoàng không chỉ có toàn quyền trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn sở hữu toàn bộ đất nước theo đúng nghĩa đen của từ này, ông ta có thể sử dụng cả nhân tài và vật lực của quốc gia theo ý mình; đấy là một chế độ mà Max Weber, nhà xã hội học Đức, gọi là “patimonial” (tạm dịch: làng xã - là các hệ thống nhỏ, mang tính truyền thống, quyền lực mang tính cá nhân và độc đoán biến người dân thường thành khách hàng của người cai trị chứ không còn là công dân có các quyền - ND). Việc quản lý đế chế rộng lớn này được giao cho tầng lớp quan lại, cùng với lực lượng cảnh sát và quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, họ không bao giờ phải báo cáo hay chịu trách nhiệm gì trước dân chúng. Cho đến năm 1905 - khi các phong trào nổi dậy của dân chúng buộc Sa hoàng phải ban bố hiến pháp và các quyền dân sự - người dân Nga có thể bị bắt và lưu đày mà không cần xét xử chỉ vì những suy tư về việc thay đổi hiện trạng.


Cuối thế kỷ XVIII, sở hữu tư nhân về ruộng đất mới được áp dụng ở nước Nga, mà cũng chỉ giới quý tộc mới được hưởng quyền này, còn trước đó, tất cả ruộng đất đều là sở hữu của nhà vua. Trong khi đó, ở phương Tây, ngay từ thời Trung cổ, phần lớn ruộng đất đã thuộc quyền sở hữu tư nhân. Các thiết chế pháp lý, thường phát triển song hành với quyền tư hữu, cũng mãi sau này mới xuất hiện: các bộ luật đầu tiên xuất hiện vào năm 1830 và mãi đến năm 1860 mới có các toà án thực sự. Cho đến lúc đó, đa số người dân Nga vẫn là nông nô của nhà nước hay của tầng lớp quý tộc, không được hưởng quyền tư pháp và quyền sở hữu tài sản. Các cơ quan đại diện có mục đích ngăn chặn bớt quyền lực của ngai vàng xuất hiện vào năm 1906, nghĩa là chậm một thế kỷ so với quốc hội phương Tây. Chưa có bộ luật dân sự. Điều đó chứng tỏ rằng, đa số người Nga, cũng như các dân tộc bị họ cai trị, không thể trông cậy gì vào chính phủ của mình. Họ phục tùng vì không có con đường nào khác, lý tưởng của họ là vô chính phủ.

Các Sa hoàng, trong khi bóp nghẹt đất nước như thế, nhưng lại muốn giữ địa vị siêu cường, đã buộc phải thực hiện những bước đi mà chắc chắn sẽ làm lung lay quyền lực của chính hoàng gia. Các trường đại học Nga, trong khi tiến hành công việc phổ biến kiến thức và phương pháp tư duy có tính phê phán, đã góp phần tạo ra một tầng lớp công dân không chấp nhận việc bóp nghẹt tự do ngôn luận. Alexander Herzen viết về nan đề của thế hệ ông như sau: 

Người ta dạy chúng tôi kiến thức, người ta gieo vào lòng chúng tôi ước mơ, khát vọng và nỗi đau của thế giới đương đại, nhưng sau đó họ lại hạ lệnh: “Hãy tiếp tục làm nô lệ, tiếp tục là những người câm, những người bất động nếu không các ngươi sẽ chết”. 

Chính sách mâu thuẫn như thế đã tạo ra một tầng lớp trí thức đặc trưng bởi thái độ thù địch với toàn bộ trật tự xã hội và thể chế chính trị hiện hành, họ tin rằng hành động như thế chính là cách nói thay cho người dân thấp cổ bé miệng. Môi trường hoạt động của các nhà cách mạng, từ những “thánh tông đồ” của các biện pháp bất bạo động đến những kẻ khủng bố cực đoan, không phải là công trường hay nhà máy mà chính là các trường đại học. 

Các Sa hoàng còn khuyến khích phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, đây cũng là chính sách góp phần làm lung lay hệ thống quyền lực của ngai vàng. Nước Nga đã thua các nước dân chủ và công nghiệp hoá trong cuộc chiến tranh Krimea năm 1854-1855, cuộc chiến tranh được tiến hành ngay trên lãnh thổ của mình. Thất bại nhục nhã này một lần nữa chứng tỏ rằng, trong thế giới hiện đại, một nước thiếu nền công nghiệp và hệ thống giao thông vận tải phát triển thì không thể tranh giành hay giữ được vị thế siêu cường. Thất bại đã thúc đẩy các Sa hoàng khuyến khích phát triển cả công nghiệp lẫn hệ thống giao thông bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Hậu quả là đã xuất hiện các trung tâm ra quyết định độc lập chính phủ và bộ máy quan liêu. 

Giáo dục phát triển, công nghiệp hoá nhằm đáp ứng tham vọng của nước Nga đã xói mòn quyền lực của chế độ đối với đất nước. 

