Richard Pipes
Phạm Nguyên Trường dịch
V. Thế giới Thứ ba (2)
Những
người Marxist-Leninist coi học thuyết của mình là khoa học, họ cố gắng phân
tích kinh nghiệm của mình và học hỏi qua những sai lầm, không chỉ trong cách
hiểu mục đích cuối cùng, mà theo họ là không thể hồ nghi, mà còn trong chiến
lược và chiến thuật đấu tranh cho mục đích cuối cùng nữa. Lenin đã học được từ
Marx rằng, để chống lại phản cách mạng thì phải đàn áp một cách không thương
xót toàn bộ cơ cấu mang tính thiết chế của chủ nghĩa tư bản. Sau khi đánh giá
chủ nghĩa xét lại của những người kế nhiệm Stalin, Mao đi đến kết luận rằng,
phá bỏ thiết chế vẫn chưa đủ, cần phải cải tạo chính con người. Dĩ nhiên là,
chủ nghĩa Marx luôn luôn coi việc cải tạo con người là mục đích tối thượng và
cuối cùng. Nhưng Mao lại quyết định rằng, đấy là việc phải làm ngay, ông ta đã
buộc cả hệ thống quản lý của mình phải biến cái mục đích ấy thành hiện thực.
Trung Cộng
đã thiết lập chế độ toàn trị gần giống với mô hình Xô Viết. Ban đầu Mao đã sao
chép chính sách kinh tế của Stalin, ông ta cũng tiến hành tập thể hoá nông
nghiệp và thực hiện kế hoạch công nghiệp hoá năm năm. Dĩ nhiên là có những khác
biệt. Một trong những khác biệt đó là: nền chuyên chế Xô Viết, hậu duệ của chế
độ Sa hoàng, không quan tâm đến việc thần dân của họ nghĩ gì, miễn là họ tỏ vẻ
nhất trí và giả đò làm tín đồ là được; Trung Cộng kiên quyết đạt cho bằng được
sự thống nhất, cả về tri thức lẫn tinh thần, của toàn thể nhân dân*. Cội nguồn
của quan điểm như thế là từ Khổng giáo, một triết thuyết nhấn mạnh đến sự hoàn
thiện và đòi hỏi rằng cơ sở của chế độ cai trị là đạo đức chứ không phải là sự
ép buộc. Nhưng quan điểm đó lại xuất phát trực tiếp từ những lo lắng của Mao
rằng, nếu không cải tổ hoàn toàn trí óc của các thần dân để họ có thể nắm vững
được học thuyết của Marx, của Lenin và của chính ông ta thì Trung Quốc cũng sẽ
có số phận giống như Liên Xô, nghĩa là sẽ rơi vào chủ nghĩa xét lại và sẽ đi
chệch khỏi con đường chân chính.
* Nhiều nhà quan sát cho rằng đặc điểm nổi bật của lòng trung
thành của dân chúng đối với học thuyết được áp đặt bằng bạo lực. Quan niệm sai
lầm như thế có thể là do trong suốt 40 năm đầu tiên, người nước ngoài chỉ nhận
được hầu như tất cả thông tin về Liên Xô từ chính các nguồn của Liên Xô, mà
những nguồn này bao giờ cũng nhấn mạnh sự thống nhất về tư tưởng và lòng trung
thành của tất cả mọi người với ý thức hệ cộng sản. Thực tế hoàn toàn không phải
như thế.
Lý luận
của Mao đã mở đường cho những thí nghiệm không thể tưởng tượng nổi, tất cả đều
thất bại với giá phải trả là sinh mạng của không biết bao nhiêu nạn nhân và sự
thịnh vượng của quốc gia. Các công dân Trung Quốc, đặc biệt là những người lao
động trí óc, bị nghi là có tư tưởng lạc hậu hay chống đối, đều phải học tập
“cải tạo” một cách có hệ thống, thường là trong các trại tập trung, nơi họ phải
trải qua quá trình gọi là “tẩy não”. Đấy là sự tra tấn về mặt tinh thần để buộc
họ phải khuất phục.
