Richard
Pipes
Phạm Nguyên Trường dịch
_______
I.
Chủ nghĩa Lenin (1)
Bắt đầu từ năm
1709, khi Peter Đại Đế đánh bại Thuỵ Điển ở Poltava và chấm dứt giai đoạn bá
quyền của họ ở vùng Baltic, nước Nga được coi và cũng tự coi là siêu cường và
đòi hỏi vị trí siêu cường của mình trên lục địa châu Âu.
Richrad Pipes (1923)
Ở khía cạnh nào đó, đòi hỏi này là chính đáng. Saint-Peterburg,
thủ đô của nước Nga, được xây dựng theo mô hình của Amsterdam, trên thực tế, là
một thành phố châu Âu, còn giới thượng lưu Nga, nói thông thạo tiếng Pháp,
không xa lạ gì với văn hoá phương Tây. Văn học, nhạc, nghệ thuật và khoa học
Nga xuất hiện vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có thể so sánh với văn hoá châu
Âu và trong một vài lĩnh vực còn đi tiên phong, điều này dễ làm người ta ngộ
nhận.
Nhưng, nền văn hoá cao đó chỉ là tài sản của một giai tầng hạn hẹp
của xã hội, đấy là giới quý tộc, trí thức và tầng lớp quan chức cao cấp. Ba
phần tư dân chúng của đế chế là nông dân, mà phần đông trong số họ vẫn sống
trong một thế giới riêng, chưa hề bị nền văn minh châu Âu đụng chạm tới. Họ
không có tiếng nói chung với những người có học, thậm chí còn coi giới trí thức
như người ngoại quốc. Đa số nông dân Nga không phải là các điền chủ, tự canh
tác trên khoảnh đất của mình; họ là thành viên của các công xã nông thôn và
thường phân chia lại ruộng đất theo định kì, tuỳ thuộc vào sự thay đổi số nhân
khẩu trong từng gia đình. Theo quan niệm của nông dân, ruộng đất không phải là
hàng hoá mà là nguồn sống, chỉ có những người canh tác mới có quyền sở hữu
ruộng đất.
Nông dân còn có đặc điểm là bảo thủ, trung thành với Hoàng đế và
nhà thờ Chính thống giáo. Chỉ có một khía cạnh và là khía cạnh duy nhất, trong
đó người nông dân có thể trở thành động lực của cách mạng, mà cụ thể là: họ là
những người không đủ ruộng đất canh tác. Người nông dân Nga không phải là giai
cấp vô sản bị áp bức ở nông thôn: năm 1916 họ chiếm tới 89,1% đất canh tác tại
phần châu Âu của nước Nga[1].
Nhưng số lượng nông dân lại tăng nhanh hơn phần diện tích canh tác nằm dưới
quyền sử dụng của họ: nếu giữa thế kỷ XIX, một diện tích đất dành cho hai nhân
khẩu thì sau 50 năm phải nuôi đến ba nhân khẩu. Phương pháp quảng canh truyền
thống cùng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt làm cho năng suất không cao. Nông
dân tin rằng một ngày nào đó Sa hoàng, mà họ coi là người chủ hợp pháp của toàn
bộ đất đai, sẽ thu hồi đất của địa chủ và cả những nông dân sở hữu ruộng đất để
phân chia cho các công xã. Nếu ông ta không làm như thế, đầu những năm 1890 đã
xuất hiện những ngờ vực là ông ta không làm như thế, thì nông dân sẵn sàng
chiếm ruộng đất bằng vũ lực. Các tác nhân khác cũng góp phần ngăn chặn việc
biến Nga thành một nước phương Tây. Trong suốt quá trình lịch sử của mình,
chính quyền Nga là chính thể chuyên chế, Sa hoàng không chỉ có toàn quyền trong
các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn sở hữu toàn bộ đất nước theo
đúng nghĩa đen của từ này, ông ta có thể sử dụng cả nhân tài và vật lực của
quốc gia theo ý mình; đấy là một chế độ mà Max Weber, nhà xã hội học Đức, gọi
là “patimonial” (tạm dịch: làng xã - là các hệ thống nhỏ, mang tính truyền
thống, quyền lực mang tính cá nhân và độc đoán biến người dân thường thành
khách hàng của người cai trị chứ không còn là công dân có các quyền - ND). Việc quản lý đế chế rộng lớn này được giao cho tầng lớp quan
lại, cùng với lực lượng cảnh sát và quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, họ
không bao giờ phải báo cáo hay chịu trách nhiệm gì trước dân chúng. Cho đến năm
1905 - khi các phong trào nổi dậy của dân chúng buộc Sa hoàng phải ban bố hiến
pháp và các quyền dân sự - người dân Nga có thể bị bắt và lưu đày mà không cần
xét xử chỉ vì những suy tư về việc thay đổi hiện trạng.
Cuối thế kỷ XVIII, sở hữu tư nhân về ruộng đất mới được áp dụng ở
nước Nga, mà cũng chỉ giới quý tộc mới được hưởng quyền này, còn trước đó, tất
cả ruộng đất đều là sở hữu của nhà vua. Trong khi đó, ở phương Tây, ngay từ
thời Trung cổ, phần lớn ruộng đất đã thuộc quyền sở hữu tư nhân. Các thiết chế
pháp lý, thường phát triển song hành với quyền tư hữu, cũng mãi sau này mới xuất
hiện: các bộ luật đầu tiên xuất hiện vào năm 1830 và mãi đến năm 1860 mới có
các toà án thực sự. Cho đến lúc đó, đa số người dân Nga vẫn là nông nô của nhà
nước hay của tầng lớp quý tộc, không được hưởng quyền tư pháp và quyền sở hữu
tài sản. Các cơ quan đại diện có mục đích ngăn chặn bớt quyền lực của ngai vàng
xuất hiện vào năm 1906, nghĩa là chậm một thế kỷ so với quốc hội phương Tây.