Những tác nhân đó giúp ta hiểu được vì sao cách mạng cộng sản - theo Marx phải diễn ra ở các nước phương Tây công nghiệp hoá - lại nổ ra ở nước Nga nông nghiệp. Ở Nga, không có các tác nhân ngăn chặn những cuộc cách mạng xã hội: đấy là tinh thần thượng tôn pháp luật và tôn trọng quyền tư hữu, ngoài ra, ở phương Tây, dân chúng còn tôn trọng chính phủ vì chính phủ của họ luôn bảo vệ quyền tự do của người dân và cung cấp các dịch vụ xã hội. Tầng lớp trí thức cấp tiến say mê lý tưởng, một bên và giai cấp nông dân, những người luôn khát khao chiếm đoạt lấy một mảnh ruộng riêng, một bên, đã tạo ra tình trạng căng thẳng thường trực, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào, nhất là khi chính phủ trung ương rơi vào tình trạng khó khăn. Ở đây, các tác nhân kinh tế mà Marx và Engels đưa ra chẳng có vai trò gì. 

Những tác nhân dẫn nước Nga đến cách mạng cũng chính là những tác nhân quyết định hình thức của chế độ cộng sản sẽ xuất hiện tại đây. Hoá ra chủ nghĩa xã hội được đưa vào đất nước chưa hề biết đến những truyền thống có thể giúp đạt được lý tưởng do Marx đặt ra sẽ tự phát và nhanh chóng tiếp thu những khía cạnh xấu xa nhất của chế độ Sa hoàng mà nó vừa lật đổ. Ở phương Tây, các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa ngày một mờ nhạt dần và trở thành một phần không thể tách rời của những người theo chủ nghĩa tự do, thì ở Nga và các nước ngoài phương Tây, lại được lèo lái theo những khái niệm quen thuộc về quyền lực vô giới hạn của nhà nước đối với các công dân và tài sản của họ. Chủ nghĩa toàn trị Xô Viết, sinh ra từ hạt giống Marxist, nhưng được gieo trên cánh đồng làng xã của chế độ Sa hoàng, đã hình thành như thế đấy.

Phong trào cách mạng Nga xuất hiện trong những năm 1870, dưới ảnh hưởng của các học thuyết vô chính phủ và xã hội chủ nghĩa phương Tây, đã tìm được những đồ đệ chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên. Những người thanh niên đó thâm nhập về nông thôn, tưởng rằng sẽ được nông dân đón tiếp nồng hậu, nhưng họ đã thất vọng. Hoá ra nông dân không chỉ căm thù những người hàng xóm giàu có hơn, những người được gọi là “kulak”, mà chính họ cũng lại muốn trở thành những người như thế. Họ tin Sa Hoàng, tin rằng ông ta sẽ chia ruộng đất cho mình.

Thất vọng, đa số những thanh niên này đã rời bỏ phong trào. Nhưng một nhóm nhỏ, liên kết thành Đảng “Ý Dân”; đảng này tập trung tất cả cố gắng vào việc làm cho nhân dân không còn sợ hãi và kính trọng Sa hoàng nữa. Để đạt mục đích đó, họ bắt đầu bằng những vụ ám sát các viên chức cao cấp của chính phủ. Ý Dân là tổ chức đầu tiên trong lịch sử đã gây ra hàng loạt những vụ khủng bố chính trị. Tháng 3 năm 1881, đảng này ám sát Sa hoàng Alexander II, một ông vua mà trước đấy 20 năm đã giải phóng những người nông nô Nga. Vụ ám sát không đạt được mục đích. Nó còn có tác dụng ngược: không những không kêu gọi được nhân dân vùng lên chống lại chế độ, vụ ám sát còn làm cho nhiều người bất mãn và làm mất niềm tin vào các biện pháp cách mạng trong một thời gian. 

Phong trào dân chủ-xã hội thâm nhập vào nước Nga trong những năm 1890. Phong trào này có sức hấp dẫn vì trong mười năm đó, nước Nga đã trải qua quá trình công nghiệp hoá một cách nhanh chóng, khả năng xuất hiện nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với những hậu quả xã hội đi kèm với nó, được Marx mô tả trong Tư bản luận, đang đến rất gần. Tại các trường đại học, các nhóm thanh niên có xu hướng dân chủ-xã hội mọc lên như nấm sau mưa, các nhóm này coi khủng bố là sách lược không có tương lai, họ hy vọng vào quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế. Cùng với thời gian, thành viên của các nhóm này tin rằng nước Nga đang trải qua tất cả các mâu thuẫn đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và cách mạng nhất định sẽ nổ ra. 

Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập tại một đại hội bí mật, bị cảnh sát giải tán, vào năm 1898. Tuyên ngôn của đại hội, do Peter Struve chấp bút, nói rằng nước Nga sẽ giành được tự do không phải bằng những cố gắng của giai cấp tư sản khiếp nhược mà bằng sức mạnh của giai cấp công nhân công nghiệp. Giai cấp công nhân sẽ giải phóng đất nước khỏi chế độ độc tài và khai phá con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiên đề này sẽ trở thành luận điểm chủ yếu của phong trào dân chủ xã hội Nga: cách mạng sẽ trải qua hai giai đoạn; giai đoạn thứ nhất có nhiệm vụ lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng và thành lập chế độ dân chủ “tư sản”, giai đoạn hai có nhiệm vụ lật đổ chính chế độ này và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chiến lược sao chép phương châm của Marx và Engels, hai ông này từng kêu gọi lập các liên minh chiến thuật với những người theo chủ nghĩa tự do trong cuộc đấu tranh chống lại các chế độ độc tài. 

Về mặt hình thức, Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập tại đại hội ở London, năm 1903. Ngay tại đây, phong trào đã chia thành hai phái, một phái do Martov đứng đầu, gọi là “Menshevik”, phái kia do Lenin đứng đầu, gọi là “Bolshevik”. Dù đã có những cố gắng hoà giải, nhưng hai phái này không bao giờ hoà thuận được vì thái độ thù địch không khoan nhượng của Lenin đối với bất kì người nào có ý chống lại sự lãnh đạo của ông ta. Vì người ta thường liên tưởng chủ nghĩa cộng sản với tên tuổi của Lenin và Đảng của ông, xin dừng lại một chút và xem xét kĩ hơn con người này, một người từng có ảnh hưởng bao trùm đối với nền chính trị thế giới trong suốt thế kỷ XX. 
____________

Vladimir Ilych Ulyanov Lenin sinh năm 1870 tại thành phố Simbirsk, bố ông ,vốn xuất thân từ thành phần quý tộc, được bổ nhiệm làm thanh tra viên trong ngành giáo dục và cũng là một người có quan điểm bảo thủ và rất trung thành với nhà thờ Chính thống giáo. Trong buổi hoàng hôn của đế chế Nga, rõ ràng là, con cái của những gia đình quan chức cao cấp như thế cảm thấy như có lỗi vì những đặc quyền đặc lợi và dễ trở thành những người có tư tưởng cấp tiến. Năm 1887, người anh của Lenin, Alexander, bị kết án tử hình vì tham gia vào vụ mưu sát Sa hoàng Alexander III. Các chị em gái của Lenin cũng không tránh được rắc rối và cũng từng bị tù đày. Nhưng, trong những năm còn học phổ thông, Lenin không hề quan tâm đến chính trị: là một học sinh có năng khiếu, cậu học trò Volodia mỗi năm lại lên một lớp và năm nào cũng được nhận bằng khen không những vì đã có thành tích trong học tập mà còn chứng tỏ là một học trò ngoan. 

Lenin năm 1917

Rắc rối xuất hiện vào năm 1887, đấy là năm Lenin thi vào trường đại học tổng hợp Kazan. Cảnh sát bắt đầu chú ý đến Lenin khi ông tham gia vào những vụ lộn xộn của sinh viên nhằm phản đối các quy định của nhà trường. Sau khi bị nhận diện là em của một kẻ khủng bố đã bị tử hình, Lenin bị đuổi học và mặc dù bà mẹ đã nhiều lần làm đơn xin, ông ta không bao giờ được nhận trở lại trường nữa. Lenin phải ăn không ngồi rồi suốt ba năm trời, lòng căm thù chế độ cũng ngày một dâng cao. Chỉ vì một lỗi nhỏ mà chế độ trừng phạt một cách quá nghiêm khắc và như thế đã chặn đứng vĩnh viễn con đường hoạn lộ của ông ta. Ông ta không chỉ căm thù chế độ mà còn căm thù “giai cấp tư sản”, giai cấp đã chối bỏ gia đình ông chỉ vì có một người anh bị tử hình. Điều đó đã biến ông ta thành một nhà cách mạng cuồng tín, một người quyết tâm đập phá tan tành chế độ chính trị và xã hội hiện hành. Như vậy nghĩa là, nhiệt tình cách mạng của Lenin không phải xuất phát từ lòng yêu thương giai cấp cần lao. Trên thực tế, năm 1891-1892, ở vùng Volga xảy ra nạn đói thì chỉ có ông ta là người trí thức duy nhất trong vùng phản đối việc giúp đỡ những người nông dân nghèo đói vì cho rằng nạn đói có vai trò tích cực trong việc phá huỷ nền kinh tế tiểu nông cổ truyền, dọn đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệt tình cách mạng của ông ta cũng không được hâm nóng bởi viễn kiến về một tương lai tươi sáng hơn. Nền tảng của nó là lòng hận thù và khát khao báo thù. Struve, người từng cộng tác với Lenin trong những năm 1890, sau này đã viết rằng, đặc điểm chủ yếu của Lenin là lòng hận thù. Tố chất bẩm sinh đó của con người Lenin, một người mà động lực chủ yếu là sự ác cảm và thù địch đối với tất cả những gì xa lạ, dù đấy là những giai cấp hay các dân tộc và sắc tộc khác, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị thế giới trong suốt thế kỷ XX.