Các tiền
đề lý luận như thế cũng là nguyên nhân của chính sách Đại Nhảy Vọt, khởi đầu
vào năm 1958. Mong muốn chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Trung Quốc đã tìm được
con đường thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tốt hơn và nhanh chóng hơn người Nga,
Mao tuyên bố rằng Trung Quốc dự định vượt Anh về sản lượng than và thép trong
vòng năm năm. Để làm điều đó, hơn nửa tỉ người bị lùa vào các “công xã nhân
dân”, nơi người ta vừa làm nông nghiệp vừa tham gia sản xuất công nghiệp trong
những điều kiện sản xuất gia đình cực kì thô sơ. Kế hoạch này, ví dụ điển hình
của việc Mao sẵn sàng bỏ qua hiện thực kinh tế, được xây dựng trên cơ sở của
cái định luật được trình bày trong Quotations from Chairman Mao (Trước
tác của Mao Chủ Tịch - thường gọi là Cuốn sách đỏ của Mao và
là tác phẩm duy nhất lưu hành ở Trung Quốc lúc đó). Định luật này nói rằng nhân
dân Trung Quốc là một tờ giấy trắng (tabula rasa).
Bên cạnh những đặc điểm khác, 600 triệu nhân dân
Trung Quốc còn có đặc điểm là “nghèo nà và trong trắng”. Tưởng như đấy là xấu,
nhưng trên thực tế đấy lại là tốt. Vì nghèo nên muốn thay đổi, muốn hành động,
muốn làm cách mạng. Còn trên một tờ giấy trắng, chưa một vết nhơ nào, ta có thể
viết những chữ tượng hình đẹp nhất và rõ ràng nhất, có thể vẽ những bức tranh
đẹp nhất và rực rỡ nhất[1].
Người ta
đã nói về một dân tộc có lịch sử dựng nước hàng ngàn năm như thế đấy.
Khi người
ta đã quyết tâm thì không khó khăn nào có thể cản trở được: một trong những
khẩu hiệu của đại nhảy vọt nói: “Chúng
ta sẽ dạy cho mặt trời mặt trăng đổi chỗ cho nhau; chúng ta sẽ tạo ra những thiên
đường mới và vùng đất mới cho con người”. Như vậy nghĩa là, chủ nghĩa
Marx, vốn được xây dựng như một học thuyết hoàn toàn duy vật, nhưng nhờ cố gắng
của một nhà độc tài tự nhận là Marxist ở Trung Quốc đã biến thành lý thuyết của
chủ nghĩa duy tâm không tưởng, buộc hiện thực phải khuất phục ý chí của con
người.
Đại nhảy
vọt đã làm cho hoạt động kinh tế gặp rối loạn đến mức người ta phải từ bỏ chính
sách này. Riêng số người chết đủ làm ta kinh hoàng. Sau khi Mao chết, các nhà
nhân khẩu học Mỹ mới có điều kiện tiếp xúc với các tài liệu của Trung Quốc và
họ khẳng định rằng, ít nhất đã có 30 triệu người chết đói, thế mà lúc đó thế
giới không hề hay biết[2].