Chưa có bộ luật dân sự. Điều đó chứng tỏ rằng, đa số người Nga, cũng như các
dân tộc bị họ cai trị, không thể trông cậy gì vào chính phủ của mình. Họ phục
tùng vì không có con đường nào khác, lý tưởng của họ là vô chính phủ.
Các Sa hoàng, trong khi bóp nghẹt đất nước như thế, nhưng lại muốn
giữ địa vị siêu cường, đã buộc phải thực hiện những bước đi mà chắc chắn sẽ làm
lung lay quyền lực của chính hoàng gia. Các trường đại học Nga, trong khi tiến
hành công việc phổ biến kiến thức và phương pháp tư duy có tính phê phán, đã
góp phần tạo ra một tầng lớp công dân không chấp nhận việc bóp nghẹt tự do ngôn
luận. Alexander Herzen viết về nan đề của thế hệ ông như sau:
Người ta dạy chúng tôi kiến thức, người
ta gieo vào lòng chúng tôi ước mơ, khát vọng và nỗi đau của thế giới đương đại,
nhưng sau đó họ lại hạ lệnh: “Hãy tiếp tục làm nô lệ, tiếp tục là những người
câm, những người bất động nếu không các ngươi sẽ chết”.
Chính sách mâu thuẫn như thế đã tạo ra một tầng lớp trí thức đặc
trưng bởi thái độ thù địch với toàn bộ trật tự xã hội và thể chế chính trị hiện
hành, họ tin rằng hành động như thế chính là cách nói thay cho người dân thấp
cổ bé miệng. Môi trường hoạt động của các nhà cách mạng, từ những “thánh tông
đồ” của các biện pháp bất bạo động đến những kẻ khủng bố cực đoan, không phải
là công trường hay nhà máy mà chính là các trường đại học.
Các Sa hoàng còn khuyến khích phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa,
đây cũng là chính sách góp phần làm lung lay hệ thống quyền lực của ngai vàng.
Nước Nga đã thua các nước dân chủ và công nghiệp hoá trong cuộc chiến tranh Krimea
năm 1854-1855, cuộc chiến tranh được tiến hành ngay trên lãnh thổ của mình.
Thất bại nhục nhã này một lần nữa chứng tỏ rằng, trong thế giới hiện đại, một
nước thiếu nền công nghiệp và hệ thống giao thông vận tải phát triển thì không
thể tranh giành hay giữ được vị thế siêu cường. Thất bại đã thúc đẩy các Sa
hoàng khuyến khích phát triển cả công nghiệp lẫn hệ thống giao thông bằng nguồn
vốn trong và ngoài nước. Hậu quả là đã xuất hiện các trung tâm ra quyết định độc
lập chính phủ và bộ máy quan liêu.
Giáo dục phát triển, công nghiệp hoá nhằm đáp ứng tham vọng của
nước Nga đã xói mòn quyền lực của chế độ đối với đất nước.
Những tác nhân đó giúp ta hiểu được vì sao cách mạng cộng sản - theo
Marx phải diễn ra ở các nước phương Tây công nghiệp hoá - lại nổ ra ở nước Nga
nông nghiệp. Ở Nga, không có các tác nhân ngăn chặn những cuộc cách mạng xã
hội: đấy là tinh thần thượng tôn pháp luật và tôn trọng quyền tư hữu, ngoài ra,
ở phương Tây, dân chúng còn tôn trọng chính phủ vì chính phủ của họ luôn bảo vệ
quyền tự do của người dân và cung cấp các dịch vụ xã hội. Tầng lớp trí thức cấp
tiến say mê lý tưởng, một bên và giai cấp nông dân, những người luôn khát khao
chiếm đoạt lấy một mảnh ruộng riêng, một bên, đã tạo ra tình trạng căng thẳng
thường trực, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào, nhất là khi chính phủ trung ương
rơi vào tình trạng khó khăn. Ở đây, các tác nhân kinh tế mà Marx và Engels đưa
ra chẳng có vai trò gì.
Những tác nhân dẫn nước Nga đến cách mạng cũng chính là những tác
nhân quyết định hình thức của chế độ cộng sản sẽ xuất hiện tại đây. Hoá ra chủ
nghĩa xã hội được đưa vào đất nước chưa hề biết đến những truyền thống có thể
giúp đạt được lý tưởng do Marx đặt ra sẽ tự phát và nhanh chóng tiếp thu những
khía cạnh xấu xa nhất của chế độ Sa hoàng mà nó vừa lật đổ. Ở phương Tây, các
khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa ngày một mờ nhạt dần và trở thành một phần không thể
tách rời của những người theo chủ nghĩa tự do, thì ở Nga và các nước ngoài
phương Tây, lại được lèo lái theo những khái niệm quen thuộc về quyền lực vô
giới hạn của nhà nước đối với các công dân và tài sản của họ. Chủ nghĩa toàn
trị Xô Viết, sinh ra từ hạt giống Marxist, nhưng được gieo trên cánh đồng làng
xã của chế độ Sa hoàng, đã hình thành như thế đấy.
Phong trào cách mạng Nga xuất hiện trong những năm 1870, dưới ảnh hưởng của các học thuyết vô chính phủ và xã hội chủ nghĩa phương Tây, đã tìm được những đồ đệ chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên. Những người thanh niên đó thâm nhập về nông thôn, tưởng rằng sẽ được nông dân đón tiếp nồng hậu, nhưng họ đã thất vọng. Hoá ra nông dân không chỉ căm thù những người hàng xóm giàu có hơn, những người được gọi là “kulak”, mà chính họ cũng lại muốn trở thành những người như thế. Họ tin Sa Hoàng, tin rằng ông ta sẽ chia ruộng đất cho mình.