Năm 1891, chính quyền đã tỏ ra độ lượng và cho phép Lenin thi lấy bằng luật sư như một thí sinh tự do. Lenin thi đỗ và chuyển về sống ở Saint-Petersburg. Ông ta có làm công việc tranh tụng một thời gian, nhưng đấy chỉ là bức bình phong cho hoạt động cách mạng của ông ta mà thôi. Những người dân chủ xã hội ở đây không những không coi Lenin là một người Marxist mà còn coi là một người thuộc phái “Ý dân”, một người ủng hộ khủng bố, nôn nóng, muốn bắt đầu cách mạng ngay mà không chờ cho chủ nghĩa tư bản phát triển chín muồi. Qua giao tiếp với những người được chuẩn bị kĩ lưỡng hơn về mặt lý luận, có thời gian Lenin đã ngả sang tư tưởng về hai giai đoạn cách mạng. Là một người có kỉ luật, năng nổ và hết mình vì sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội, Lenin nhanh chóng giành được địa vị cao trong phong trào dân chủ xã hội đang còn trong vòng bí mật. 

Vì những vụ sách động công nhân đình công, năm 1896 Lenin bị bắt và bị đầy đi Siberia. Ông ta sống trong ngôi nhà thuê của một gia đình nông dân, khá đầy đủ tiện nghi, với người vợ chưa cưới là Nadezhda Krupskaya. Trong ba năm đó, ông ta chuyên tâm vào việc viết lách, dịch và trao đổi thư từ với bạn bè. Trong những năm Lenin bị lưu đầy (1897-1900), ở Đức nổi lên phong trào xét lại chủ nghĩa Marx và từ đó, phong trào này thâm nhập vào nước Nga. Cương lĩnh xét lại làm Lenin choáng váng, ông coi coi đây là sự phản bội sự nghiệp đã làm cho ông ta trở thành một người xã hội chủ nghĩa. Ông ta còn cảm thấy cay đắng hơn khi nhận ra rằng phong trào công nhân đang hình thành ở Nga lại thiên về các hoạt động công đoàn theo đường lối hoà bình chứ không có ý định lật đổ chủ nghĩa tư bản. Diễn biến của các sự kiện như thế làm Lenin rơi vào một cuộc khủng hoảng nội tâm sâu sắc. Cuối cùng, ông ta tự khẳng định rằng, nếu không đưa được những người dân chủ xã hội quay sang con đường cách mạng thì chính ông ta sẽ ly khai và thành lập đảng riêng của mình. 

Vừa ra khỏi tù, Lenin lập tức đi sang Đức và cùng với Martov lập ra tờ báo Iskra (Tia lửa nhỏ) nhằm truyền bá chủ nghĩa Marx chính thống, chống lại trào lưu xét lại lúc đó. Nhưng, chính cách hiểu chủ nghĩa Marx của ông ta lại chẳng chính thống một chút nào. Năm 1902, với tác phẩm Что делать? (Làm gì?), Lenin đã đưa ra những luận điểm chủ yếu của cái học thuyết mà sau này được gọi là chủ nghĩa Bolshevik. Trong tác phẩm này, ông ta đã phủ nhận một cách dứt khoát quan điểm chủ yếu của chủ nghĩa Marx, tức là quan điểm nói rằng nhất định giai cấp công nhân sẽ nổi dậy: Tự mình, giai cấp công nhân sẽ không vượt qua khuôn khổ của các hoạt động công đoàn, ông ta khẳng định như thế. Nhiệt tình cách mạng phải được đưa vào từ bên ngoài, phải nhờ vào một đảng cố kết của những nhà cách mạng chuyên nghiệp. Mặc dù Lenin không nói rõ, nhưng những nhà cách mạng chuyên nghiệp phải là các trí thức, vì công nhân không có thì giờ và cũng chẳng có kiến thức để thực hiện sứ mệnh này*. Trên thực tế, ban lãnh đạo đảng của Lenin chỉ có một người từng là công nhân, nhưng hóa ra lại là chỉ điểm của cảnh sát. 

* Benito Mussolini, người lập ra Đảng Fascist, nhưng trước Thế chiến I lại là lãnh tụ của cánh cực đoan của phong trào dân chủ xã hội Italy lúc đó cũng có cùng quan điểm như thế. 