Nhưng, thất bại không làm Mao nản chí, lòng ham mê làm những việc vĩ đại của
ông ta đã trở thành bệnh hoạn. Năm 1966, cảm thấy ngày càng bị cô lập, Mao phát
động một chiến dịch mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử, lần này là để chống lại
những người lao động trí óc và các quan chức của Đảng mà ông ta sợ là có khả
năng đưa Trung Quốc vào con đường phản bội như Liên Xô. Thanh niên thành phố
được huy động vào các đội Hồng Vệ binh để tiến hành cái gọi là Đại Cách mạng
Văn hoá Vô sản, nhưng đúng hơn phải gọi là cuộc phản cách mạng tai hại về văn
hoá. Việc một nhà cầm quyền vừa bị bệnh vĩ cuồng, vừa muốn khuấy động tinh thần
cách mạng của dân chúng đã làm ngưng đọng hẳn đời sống văn hoá của quốc gia quả
là một sự kiện chưa từng có tiền lệ. Trong suốt mấy năm, Trung Quốc, một trong
những nền văn minh lâu đời nhất, đã bị những đội quân man rợ phá hoại, vì chúng
được dạy rằng bất cứ thứ gì nằm ngoài sự hiểu biết của chúng đều đáng bị đập
tan. Vào lúc cao trào của chiến dịch, các trường học bị đóng cửa, tất cả sách
vở, trừ sách giáo khoa và trước tác của Mao, đều bị tịch thu. Nhạc phương Tây
cũng bị cấm. Hồng Vệ binh bắt các trí thức, nhiều người bị đấu tố, bị tra tấn,
thậm chí bị giết. Hàng ngàn cán bộ Đảng cũng bị hành hạ như thế. Vụ tấn công
vào tri thức như thế chỉ chấm dứt sau khi Mao, năm 1976. Hậu quả là cả một thế
hệ không chỉ thất học mà còn bị què quặt cả về đạo đức lẫn tâm lý.
Mặc dù, ở Trung Quốc bất kì người nào dám lên tiếng phê phán Đại nhảy vọt hoặc Đại Cách mạng Văn hoá đều có thể bị bỏ tù, ở phương Tây lại có một số trí thức bày tỏ cảm tình với sự dã man của Mao và cố gắng tìm sự thông thái trong những cuốn sách vô vị của ông ta.
Đặng Tiểu
Bình, người kế nhiệm Mao, đã đặt dấu chấm hết cho những thí nghiệm man rợ đó.
Năm 1979, ông ta bắt đầu cuộc cải cách chính trị theo đường lối của thị trường
tự do, làm sống lại tinh thần kinh doanh. Kể từ đó, Trung Quốc, về tư tưởng và
hình thức cai trị thì vẫn là nhà nước cộng sản, nhưng đã chuyển sang con đường
tư hữu hoá, nghĩa là, về thực chất đã từ bỏ một trong những nguyên tắc chủ yếu
của chủ nghĩa cộng sản: bãi bỏ tư hữu.
__________________
Các phong
trào và các chế độ cách mạng luôn luôn có xu hướng ngày càng trở thành cấp tiến
hơn, ngày càng tàn nhẫn hơn. Chuyện đó diễn ra là do đáng lẽ sau khi gặp một số
thất bại các nhà lãnh đạo phải xem xét lại các tiền đề biện hộ cho sự tồn tại
của mình thì họ lại tiến hành thực thi các ý tưởng của mình bằng những biện
pháp cứng rắn hơn, vì tin rằng nguyên nhân của thất bại là do thiếu kiên quyết.
Cuối cùng, sau bao nhiêu cố gắng mà kết quả vẫn chỉ là con số không, chế độ
bước vào đoạn mệt mỏi, thế hệ kế tục các cha-già-khai-quốc trở thành những kẻ
tự mãn và sẵn sàng hưởng thụ, nhưng chuyện đó chỉ xảy ra sau khi chế độ đã trải
qua những hình thức phi nhân nhất.
Nếu bản
chất của chế độ Quốc xã thể hiện rõ nhất trong Holocaust [tàn sát hàng loạt
người Do Thái – ND) thì chế độ Khmer Đỏ (1975-1978), hiện thân của chủ nghĩa
cộng sản dưới dạng thuần khiết nhất, cho thấy rõ hình hài của nó sau khi đã
được đưa đến mức độ hoàn thiện. Các lãnh tụ của nó, trên đường đi đến mục đích
của mình là thành lập xã hội công bằng thực sự đầu tiên trên thế giới, đã không
dừng lại trước bất cứ trở lực nào. Để hoàn tất nhiệm vụ này, họ sẵn sàng giết
người, nếu cần thì bao nhiêu người cũng giết. Đấy là biểu hiện của tính kiêu
ngạo vốn là bản chất của hệ tư tưởng cộng sản, biểu hiện của niềm tin vào sức
mạnh vô địch của nhóm tinh hoa trí thức đi theo chủ nghĩa Marx và không chấp
nhận bất cứ giới hạn nào trong việc sử dụng vũ lực để cải tạo xã hội. Kết quả
là sự tàn phá không thể nào tưởng tượng nổi.