Thất vọng, đa số những thanh niên này đã rời bỏ phong trào. Nhưng một nhóm nhỏ, liên kết thành Đảng “Ý Dân”; đảng này tập trung tất cả cố gắng vào việc làm cho nhân dân không còn sợ hãi và kính trọng Sa hoàng nữa. Để đạt mục đích đó, họ bắt đầu bằng những vụ ám sát các viên chức cao cấp của chính phủ. Ý Dân là tổ chức đầu tiên trong lịch sử đã gây ra hàng loạt những vụ khủng bố chính trị. Tháng 3 năm 1881, đảng này ám sát Sa hoàng Alexander II, một ông vua mà trước đấy 20 năm đã giải phóng những người nông nô Nga. Vụ ám sát không đạt được mục đích. Nó còn có tác dụng ngược: không những không kêu gọi được nhân dân vùng lên chống lại chế độ, vụ ám sát còn làm cho nhiều người bất mãn và làm mất niềm tin vào các biện pháp cách mạng trong một thời gian.
Phong trào cách mạng Nga xuất hiện trong những năm 1870, dưới ảnh hưởng của các học thuyết vô chính phủ và xã hội chủ nghĩa phương Tây, đã tìm được những đồ đệ chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên. Những người thanh niên đó thâm nhập về nông thôn, tưởng rằng sẽ được nông dân đón tiếp nồng hậu, nhưng họ đã thất vọng. Hoá ra nông dân không chỉ căm thù những người hàng xóm giàu có hơn, những người được gọi là “kulak”, mà chính họ cũng lại muốn trở thành những người như thế. Họ tin Sa Hoàng, tin rằng ông ta sẽ chia ruộng đất cho mình.
Thất vọng, đa số những thanh niên này đã rời bỏ phong trào. Nhưng một nhóm nhỏ, liên kết thành Đảng “Ý Dân”; đảng này tập trung tất cả cố gắng vào việc làm cho nhân dân không còn sợ hãi và kính trọng Sa hoàng nữa. Để đạt mục đích đó, họ bắt đầu bằng những vụ ám sát các viên chức cao cấp của chính phủ. Ý Dân là tổ chức đầu tiên trong lịch sử đã gây ra hàng loạt những vụ khủng bố chính trị. Tháng 3 năm 1881, đảng này ám sát Sa hoàng Alexander II, một ông vua mà trước đấy 20 năm đã giải phóng những người nông nô Nga. Vụ ám sát không đạt được mục đích. Nó còn có tác dụng ngược: không những không kêu gọi được nhân dân vùng lên chống lại chế độ, vụ ám sát còn làm cho nhiều người bất mãn và làm mất niềm tin vào các biện pháp cách mạng trong một thời gian.
Phong trào dân chủ-xã hội thâm nhập vào nước Nga trong những năm
1890. Phong trào này có sức hấp dẫn vì trong mười năm đó, nước Nga đã trải qua
quá trình công nghiệp hoá một cách nhanh chóng, khả năng xuất hiện nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa với những hậu quả xã hội đi kèm với nó, được Marx mô tả trong Tư
bản luận, đang đến rất gần. Tại các trường đại học, các nhóm thanh niên có
xu hướng dân chủ-xã hội mọc lên như nấm sau mưa, các nhóm này coi khủng bố là
sách lược không có tương lai, họ hy vọng vào quá trình phát triển tự nhiên của
nền kinh tế. Cùng với thời gian, thành viên của các nhóm này tin rằng nước Nga
đang trải qua tất cả các mâu thuẫn đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và cách mạng nhất
định sẽ nổ ra.
Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập tại một đại hội
bí mật, bị cảnh sát giải tán, vào năm 1898. Tuyên ngôn của đại hội, do Peter
Struve chấp bút, nói rằng nước Nga sẽ giành được tự do không phải bằng những cố
gắng của giai cấp tư sản khiếp nhược mà bằng sức mạnh của giai cấp công nhân
công nghiệp. Giai cấp công nhân sẽ giải phóng đất nước khỏi chế độ độc tài và
khai phá con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiên đề này sẽ trở thành luận
điểm chủ yếu của phong trào dân chủ xã hội Nga: cách mạng sẽ trải qua hai giai
đoạn; giai đoạn thứ nhất có nhiệm vụ lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng và thành
lập chế độ dân chủ “tư sản”, giai đoạn hai có nhiệm vụ lật đổ chính chế độ này
và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chiến lược sao chép phương châm của Marx
và Engels, hai ông này từng kêu gọi lập các liên minh chiến thuật với những
người theo chủ nghĩa tự do trong cuộc đấu tranh chống lại các chế độ độc tài.
Về mặt hình thức, Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập
tại đại hội ở London, năm 1903. Ngay tại đây, phong trào đã chia thành hai
phái, một phái do Martov đứng đầu, gọi là “Menshevik”, phái kia do Lenin đứng
đầu, gọi là “Bolshevik”. Dù đã có những cố gắng hoà giải, nhưng hai phái này
không bao giờ hoà thuận được vì thái độ thù địch không khoan nhượng của Lenin
đối với bất kì người nào có ý chống lại sự lãnh đạo của ông ta. Vì người ta
thường liên tưởng chủ nghĩa cộng sản
với tên tuổi của Lenin và Đảng của ông, xin dừng lại một chút và xem xét kĩ hơn
con người này, một người từng có ảnh hưởng bao trùm đối với nền chính trị thế
giới trong suốt thế kỷ XX.