Năm 1903, Lenin đến đại hội với tinh thần sẵn sàng chia rẽ đảng và đoạn tuyệt với đa số có xu hướng hoà bình chủ nghĩa. Về mặt hình thức, nguyên nhân của sự phân liệt là do Lenin đòi hỏi rằng một người muốn trở thành đảng viên thì không những phải ủng hộ cương lĩnh của đảng mà còn phải cống hiến trọn đời cho hoạt động cách mạng. Đảng được tổ chức như một đạo quân, với hệ thống kỉ luật và phục tùng tuyệt đối sẽ lãnh đạo chứ không phải theo đuôi phong trào công nhân. Vừa giành được một đa số tạm thời tại đại hội, Lenin lập tức gọi phái của mình là “Bolshevik”, nghĩa là “đa số”, còn những người phản đối ông ta, dưới sự dẫn dắt của Martov, đành chấp nhận nhãn hiệu “Menshevik”, nghĩa là “thiểu số”. 

Lịch sử mười năm tiếp theo của Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga chứa đầy các âm mưu và những cuộc cãi vã nhảm nhí. Lenin gọi những người Menshevik là “bọn phản bội”, “bọn đầu hàng” và những danh từ mang tính nhục mạ tương tự như thế. Muốn lập đảng của những nhà cách mạng chuyên nghiệp thì cần phải có tiền, Lenin đã kiếm tiền bằng những cách phải nói là chẳng hay ho gì, kể cả cướp bóc ngân hàng và tranh đoạt tài sản kế thừa của người khác. 

Ngay trước Thế chiến I, Lenin đã đưa ra hai lý thuyết mới. Thứ nhất, nước Nga không cần cách mạng “tư sản” vì chủ nghĩa tư bản đã làm đất nước chấn động và đã sẵn sàng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa rồi. Thứ hai, trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ hiện hành, những người xã hội chủ nghĩa có thể tham gia liên minh tạm thời với mọi lực lượng, tức là những lực lượng vì quyền lợi của mình mà đấu tranh chống lại chế độ hiện hành, đặc biệt là nông dân và các dân tộc thiểu số. 

Những người Marxist coi nông dân là giai cấp “tiểu tư sản” và vì vậy, về bản chất, là kẻ thù của giai cấp công nhân công nghiệp. Nhưng, Lenin lại cho rằng người nông dân chỉ ước mong có ruộng và sẵn sàng đứng lên làm cách mạng, ông ta tin rằng chỉ cần nắm được quyền lực là có thể buộc nông dân phải đi theo bằng cách quốc hữu hoá ruộng đất. Về các sắc dân thiểu số, Lenin, cũng như tất cả những người xã hội chủ nghĩa khác, đều coi thường mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc. Nhưng ông ta cũng cho rằng tinh thần dân tộc của người Ba Lan, người Phần Lan và các sắc dân thiểu số khác lại góp phần vào việc lật đổ chế độ. Vì vậy, ông ta đã hứa bảo đảm cho tất cả các dân tộc nằm dưới sự cai trị của người Nga quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền thành lập nhà nước độc lập. Trả lời câu hỏi có phải như thế là “Balkan hoá” nước Nga hay không, ông ta nói rằng các mối liên kết kinh tế gắn bó đế chế Nga mạnh đến nỗi khuynh hướng phân liệt không thể có cơ may thành công, mà nếu có một hai khu vực biên thuỳ nào đó làm được chuyện này thì vẫn có thể dùng vũ lực để bắt họ quay trở lại vì “quyền vô sản tự quyết” phải cao hơn “quyền dân tộc tự quyết”. 

Từ năm 1900 đến năm 1917, Lenin hầu như chỉ sống ở nước ngoài. Dù ở Đức, ở Áo, Italy hay Thuỵ Sĩ ông ta đều tìm cách chia rẽ Quốc tế II như đã từng chia rẽ Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, nhưng kết quả không đáng là bao. Ông ta vẫn giữ mối liên hệ với các đệ tử ở Nga và dành nhiều thời gian viết báo để mạt sát những người bất đồng quan điểm. Trừ những học trò gần gũi – ông ta thường cố gắng thuyết phục khi những người này lầm lạc – tất cả những người bất đồng ý kiến đều bị ông ta gọi là bọn phản bội giai cấp công nhân. 

Suốt thời gian đó, ông ta chỉ về Nga có một lần, đấy là trong thời gian diễn ra cuộc Cách mạng năm 1905. Lợi dụng những quyền tự do được chế độ nới rộng trong thời kì cách mạng, các đảng viên Bolshevik lập tức công khai thành lập các tổ chức của mình. Quần chúng không ủng hộ bất kì phái dân chủ xã hội nào: năm 1907, tổng số đảng viên của tất cả các phái cũng chỉ là 84.000 người, khi cách mạng rơi vào thoái trào thì con số này cũng giảm, năm 1910 chỉ còn lại 10.000 đảng viên, đấy là trong một nước có 150 triệu dân. Những người ủng hộ Bolshevik đa phần là dân Nga, còn những người thiểu số, thí dụ như người Do Thái hoặc Georgia, thì ngả về phía Menshevik. Cả hai phái đều chẳng có mấy công nhân, đa số đảng viên đều thuộc tầng lớp trí thức. 