Các lãnh
tụ Khmer Đỏ từng du học ở Paris, từng làm quen với quan niệm của Rousseau về
“con người tự nhiên”, cũng như của Frantz Fanon và Jean-Paul Sartre về sử dụng
bạo lực trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân (“Cần phải giết”, Sartre viết. “Lật đổ thằng Tây nghĩa là kết liễu cùng một
lúc cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức”.) Sau khi trở về vùng núi Đông Bắc
Campuchia, họ đã lập ra các đơn vị vũ trang gắn bó với nhau bằng kỉ luật sắt,
binh lính phần lớn là thanh thiếu niên mù chữ hoặc gần như mù chữ, là con cái
các gia đình nông dân nghèo khổ nhất. Binh lính, thường từ mười hai đến mười bốn
tuổi, bị nhồi sọ liên tục lòng thù hận đối với tất cả những người không giống
họ, nhất là với người thành thị và người thiểu số gốc Việt. Để giáo dục “cái
thú sát sinh và chiến tranh” người ta đã cho chúng làm quen dần, giống như binh
lính SS, bằng cách bắt phải hành hạ và giết các con vật.
Đầu năm
1975 là thời kì hoàng kim của họ, đấy là lúc Khmer Đỏ lật đổ được chế độ Lon
Nol do Mỹ dựng lên và chiếm được thủ đô Phnom Pênh. Đa số dân chúng không có
khái niệm gì về tương lai đang chờ đợi mình, vì Khmer Đỏ vẫn tuyên truyền rằng
sẽ tha cho tất cả những người từng phục vụ chế độ cũ và sẽ đoàn kết tất cả các
giai cấp để chống lại “bọn đế quốc” và địa chủ. Nhưng vừa chiếm được Phnom Penh,
quân Khmer Đỏ lập tức thực hiện chiến dịch đàn áp dự dội nhất. Coi thành phố là
sào huyệt của mọi thứ tội lỗi – “Thành
phố là hắc điếm của bọn phản bội và lừa đảo”, Fanon đã nói như thế -
Khmer Đỏ hạ lệnh cho tất cả mọi người (2,5 triệu dân) phải rời khỏi thủ đô và
các trung tâm đô thị khác. Người tản cư, về các vùng nông thôn, chỉ được mang
theo những gì họ có thể vác trên vai. Sau một tuần, tất cả các thành phố
Campuchia đều đã trở thành chỗ không người. Bốn triệu người, tức là 60% dân số,
lâm vào cảnh lưu đầy, phải sống trong những điều kiện cực kì khó khăn, lao động
nặng nhọc và đói khát. Tất cả các trường trung học và đại học đều đóng cửa.
Tiếp đó
là những vụ thảm sát. Dù khâm phục và học tập Mao trong nhiều lĩnh vực, nhưng
Pol Pot không để mất thì giờ cho việc “cải tạo”, mà lập tức tiến hành thủ tiêu
những người mà ông ta cho là kẻ thù thực sự hay kẻ thù tiềm năng của chế độ
mới: tất cả các công chức và quân nhân của chế độ cũ, các điền chủ, giáo viên,
nhà buôn, tu sĩ Phật giáo và ngay cả công nhân có tay nghề. Những người thuộc
các thành phần như thế bị coi là công dân loại hai và bị tước hết mọi quyền
lợi, kể cả quyền được phát lương thực; họ bị mang đi hành quyết hoặc phải lao
động khổ sai và chết vì kiệt sức. Số nạn nhân có thể chiếm đến hơn hai phần ba
dân số cả nước. Họ thường xuyên bị bắt, bị hỏi cung và tra tấn cho đến khi phải
vu cáo những người khác rồi bị giết. Có những trường hợp toàn bộ gia đình, kể
cả trẻ em, cùng bị hành quyết vì Pol Pot cho rằng tư tưởng đối địch và tình cảm
lạc hậu là do địa vị xã hội, học vấn hoặc nghề nghiệp của người ta mà ra, đấy
là “các loại vi trùng độc hại” sẽ gây ra bệnh dịch. Đảng viên bị nghi là có khả
năng nhiễm bệnh cũng bị thủ tiêu. Quân Việt Nam sau khi đánh đuổi được Khmer Đỏ
đã phát hiện được hàng núi đầu lâu của các nạn nhân.