____________
Vladimir Ilych Ulyanov Lenin sinh năm 1870 tại thành phố Simbirsk,
bố ông ,vốn xuất thân từ thành phần quý tộc, được bổ nhiệm làm thanh tra viên
trong ngành giáo dục và cũng là một người có quan điểm bảo thủ và rất trung
thành với nhà thờ Chính thống giáo. Trong buổi hoàng hôn của đế chế Nga, rõ
ràng là, con cái của những gia đình quan chức cao cấp như thế cảm thấy như có
lỗi vì những đặc quyền đặc lợi và dễ trở thành những người có tư tưởng cấp
tiến. Năm 1887, người anh của Lenin, Alexander, bị kết án tử hình vì tham gia
vào vụ mưu sát Sa hoàng Alexander III. Các chị em gái của Lenin cũng không
tránh được rắc rối và cũng từng bị tù đày. Nhưng, trong những năm còn học phổ
thông, Lenin không hề quan tâm đến chính trị: là một học sinh có năng khiếu,
cậu học trò Volodia mỗi năm lại lên một lớp và năm nào cũng được nhận bằng khen
không những vì đã có thành tích trong học tập mà còn chứng tỏ là một học trò
ngoan.
Lenin năm 1917
Rắc rối xuất hiện vào năm 1887, đấy là năm Lenin thi vào trường
đại học tổng hợp Kazan. Cảnh sát bắt đầu chú ý đến Lenin khi ông tham gia vào
những vụ lộn xộn của sinh viên nhằm phản đối các quy định của nhà trường. Sau
khi bị nhận diện là em của một kẻ khủng bố đã bị tử hình, Lenin bị đuổi học và
mặc dù bà mẹ đã nhiều lần làm đơn xin, ông ta không bao giờ được nhận trở lại
trường nữa. Lenin phải ăn không ngồi rồi suốt ba năm trời, lòng căm thù chế độ
cũng ngày một dâng cao. Chỉ vì một lỗi nhỏ mà chế độ trừng phạt một cách quá
nghiêm khắc và như thế đã chặn đứng vĩnh viễn con đường hoạn lộ của ông ta. Ông
ta không chỉ căm thù chế độ mà còn căm thù “giai cấp tư sản”, giai cấp đã chối
bỏ gia đình ông chỉ vì có một người anh bị tử hình. Điều đó đã biến ông ta
thành một nhà cách mạng cuồng tín, một người quyết tâm đập phá tan tành chế độ
chính trị và xã hội hiện hành. Như vậy nghĩa là, nhiệt tình cách mạng của Lenin
không phải xuất phát từ lòng yêu thương giai cấp cần lao. Trên thực tế, năm
1891-1892, ở vùng Volga xảy ra nạn đói thì chỉ có ông ta là người trí thức duy
nhất trong vùng phản đối việc giúp đỡ những người nông dân nghèo đói vì cho
rằng nạn đói có vai trò tích cực trong việc phá huỷ nền kinh tế tiểu nông cổ
truyền, dọn đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệt tình cách mạng của ông ta
cũng không được hâm nóng bởi viễn kiến về một tương lai tươi sáng hơn. Nền tảng
của nó là lòng hận thù và khát khao báo thù. Struve, người từng cộng tác với
Lenin trong những năm 1890, sau này đã viết rằng, đặc điểm chủ yếu của Lenin là
lòng hận thù. Tố chất bẩm sinh đó của con người Lenin, một người mà động lực
chủ yếu là sự ác cảm và thù địch đối với tất cả những gì xa lạ, dù đấy là những
giai cấp hay các dân tộc và sắc tộc khác, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời
sống chính trị thế giới trong suốt thế kỷ XX.
Năm 1891, chính quyền đã tỏ ra độ lượng và cho phép Lenin thi lấy
bằng luật sư như một thí sinh tự do. Lenin thi đỗ và chuyển về sống ở
Saint-Petersburg. Ông ta có làm công việc tranh tụng một thời gian, nhưng đấy
chỉ là bức bình phong cho hoạt động cách mạng của ông ta mà thôi. Những người
dân chủ xã hội ở đây không những không coi Lenin là một người Marxist mà còn
coi là một người thuộc phái “Ý dân”, một người ủng hộ khủng bố, nôn nóng, muốn
bắt đầu cách mạng ngay mà không chờ cho chủ nghĩa tư bản phát triển chín muồi.
Qua giao tiếp với những người được chuẩn bị kĩ lưỡng hơn về mặt lý luận, có
thời gian Lenin đã ngả sang tư tưởng về hai giai đoạn cách mạng. Là một người
có kỉ luật, năng nổ và hết mình vì sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội, Lenin nhanh
chóng giành được địa vị cao trong phong trào dân chủ xã hội đang còn trong vòng
bí mật.
Vì những vụ sách động công nhân đình công, năm 1896 Lenin bị bắt
và bị đầy đi Siberia. Ông ta sống trong ngôi nhà thuê của một gia đình nông
dân, khá đầy đủ tiện nghi, với người vợ chưa cưới là Nadezhda Krupskaya. Trong
ba năm đó, ông ta chuyên tâm vào việc viết lách, dịch và trao đổi thư từ với
bạn bè. Trong những năm Lenin bị lưu đầy (1897-1900), ở Đức nổi lên phong trào
xét lại chủ nghĩa Marx và từ đó, phong trào này thâm nhập vào nước Nga. Cương
lĩnh xét lại làm Lenin choáng váng, ông coi coi đây là sự phản bội sự nghiệp đã
làm cho ông ta trở thành một người xã hội chủ nghĩa. Ông ta còn cảm thấy cay
đắng hơn khi nhận ra rằng phong trào công nhân đang hình thành ở Nga lại thiên
về các hoạt động công đoàn theo đường lối hoà bình chứ không có ý định lật đổ
chủ nghĩa tư bản. Diễn biến của các sự kiện như thế làm Lenin rơi vào một cuộc khủng
hoảng nội tâm sâu sắc. Cuối cùng, ông ta tự khẳng định rằng, nếu không đưa được
những người dân chủ xã hội quay sang con đường cách mạng thì chính ông ta sẽ ly
khai và thành lập đảng riêng của mình.