Chiến tranh thế giới xảy ra. Những người dân chủ xã hội Nga, cả Bolshevik lẫn Menshevik, là những người duy nhất, nếu không kể đến người Serbi, biểu quyết phản đối ngân sách chiến tranh. Các đại biểu quốc hội là đảng viên Bolshevik đều bị bắt và bị lưu đầy vì tội hoạt động đối lập. Tổ chức đảng của họ gần như không còn. 

Khi chiến tranh nổ ra, lập trường của Lenin là rất rõ ràng: phải biến chiến tranh giữa các nước thành chiến tranh giữa các giai cấp. Giai cấp công nhân các nước không được bắn giết lẫn nhau mà phải quay súng chống lại những kẻ bóc lột mình. Có một số người thuộc Quốc tế II ủng hộ quan điểm này, họ lập tức tụ họp ở Thuỵ Sĩ, một nước giữ thái độ trung lập. Người Nga có một phái đoàn rất mạnh tại các cuộc gặp gỡ này và Lenin đã giành được quyền lãnh đạo phái tả cấp tiến. Mặc dù các nghị quyết do ông ta đề xuất đã không được thông qua, nhưng ông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với các cuộc thảo luận và đấy là cơ sở cho việc thành lập Quốc tế III hay còn gọi là Quốc tế Cộng sản vào năm 1919. 
_______________

Nước Nga là đồng minh của Anh và Pháp. Nga tham gia liên minh vì sợ rằng Đức và Áo sẽ mở rộng sang phía Đông và phía Nam và sẽ chiếm một phần lãnh thổ, biến Nga thành một nước loại hai. Pháp phải hợp tác với Nga vì sợ Đức, Pháp chỉ có thể đứng vững được nếu Đức phải chiến đấu trên cả hai mặt trận. Thoả thuận mà Pháp kí với Nga có điều khoản là Nga sẽ tấn công Đức và tiến nhanh về hướng Berlin một khi quân Đức tràn vào Pháp. 

Nhưng hoá ra kế hoạch của các bên tham chiến đều không được thực hiện. Kế hoạch của Đức là giành thắng lợi nhanh chóng trên mặt trận phía Tây và sau đó chuyển sang mặt trận phía Đông để tiêu diệt quân Nga đã thất bại: chiến dịch bên phía Tây trở thành những trận đánh giành giật nhau từng chiến hào và không biết bao giờ mới kết thúc. Trong khi đó, quân Nga tấn công mãnh liệt trên mặt trận Đông Phổ, nhưng bị rơi vào bẫy và bị quân Đức đánh tan. 

Cuối năm 1914, Bộ Chỉ huy tối cao Đức kết luận rằng, họ chỉ có thể chiến thắng nếu đánh bại Nga và sau đó sẽ tập trung toàn lực cho mặt trận phía Tây. Mùa xuân năm 1915, liên quân Đức-Áo tấn công Ba Lan, lúc đó thuộc Nga, và đẩy quân Nga lùi sâu hàng trăm kilomet. Mặc dù lực lượng quân sự chủ yếu vẫn được bảo toàn và trên danh nghĩa, Nga vẫn còn tham chiến, nhưng nước này đã đánh mất những khu vực giàu có nhất và đông dân nhất. 

Thất bại đã làm cho cả những người theo chủ nghĩa tự do lẫn những người bảo thủ bất bình. Các đại biểu quốc hội (Duma) theo chủ nghĩa tự do đòi chính phủ giao chọ họ quyền bổ nhiệm các bộ trưởng. Những người bảo thủ thì muốn Sa hoàng Nikolai II thoái vị và nhường ngôi cho một hoàng thân có năng lực hơn. Trong quân đội, cũng như trong dân chúng, loan truyền các tin đồn về những hành động phản bội trong tầng lớp chóp bu: người ta nghi ngờ hoàng hậu, vốn là một người Đức, chuyển bí mật quân sự cho kẻ thù. Chính phủ còn gặp khó khăn hơn nữa vì nạn lạm phát ở các thành phố, hoạt động đường sắt bị rối loạn gây ra nạn thiếu lương thực và nhiên liệu, nhất là tại Petrograd (Saint-Petersburg cũ). Các tin tức xấu từ mặt trận đưa về, cùng với những bất mãn về chính trị và khó khăn về kinh tế trong các thành phố (nông thôn vẫn yên tĩnh vì nông dân được lợi khi giá lương thực leo thang) đã tạo ra tình thế cách mạng ngay trong tháng 10 cuối năm 1916. 

Có thể nói rằng cuộc Cách mạng năm 1917 đã bắt đầu vào tháng 11 năm trước, khi chính phủ chịu áp lực rất lớn từ cả thành phần tự do lẫn thành phần bảo thủ trong Duma quốc gia. Maliukov, lãnh tụ phe tự do, tố cáo chính phủ phản bội. Những cuộc tấn công như thế của giới chính trị cao cấp làm cho đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn, mọi người đều tin rằng đã đến lúc phải có những biện pháp quyết liệt. Trong khi đó, Sa hoàng, một người tin vào số mệnh, đã chẳng đưa ra được biện pháp củng cố quyền lực nào. 