Nông dân
cũng không được yên thân, họ bị dồn vào các “hợp tác xã”, được xây dựng theo mô
hình Trung Quốc. Nhà nước tịch thu tất cả lương thực thực phẩm do các công xã làm
ra, rồi chất vào kho, như thời các Pharaoh Ai Cập, và phân phối lại theo ý
mình. Trật tự truyền thống ở làng quê bị phá vỡ, lương thực thiếu hụt, nạn đói
xảy ra trên diện rộng sau các vụ hạn hán vào năm 1978-1979.
Số người
bị giết ngày một nhiều thêm. Người ta bị giết chỉ vì đi làm muộn, vì phàn nàn
về khẩu phần ăn, vì phê phán chính phủ hay quan hệ nam nữ trước hôn nhân. Sự dã
man có thể so sánh với tội ác của Quốc xã. Ở biên giới với Việt Nam:
Lính Khmer Đỏ có thể bắt phụ nữ Việt
Nam, hiếp rồi sau đó tống nòng súng hay báng súng vào cửa mình họ. Chúng rạch
bụng phụ nữ có chửa, lôi con ra rồi dùng nó để đập vào mặt người phụ nữ đang
hấp hối. Bọn thanh niên còn tìm thú vui bằng cách cắt vú những phụ nữ Việt Nam
có thân hình đồ sộ”[3].
Có tin
nói rằng có những trường hợp chúng bắt trẻ con giết chính cha mẹ mình.
Số người
bị giết làm người ta hoảng sợ. Theo các số liệu có thể tin cậy được, dân số
Campuchia trước khi quân Khmer Đỏ chiếm được chính quyền là 7,5 triệu người,
đến khi Việt Nam đánh đuổi được Khmer Đỏ, cuối năm 1978, dân số nước này đã
giảm xuống chỉ còn 5,8 triệu người. Nếu để phát triển tự nhiên, sau bốn năm số
dân đáng lẽ phải là hơn 8 triệu[4].
Nói cách khác, chế độ Pol Pot đã làm thiệt mạng khoảng 2 triệu người, tức là
hơn một phần tư dân số cả nước. Nạn nhân chủ yếu là những thành phần có học và
có tay nghề cao. Cuộc thí nghiệm đen tối này được gọi là “tai hoạ gần như vô
tiền khoáng hậu của nhân loại, nó có thể xảy ra là vì các lý thuyết gia đã áp
đặt kế hoạch khổng lồ của mình cho dân tộc Khmer”[5]*.
* Một số trí thức phương Tây không muốn lên án cộng sản vì vụ tàn
sát chưa từng có này, mà lại đổ cho người Mỹ. Trong giai đoạn 1969– 1973, Mỹ đã ném bom Campuchia nhằm tiêu diệt lực
lượng Việt Cộng đang đóng ở nước này. Nhưng thật khó hiểu vì sao lóng hận thù Mỹ
lại dẫn đến vụ tàn sát hai triệu người của chính dân tộc mình.
Cần phải
nói rằng trên khắp thế giới đã không có một cuộc biểu tình phản đối nào và Liên
Hợp Quốc cũng không đưa ra nghị quyết lên án nào. Thế giới đã tỏ ra bình thản
vì người ta cho rằng các tội ác đó được thực hiện nhân danh những mục đích cao
cả.