Vừa ra khỏi tù, Lenin lập tức đi sang Đức và cùng với Martov lập
ra tờ báo Iskra (Tia lửa nhỏ) nhằm
truyền bá chủ nghĩa Marx chính thống, chống lại trào lưu xét lại lúc đó. Nhưng,
chính cách hiểu chủ nghĩa Marx của ông ta lại chẳng chính thống một chút nào.
Năm 1902, với tác phẩm Что
делать? (Làm gì?), Lenin đã đưa ra những
luận điểm chủ yếu của cái học thuyết mà sau này được gọi là chủ nghĩa
Bolshevik. Trong tác phẩm này, ông ta đã phủ nhận một cách dứt khoát quan điểm
chủ yếu của chủ nghĩa Marx, tức là quan điểm nói rằng nhất định giai cấp công
nhân sẽ nổi dậy: Tự mình, giai cấp công nhân sẽ không vượt qua khuôn khổ của
các hoạt động công đoàn, ông ta khẳng định như thế. Nhiệt tình cách mạng phải
được đưa vào từ bên ngoài, phải nhờ vào một đảng cố kết của những nhà cách mạng
chuyên nghiệp. Mặc dù Lenin không nói rõ, nhưng những nhà cách mạng chuyên
nghiệp phải là các trí thức, vì công nhân không có thì giờ và cũng chẳng có
kiến thức để thực hiện sứ mệnh này*. Trên thực tế, ban lãnh đạo đảng của Lenin
chỉ có một người từng là công nhân, nhưng hóa ra lại là chỉ điểm của cảnh sát.
*
Benito Mussolini, người lập ra Đảng Fascist, nhưng trước Thế chiến I lại là
lãnh tụ của cánh cực đoan của phong trào dân chủ xã hội Italy lúc đó cũng có
cùng quan điểm như thế.
Năm 1903, Lenin đến đại hội với tinh thần sẵn sàng chia rẽ đảng và
đoạn tuyệt với đa số có xu hướng hoà bình chủ nghĩa. Về mặt hình thức, nguyên
nhân của sự phân liệt là do Lenin đòi hỏi rằng một người muốn trở thành đảng
viên thì không những phải ủng hộ cương lĩnh của đảng mà còn phải cống hiến trọn
đời cho hoạt động cách mạng. Đảng được tổ chức như một đạo quân, với hệ thống
kỉ luật và phục tùng tuyệt đối sẽ lãnh đạo chứ không phải theo đuôi phong trào
công nhân. Vừa giành được một đa số tạm thời tại đại hội, Lenin lập tức gọi
phái của mình là “Bolshevik”, nghĩa là “đa số”, còn những người phản đối ông
ta, dưới sự dẫn dắt của Martov, đành chấp nhận nhãn hiệu “Menshevik”, nghĩa là “thiểu
số”.
Lịch sử mười năm tiếp theo của Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga
chứa đầy các âm mưu và những cuộc cãi vã nhảm nhí. Lenin gọi những người
Menshevik là “bọn phản bội”, “bọn đầu hàng” và những danh từ mang tính nhục mạ
tương tự như thế. Muốn lập đảng của những nhà cách mạng chuyên nghiệp thì cần
phải có tiền, Lenin đã kiếm tiền bằng những cách phải nói là chẳng hay ho gì,
kể cả cướp bóc ngân hàng và tranh đoạt tài sản kế thừa của người khác.
Ngay trước Thế chiến I, Lenin đã đưa ra hai lý thuyết mới. Thứ
nhất, nước Nga không cần cách mạng “tư sản” vì chủ nghĩa tư bản đã làm đất nước
chấn động và đã sẵn sàng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa rồi. Thứ hai,
trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ hiện hành, những người xã hội chủ nghĩa
có thể tham gia liên minh tạm thời với mọi lực lượng, tức là những lực lượng vì
quyền lợi của mình mà đấu tranh chống lại chế độ hiện hành, đặc biệt là nông
dân và các dân tộc thiểu số.
Những người Marxist coi nông dân là giai cấp “tiểu tư sản” và vì
vậy, về bản chất, là kẻ thù của giai cấp công nhân công nghiệp. Nhưng, Lenin
lại cho rằng người nông dân chỉ ước mong có ruộng và sẵn sàng đứng lên làm cách
mạng, ông ta tin rằng chỉ cần nắm được quyền lực là có thể buộc nông dân phải
đi theo bằng cách quốc hữu hoá ruộng đất. Về các sắc dân thiểu số, Lenin, cũng
như tất cả những người xã hội chủ nghĩa khác, đều coi thường mọi biểu hiện của
chủ nghĩa dân tộc. Nhưng ông ta cũng cho rằng tinh thần dân tộc của người Ba
Lan, người Phần Lan và các sắc dân thiểu số khác lại góp phần vào việc lật đổ
chế độ. Vì vậy, ông ta đã hứa bảo đảm cho tất cả các dân tộc nằm dưới sự cai
trị của người Nga quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền thành lập nhà nước độc
lập. Trả lời câu hỏi có phải như thế là “Balkan hoá” nước Nga hay không, ông ta
nói rằng các mối liên kết kinh tế gắn bó đế chế Nga mạnh đến nỗi khuynh hướng
phân liệt không thể có cơ may thành công, mà nếu có một hai khu vực biên thuỳ
nào đó làm được chuyện này thì vẫn có thể dùng vũ lực để bắt họ quay trở lại vì
“quyền vô sản tự quyết” phải cao hơn “quyền dân tộc tự quyết”.