Sự bất mãn của đơn vị đồn trú ở Petrogard vào tháng 3 năm 1917 đã thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Đơn vị này gồm toàn lính quân dịch đã lớn tuổi, đáng lẽ không còn phải đi nghĩa vụ nữa; họ đã nổi loạn khi được lệnh bắn vào đám đông tay không tấc sắt. Vì sợ cuộc bạo loạn sẽ lan ra mặt trận, để cứu nước Nga khỏi thất bại nhãn tiền, các tướng lĩnh đã thuyết phục Sa hoàng Nicholas thoái vị. Là một người yêu nước, ông nghe theo lời khuyên và thoái vị vào ngày 15 tháng Ba. 

Ngay sau khi Sa hoàng thoái vị, quyền lực được chuyển vào tay chính phủ lâm thời. Cũng thời gian đó, những người trí thức theo phái xã hội chủ nghĩa thành lập ở Petrogard Xô Viết đại biểu binh lính và thợ thuyền. Xô Viết có trách nhiệm theo dõi hoạt động của “chính phủ tư sản”, không để cho nó thực hiện các chính sách phản động. Trong suốt bảy tháng sau đó, nước Nga được quản lý bởi - nếu có thể gọi đó là một sự quản lý – hai chính quyền song song tồn tại, trong đó Xô Viết luôn tìm cách làm mất uy tín của chính phủ nhưng lại chẳng chịu bất kì trách nhiệm nào. Những người trí thức xã hội chủ nghĩa nắm các Xô Viết đã cố tình phá hoại quân đội bằng cách giảm bớt quyền lực của các sĩ quan, họ cho rằng các sĩ quan chính là lực lượng phản cách mạng. Trong khi đó, họ lại đòi phải chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. 

Chính phủ lâm thời hứa sẽ sớm tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến để tạo ra các cơ quan quyền lực của nền cộng hoà, nhưng vì có quá nhiều việc khẩn cấp nên cuộc bầu cử cứ bị hoãn đi hoãn lại mãi. Công cuộc cải cách ruộng đất cũng được tiến hành rất chậm. Quá sốt ruột, nông dân bắt đầu tấn công các trang trại, còn binh lính thì bỏ mặt trận về nhà để không lỡ dịp nhận phần trong vụ tái phân phối ruộng đất đang sắp diễn ra. Các dân tộc thiểu số cũng bắt đầu đòi quyền tự quản, có cả những trường hợp đòi được độc lập hoàn toàn. Trong lúc đó, chính phủ lâm thời tiếp tục kêu gọi tiến hành chiến tranh, một cuộc chiến ngày càng mất lòng dân hơn. Chính quyền chứ không phải tình đoàn kết xã hội đã giữ cho nước Nga thống nhất trong hàng thế kỷ, nay quyền lực ấy không còn, đất nước trượt dần vào cảnh hỗn loạn vô chính phủ. 

Đấy chính là vận may của Lenin. Đầu năm 1917 ông ta vẫn còn sống ở Thuỵ Sĩ. Vừa nhận được tin về cuộc Cách mạng tháng Ba, ông ta lập tức đánh điện cho các đồ đệ ở Nga, hạ lệnh cho họ bất tín nhiệm chính phủ lâm thời, không được liên minh với các đảng xã hội chủ nghĩa khác và tiến hành vũ trang cho công nhân. Ông ta chỉ muốn mau chóng quay về để nắm trực tiếp quyền điều hành cách mạng. 

Quân Đức và quân Áo, bị kìm chân trên mặt trận phía Tây trong một cuộc chiến hao người tốn của, đã theo dõi rất kĩ mọi động tĩnh của các di dân phản chiến người Nga, trong đó có Lenin. Lenin đã liên hệ với đại sứ quán Đức ở Thuỵ Sĩ để nhờ giúp đỡ trong việc trở về nước. Berlin không chỉ cho ông ta và những người xã hội chủ nghĩa khác đi qua nước Đức mà còn cung cấp cho ông ta tiền để khôi phục hoạt động của đảng. Lenin, một người không bao giờ quan tâm đến nguồn gốc của đồng tiền, miễn là đồng tiền đó phục vụ cho mục đích của ông ta, đã nhận lời. Sau đó, qua trung gian và rất kín đáo, ông ta được người Đức bảo trợ suốt một năm rưỡi. 