_____________
Chế độ
theo đường lối Marxist của Salvador Allende ở Chile trong những năm 1970-1973
là một trường hợp đặc biệt, tức là người ta định thực hiện một cuộc cách mạng
cộng sản trong một nước dân chủ và bằng những biện pháp dân chủ.
Đảng Dân
chủ Thiên chúa giáo nắm quyền ở Chile trong suốt những năm 1960, lãnh tụ của
họ, Eduardo Frei Montalva, đã thực hiện chính sách cấp tiến trong cả lĩnh vực
kinh tế lẫn xã hội. Cụ thể, Frei đã tiến hành cải cách ruộng đất, trưng mua
ruộng của các điền chủ lớn. Frei cũng quốc hữu hoá phần lớn ngành công nghiệp
khai thác mỏ. Các biện pháp này đã dẫn đến kết quả là xã hội bị chia rẽ, phái
hữu cho rằng các biện pháp đã đi quá xa trong khi phái tả lại cho rằng chưa đủ.
Chính phủ Frei còn bị nạn lạm phát làm mất lòng dân thêm, trước cuộc bầu cử
diễn ra vào năm 1970, lạm phát đã là 37%.
Trong
cuộc bầu cử năm đó, ba ứng viên Tổng thống nhận được số phiều gần như bằng
nhau. Bác sĩ Salvador Allende, người theo quan điểm Marxist, đại diện cho Đảng
Thống nhất Dân tộc, Liên minh Cộng sản và Xã hội chủ nghĩa nhận được nhiều
phiếu nhất (36,3%). Người thứ hai, ứng viên bảo thủ, nhận được 34,9% phiếu bầu.
Vì không ứng viên nào giành được đa số nên vấn đề được đưa ra giải quyết tại
Quốc hội. Trong hai tháng sau đó, Allende đã kí thoả thuận với Đảng Dân chủ
Thiên chúa giáo để đảng này ủng hộ ông với điều kiện là ông chấp nhận tuân thủ
Hiến pháp Chile, trong đó có việc tôn trọng pháp luật và bảo đảm đa nguyên
chính trị. Sau khi đưa điều đó vào Luật về việc bảo vệ Hiến pháp, Quốc hội
Chile đồng ý để Allende giữ chức Tổng thống.
Như vậy
là khởi kì thuỷ “con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội” do Allende lựa chọn đã có
những rào chắn, cản trở việc thực hiện các cải cách cấp tiến của những người xã
hội chủ nghĩa và cộng sản đã bầu cho ông ta. Tuy là người hâm mộ Fidel Castro,
nhưng dường như Allende chỉ là một người mộng mơ lý tưởng chứ không phải là một
nhà cách mạng cuồng tín. Trong khi đó, những người giáo điều ủng hộ ông ta
quyết tâm thiết lập “chuyên chính vô sản” theo mô hình Liên Xô lại cứ cố đẩy
ông sang phía tả, mỗi khi ông gặp thất bại, làm cho ông càng ngày càng trở
thành cấp tiến hơn. Allende cho rằng có thể đạt được các mục tiêu xã hội chủ
nghĩa bằng những biện pháp hòa bình, với điều kiện là những cuộc cải cách đang
được tiến hành sẽ càng ngày càng được nhiều người ủng hộ hơn. Đảng Cộng sản ủng
hộ chiến lược này, vì họ tin rằng ở Chile, họ có thể đạt được mục tiêu bằng con
đường hoà bình. Nhưng điều đó đã không xảy ra, một phần vì các đạo luật xã hội
chủ nghĩa do Allende ban hành đã làm cho đa số dân chúng càng ngày càng xa lánh
ông, phần khác, là vì các đạo luật đó đã làm cho nền kinh tế suy sụp hoàn toàn.