Từ năm 1900 đến năm 1917, Lenin hầu như chỉ sống ở nước ngoài. Dù
ở Đức, ở Áo, Italy hay Thuỵ Sĩ ông ta đều tìm cách chia rẽ Quốc tế II như đã
từng chia rẽ Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, nhưng kết quả không đáng là
bao. Ông ta vẫn giữ mối liên hệ với các đệ tử ở Nga và dành nhiều thời gian
viết báo để mạt sát những người bất đồng quan điểm. Trừ những học trò gần gũi –
ông ta thường cố gắng thuyết phục khi những người này lầm lạc – tất cả những người
bất đồng ý kiến đều bị ông ta gọi là bọn phản bội giai cấp công nhân.
Suốt thời gian đó, ông ta chỉ về Nga có một lần, đấy là trong thời
gian diễn ra cuộc Cách mạng năm 1905. Lợi dụng những quyền tự do được chế độ
nới rộng trong thời kì cách mạng, các đảng viên Bolshevik lập tức công khai
thành lập các tổ chức của mình. Quần chúng không ủng hộ bất kì phái dân chủ xã
hội nào: năm 1907, tổng số đảng viên của tất cả các phái cũng chỉ là 84.000
người, khi cách mạng rơi vào thoái trào thì con số này cũng giảm, năm 1910 chỉ
còn lại 10.000 đảng viên, đấy là trong một nước có 150 triệu dân. Những người
ủng hộ Bolshevik đa phần là dân Nga, còn những người thiểu số, thí dụ như người
Do Thái hoặc Georgia, thì ngả về phía Menshevik. Cả hai phái đều chẳng có mấy
công nhân, đa số đảng viên đều thuộc tầng lớp trí thức.
Chiến tranh thế giới xảy ra. Những người dân chủ xã hội Nga, cả
Bolshevik lẫn Menshevik, là những người duy nhất, nếu không kể đến người Serbi,
biểu quyết phản đối ngân sách chiến tranh. Các đại biểu quốc hội là đảng viên
Bolshevik đều bị bắt và bị lưu đầy vì tội hoạt động đối lập. Tổ chức đảng của
họ gần như không còn.
Khi chiến tranh nổ ra, lập trường của Lenin là rất rõ ràng: phải
biến chiến tranh giữa các nước thành chiến tranh giữa các giai cấp. Giai cấp
công nhân các nước không được bắn giết lẫn nhau mà phải quay súng chống lại
những kẻ bóc lột mình. Có một số người thuộc Quốc tế II ủng hộ quan điểm này,
họ lập tức tụ họp ở Thuỵ Sĩ, một nước giữ thái độ trung lập. Người Nga có một
phái đoàn rất mạnh tại các cuộc gặp gỡ này và Lenin đã giành được quyền lãnh
đạo phái tả cấp tiến. Mặc dù các nghị quyết do ông ta đề xuất đã không được
thông qua, nhưng ông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với các cuộc thảo luận và đấy
là cơ sở cho việc thành lập Quốc tế III hay còn gọi là Quốc tế Cộng sản vào năm
1919.
_______________
Nước Nga là đồng minh của Anh và Pháp. Nga tham gia liên minh vì
sợ rằng Đức và Áo sẽ mở rộng sang phía Đông và phía Nam và sẽ chiếm một phần
lãnh thổ, biến Nga thành một nước loại hai. Pháp phải hợp tác với Nga vì sợ
Đức, Pháp chỉ có thể đứng vững được nếu Đức phải chiến đấu trên cả hai mặt
trận. Thoả thuận mà Pháp kí với Nga có điều khoản là Nga sẽ tấn công Đức và
tiến nhanh về hướng Berlin một khi quân Đức tràn vào Pháp.
Nhưng hoá ra kế hoạch của các bên tham chiến đều không được thực
hiện. Kế hoạch của Đức là giành thắng lợi nhanh chóng trên mặt trận phía Tây và
sau đó chuyển sang mặt trận phía Đông để tiêu diệt quân Nga đã thất bại: chiến
dịch bên phía Tây trở thành những trận đánh giành giật nhau từng chiến hào và
không biết bao giờ mới kết thúc. Trong khi đó, quân Nga tấn công mãnh liệt trên
mặt trận Đông Phổ, nhưng bị rơi vào bẫy và bị quân Đức đánh tan.
Cuối năm 1914, Bộ Chỉ huy tối cao Đức kết luận rằng, họ chỉ có thể
chiến thắng nếu đánh bại Nga và sau đó sẽ tập trung toàn lực cho mặt trận phía
Tây. Mùa xuân năm 1915, liên quân Đức-Áo tấn công Ba Lan, lúc đó thuộc Nga, và
đẩy quân Nga lùi sâu hàng trăm kilomet. Mặc dù lực lượng quân sự chủ yếu vẫn
được bảo toàn và trên danh nghĩa, Nga vẫn còn tham chiến, nhưng nước này đã
đánh mất những khu vực giàu có nhất và đông dân nhất.