Vừa về đến Petrograd, Lenin đã vội vã tập trung tấn công một cách không khoan nhượng vào chính phủ lâm thời, đòi phải lật đổ chính phủ này ngay lập tức: không được để cho nó thiết lập ở Nga chế độ “tư sản”, tức là ông ta có ý kiến trái ngược hẳn với những người Menshevik và đa số ủng hộ viên của chính mình. Tháng 7 năm 1917, Đảng Bolshevik đã thực hiện một cuộc đảo chính, nhưng chính phủ đã kịp thời đập tan vụ bạo loạn và sau đó cho công bố một loạt thông tin tình báo về mối liên hệ của Lenin với Đức. Đã có lệnh bắt giam Lenin và một loạt lãnh tụ Bolshevik khác, kể cả Trotsky, một người vừa ra nhập đảng của Lenin trước đó không lâu. Trotsky bị bắt, nhưng Lenin thì kịp trốn qua Phần Lan và ẩn náu ở đó cho mãi đến sát ngày đảo chính vào tháng 11 năm 1917 mới trở về. 

Lenin không được nhiều người ủng hộ, nhưng họ là những người rất đoàn kết và thực hiện nghiêm chỉnh mọi chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương. Không đảng nào có tổ chức chặt chẽ như thế: Đảng Dân chủ Cách mạng tuy được lòng quần chúng hơn, nhưng tổ chức lại lỏng lẻo, không đủ sức động viên quần chúng. Menshevik và những đảng theo đường lối dân chủ lập hiến khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Hơn nữa, chỉ có Lenin là có khát vọng nắm quyền lực, ngoài ông ta, không có chính khách nổi tiếng nào sẵn sàng nhận lãnh trách niệm quản lý một đất nước đã mất kiểm soát về mọi phuơng diện. Lenin, người suốt đời chuẩn bị cho giây phút ấy, đã theo dõi sát sao sự phát triển của các sự kiện và chọn được đúng thời điểm ra đòn. 

Đấy là cuối mùa hè, khi Aleksander Kerensky, trên danh nghĩa là một nhà độc tài, nhưng ít quyền lực, bất hoà với tướng Lavr Kornilov, tổng chỉ huy quân đội Nga, vu cho ông ta chuẩn bị đảo chính. Vì những hành động thiếu trách nhiệm như thế, Kerensky đánh mất sự ủng hộ của quân đội, một điều tối cần thiết nếu những người Bolshevik có ý định cướp chính quyền một lần nữa. Ông ta lại còn dung túng Đảng Bolshevik như thả họ ra khỏi nhà tù và phát vũ khí để họ chiến đấu chống lại cuộc bạo loạn giả định của Kornilov. Đảng Bolshevik đã giành thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử Xô Viết, Lenin coi đây là tín hiệu để ra đòn quyết định. Nghị quyết về việc cướp chính quyền được thông qua tại cuộc họp bí mật của các lãnh tụ Bolshevik vào đêm ngày 23 sang ngày 24 tháng 10 năm 1917. Lenin phải đấu tranh rất lâu mới thuyết phục được những người dao động, họ sợ sẽ lại thất bại như hồi tháng 7. 

Cuộc đảo chính diễn ra vào ngày 7 tháng 11, các đơn vị thân Bolshevik đã chiếm được tất cả các vị trí chiến lược ở thủ đô mà không phải bắn một phát súng nào. Ở Moskva có xảy ra vài cuộc đụng độ, còn tại các vùng khác, việc chuyển giao quyền lực diễn ra một cách êm thấm. Sau này, Lenin nói rằng việc cướp chính quyền ở Nga dễ dàng chẳng khác gì “nhặt một cái lông chim”. Nguyên nhân ở đây là việc cướp chính quyền được ông ta che đậy một cách khéo léo bằng khẩu hiệu “tất cả chính quyền về tay Xô Viết”, hứa hẹn cho nhân dân chế dân chủ chứ không phải chính quyền độc tài. Ngay cả những đảng theo xu hướng xã hội chủ nghĩa cạnh tranh với Lenin, những người vốn nghi ngờ ông ta, cũng không tỏ ra lo lắng vì họ tin rằng chế độ chuyên chính độc đảng không thể đứng vững được lâu, trước sau gì cũng sẽ phải nhường chỗ cho liên hiệp các đảng xã hội chủ nghĩa mà thôi. Họ chấp nhận để Lenin sử dụng quyền lực một thời gian, miễn là không xảy ra nội chiến vì như thế sẽ chỉ có lợi “cho lực lượng phản cách mạng”. 

Kết quả là. những người Bolshevik nắm được quyền lực trong suốt 74 năm trời. Như vậy nghĩa là chế độ cộng sản được thiết lập ở Nga không phải là do kết quả của một cuộc khởi nghĩa của quần chúng: nó được áp đặt từ trên xuống bởi một nhúm người nấp sau các khẩu hiệu dân chủ. Yếu tố mà ai cũng thấy đó đã ghi dấu ấn lên toàn bộ lịch sử chế độ cộng sản ở Nga. 
______________


[1] Naum Jasny, The Socialized Agriculture of the USSR (Nền nông nghiệp xã hội hóa của Liên Xô) (Stanford, 1949, trang 145-146


No comments:

Post a Comment