Thất bại đã làm cho cả những người theo chủ nghĩa tự do lẫn những
người bảo thủ bất bình. Các đại biểu quốc hội (Duma) theo chủ nghĩa tự do đòi
chính phủ giao chọ họ quyền bổ nhiệm các bộ trưởng. Những người bảo thủ thì
muốn Sa hoàng Nikolai II thoái vị và nhường ngôi cho một hoàng thân có năng lực
hơn. Trong quân đội, cũng như trong dân chúng, loan truyền các tin đồn về những
hành động phản bội trong tầng lớp chóp bu: người ta nghi ngờ hoàng hậu, vốn là
một người Đức, chuyển bí mật quân sự cho kẻ thù. Chính phủ còn gặp khó khăn hơn
nữa vì nạn lạm phát ở các thành phố, hoạt động đường sắt bị rối loạn gây ra nạn
thiếu lương thực và nhiên liệu, nhất là tại Petrograd (Saint-Petersburg cũ).
Các tin tức xấu từ mặt trận đưa về, cùng với những bất mãn về chính trị và khó
khăn về kinh tế trong các thành phố (nông thôn vẫn yên tĩnh vì nông dân được
lợi khi giá lương thực leo thang) đã tạo ra tình thế cách mạng ngay trong tháng
10 cuối năm 1916.
Có thể nói rằng cuộc Cách mạng năm 1917 đã bắt đầu vào tháng 11
năm trước, khi chính phủ chịu áp lực rất lớn từ cả thành phần tự do lẫn thành
phần bảo thủ trong Duma quốc gia. Maliukov, lãnh tụ phe tự do, tố cáo chính phủ
phản bội. Những cuộc tấn công như thế của giới chính trị cao cấp làm cho đất
nước rơi vào tình trạng hỗn loạn, mọi người đều tin rằng đã đến lúc phải có
những biện pháp quyết liệt. Trong khi đó, Sa hoàng, một người tin vào số mệnh,
đã chẳng đưa ra được biện pháp củng cố quyền lực nào.
Sự bất mãn của đơn vị đồn trú ở Petrogard vào tháng 3 năm 1917 đã
thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Đơn vị này gồm toàn lính quân dịch đã lớn
tuổi, đáng lẽ không còn phải đi nghĩa vụ nữa; họ đã nổi loạn khi được lệnh bắn
vào đám đông tay không tấc sắt. Vì sợ cuộc bạo loạn sẽ lan ra mặt trận, để cứu
nước Nga khỏi thất bại nhãn tiền, các tướng lĩnh đã thuyết phục Sa hoàng
Nicholas thoái vị. Là một người yêu nước, ông nghe theo lời khuyên và thoái vị
vào ngày 15 tháng Ba.
Ngay sau khi Sa hoàng thoái vị, quyền lực được chuyển vào tay
chính phủ lâm thời. Cũng thời gian đó, những người trí thức theo phái xã hội
chủ nghĩa thành lập ở Petrogard Xô Viết đại biểu binh lính và thợ thuyền. Xô Viết
có trách nhiệm theo dõi hoạt động của “chính phủ tư sản”, không để cho nó thực
hiện các chính sách phản động. Trong suốt bảy tháng sau đó, nước Nga được quản
lý bởi - nếu có thể gọi đó là một sự quản lý – hai chính quyền song song tồn
tại, trong đó Xô Viết luôn tìm cách làm mất uy tín của chính phủ nhưng lại
chẳng chịu bất kì trách nhiệm nào. Những người trí thức xã hội chủ nghĩa nắm
các Xô Viết đã cố tình phá hoại quân đội bằng cách giảm bớt quyền lực của các
sĩ quan, họ cho rằng các sĩ quan chính là lực lượng phản cách mạng. Trong khi
đó, họ lại đòi phải chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.
Chính phủ lâm thời hứa sẽ sớm tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến để
tạo ra các cơ quan quyền lực của nền cộng hoà, nhưng vì có quá nhiều việc khẩn
cấp nên cuộc bầu cử cứ bị hoãn đi hoãn lại mãi. Công cuộc cải cách ruộng đất
cũng được tiến hành rất chậm. Quá sốt ruột, nông dân bắt đầu tấn công các trang
trại, còn binh lính thì bỏ mặt trận về nhà để không lỡ dịp nhận phần trong vụ
tái phân phối ruộng đất đang sắp diễn ra. Các dân tộc thiểu số cũng bắt đầu đòi
quyền tự quản, có cả những trường hợp đòi được độc lập hoàn toàn. Trong lúc đó,
chính phủ lâm thời tiếp tục kêu gọi tiến hành chiến tranh, một cuộc chiến ngày
càng mất lòng dân hơn. Chính quyền chứ không phải tình đoàn kết xã hội đã giữ
cho nước Nga thống nhất trong hàng thế kỷ, nay quyền lực ấy không còn, đất nước
trượt dần vào cảnh hỗn loạn vô chính phủ.
Đấy chính là vận may của Lenin. Đầu năm 1917 ông ta vẫn còn sống ở
Thuỵ Sĩ. Vừa nhận được tin về cuộc Cách mạng tháng Ba, ông ta lập tức đánh điện
cho các đồ đệ ở Nga, hạ lệnh cho họ bất tín nhiệm chính phủ lâm thời, không
được liên minh với các đảng xã hội chủ nghĩa khác và tiến hành vũ trang cho
công nhân. Ông ta chỉ muốn mau chóng quay về để nắm trực tiếp quyền điều hành
cách mạng.
Quân Đức và quân Áo, bị kìm chân trên mặt trận phía Tây trong một
cuộc chiến hao người tốn của, đã theo dõi rất kĩ mọi động tĩnh của các di dân
phản chiến người Nga, trong đó có Lenin. Lenin đã liên hệ với đại sứ quán Đức ở
Thuỵ Sĩ để nhờ giúp đỡ trong việc trở về nước. Berlin không chỉ cho ông ta và
những người xã hội chủ nghĩa khác đi qua nước Đức mà còn cung cấp cho ông ta
tiền để khôi phục hoạt động của đảng. Lenin, một người không bao giờ quan tâm
đến nguồn gốc của đồng tiền, miễn là đồng tiền đó phục vụ cho mục đích của ông
ta, đã nhận lời. Sau đó, qua trung gian và rất kín đáo, ông ta được người Đức
bảo trợ suốt một năm rưỡi.
Vừa về đến Petrograd, Lenin đã vội vã tập trung tấn công một cách
không khoan nhượng vào chính phủ lâm thời, đòi phải lật đổ chính phủ này ngay
lập tức: không được để cho nó thiết lập ở Nga chế độ “tư sản”, tức là ông ta có
ý kiến trái ngược hẳn với những người Menshevik và đa số ủng hộ viên của chính
mình. Tháng 7 năm 1917, Đảng Bolshevik đã thực hiện một cuộc đảo chính, nhưng
chính phủ đã kịp thời đập tan vụ bạo loạn và sau đó cho công bố một loạt thông
tin tình báo về mối liên hệ của Lenin với Đức. Đã có lệnh bắt giam Lenin và một
loạt lãnh tụ Bolshevik khác, kể cả Trotsky, một người vừa ra nhập đảng của
Lenin trước đó không lâu. Trotsky bị bắt, nhưng Lenin thì kịp trốn qua Phần Lan
và ẩn náu ở đó cho mãi đến sát ngày đảo chính vào tháng 11 năm 1917 mới trở về.
Lenin không được nhiều người ủng hộ, nhưng họ là những người rất
đoàn kết và thực hiện nghiêm chỉnh mọi chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương.
Không đảng nào có tổ chức chặt chẽ như thế: Đảng Dân chủ Cách mạng tuy được
lòng quần chúng hơn, nhưng tổ chức lại lỏng lẻo, không đủ sức động viên quần
chúng. Menshevik và những đảng theo đường lối dân chủ lập hiến khác cũng ở
trong tình trạng tương tự. Hơn nữa, chỉ có Lenin là có khát vọng nắm quyền lực,
ngoài ông ta, không có chính khách nổi tiếng nào sẵn sàng nhận lãnh trách niệm
quản lý một đất nước đã mất kiểm soát về mọi phuơng diện. Lenin, người suốt đời
chuẩn bị cho giây phút ấy, đã theo dõi sát sao sự phát triển của các sự kiện và
chọn được đúng thời điểm ra đòn.
Đấy là cuối mùa hè, khi Aleksander Kerensky, trên danh nghĩa là
một nhà độc tài, nhưng ít quyền lực, bất hoà với tướng Lavr Kornilov, tổng chỉ
huy quân đội Nga, vu cho ông ta chuẩn bị đảo chính. Vì những hành động thiếu
trách nhiệm như thế, Kerensky đánh mất sự ủng hộ của quân đội, một điều tối cần
thiết nếu những người Bolshevik có ý định cướp chính quyền một lần nữa. Ông ta
lại còn dung túng Đảng Bolshevik như thả họ ra khỏi nhà tù và phát vũ khí để họ
chiến đấu chống lại cuộc bạo loạn giả định của Kornilov. Đảng Bolshevik đã
giành thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử Xô Viết, Lenin coi đây là tín hiệu
để ra đòn quyết định. Nghị quyết về việc cướp chính quyền được thông qua tại
cuộc họp bí mật của các lãnh tụ Bolshevik vào đêm ngày 23 sang ngày 24 tháng 10
năm 1917. Lenin phải đấu tranh rất lâu mới thuyết phục được những người dao
động, họ sợ sẽ lại thất bại như hồi tháng 7.
Cuộc đảo chính diễn ra vào ngày 7 tháng 11, các đơn vị thân
Bolshevik đã chiếm được tất cả các vị trí chiến lược ở thủ đô mà không phải bắn
một phát súng nào. Ở Moskva có xảy ra vài cuộc đụng độ, còn tại các vùng khác,
việc chuyển giao quyền lực diễn ra một cách êm thấm. Sau này, Lenin nói rằng
việc cướp chính quyền ở Nga dễ dàng chẳng khác gì “nhặt một cái lông chim”.
Nguyên nhân ở đây là việc cướp chính quyền được ông ta che đậy một cách khéo
léo bằng khẩu hiệu “tất cả chính quyền về tay Xô Viết”, hứa hẹn cho nhân dân
chế dân chủ chứ không phải chính quyền độc tài. Ngay cả những đảng theo xu
hướng xã hội chủ nghĩa cạnh tranh với Lenin, những người vốn nghi ngờ ông ta,
cũng không tỏ ra lo lắng vì họ tin rằng chế độ chuyên chính độc đảng không thể
đứng vững được lâu, trước sau gì cũng sẽ phải nhường chỗ cho liên hiệp các đảng
xã hội chủ nghĩa mà thôi. Họ chấp nhận để Lenin sử dụng quyền lực một thời
gian, miễn là không xảy ra nội chiến vì như thế sẽ chỉ có lợi “cho lực lượng
phản cách mạng”.
Kết quả là. những người Bolshevik nắm được quyền lực trong suốt 74
năm trời. Như vậy nghĩa là chế độ cộng sản được thiết lập ở Nga không phải là
do kết quả của một cuộc khởi nghĩa của quần chúng: nó được áp đặt từ trên xuống
bởi một nhúm người nấp sau các khẩu hiệu dân chủ. Yếu tố mà ai cũng thấy đó đã
ghi dấu ấn lên toàn bộ lịch sử chế độ cộng sản ở Nga.
______________
[1] Naum
Jasny, The Socialized Agriculture of the USSR (Nền nông nghiệp xã hội hóa của Liên Xô) (Stanford,
1949, trang 145-146
No comments:
Post a Comment