Trong
“Chính phủ thống nhất dân tộc”, Allende giao cho những người cộng sản lãnh đạo
các bộ kinh tế, những người này lập tức tiến hành quốc hữu hoá những gì còn sót
lại trong ngành khai khoáng, hệ thống ngân hàng và phần lớn ngành công nghiệp
chế biến. Các biện pháp này đều được thực hiện trên cơ sở những chỉ thị nhằm
tránh né cơ quan lập pháp. Việc tịch thu tài sản các mỏ đồng của công ty
Anaconda & Kennecott đã chặn đứng việc đầu tư của các công ty ngoại quốc.
Liên Xô lập tức ra tay nghĩa hiệp, bằng cách cung cấp cho Allende một khoản vay
lên đến nửa tỷ USD. Một số nước khác cũng đề nghị giúp đỡ, nhưng vẫn không cứu
được nền tài chính đã tan hoang của Chile. Để có tiền trang trải cho các khoản
chi tiêu khác nhau, trong đó có việc nâng lương, chính phủ đành phải quay về
với máy in tiền, dưới thời Frei lạm phát chưa bao giờ đạt mức độ như thế: số
tiền mới được tung ra trong ba năm cầm quyền của Allende đã tăng lên đến mười lăm
lần, còn lạm phát tăng lên đến 300% chỉ trong một năm.
Cùng với
quá trình quốc hữu hoá các xí nghiệp công nghiệp, chính phủ còn tiến hành tập
thể hoá trong lĩnh vực nông nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ đã tỏ
ra dễ dãi trước các vụ chiếm đất, thậm chí còn khuyến khích những việc như thế.
Kết quả, sản xuất lương thực giảm sút nghiêm trọng, sản lượng lúa mì giảm một
nửa. Thiếu hụt lương thực trở thành trầm trọng: trước ngày chính phủ Allende
sụp đổ, dự trữ bột mì của cả nước chỉ còn đủ dùng trong bốn ngày.
Các cuộc
biểu tình phản đối ngày một nhiều hơn. Mạnh mẽ nhất là các chủ nhân xe tải, đây
là các chủ doanh nghiệp nhỏ phản đối kế hoạch của chính phủ đưa công ty vận tải
quốc doanh ra cạnh tranh với họ. Hai cuộc đình công với 700 ngàn người tham gia
đã làm ngưng trệ hoàn toàn hệ thống giao thông, rất nhiều ngành kinh tế vì thế
cũng không thể hoạt động được. Trong các nước cộng sản chính cống, những hành
động như thế sẽ bị coi là âm mưu phản cách mạng, theo chỉ đạo của CIA và bị đàn
áp. Nhưng Chile dưới quyền Allende, dù chính phủ kiểm soát đài phát thanh và
phần lớn báo chí, tự do ngôn luận vẫn còn mạnh, đàn áp có thể dẫn đến bạo loạn
trong toàn quốc. Các đảng đối lập vẫn hoạt động và tiếp tục chỉ trích chính
phủ. Điều quan trọng là quốc hội và toà án tối cao vẫn hoạt động.
Tháng 8
năm 1973, Hạ viện thông qua nghị quyết kết luận rằng Allende vi hiến, bằng cách
tự ý giành quyền lập pháp, coi thường pháp luật và gây cản trở tự do ngôn luận
với 81 phiếu thuận và 45 phiếu chống. Toà án tối cao cũng ra phán quyết lên án
Allende vì đã buộc các cơ quan tư pháp phục vụ mục đích chính trị. Vì trong
Hiến pháp Chile không có điều khoản luận tội và cách chức Tổng thống
(Impeachment) nên Hạ viện đã đề nghị quân đội khôi phục luật pháp quốc gia.
Mười tám ngày sau, quân đội, đứng đầu là tướng Augusto Pinochet, đã dùng vũ lực
lật đổ Allende*. Nền độc tài được thành lập sau đó đã thực hiện những vụ khủng
bố dã man nhắm vào những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản thua cuộc.
*
Trái với tin đồn vẫn thịnh hành, CIA không có vai trò gì trong việc hạ bệ
Allende. Chính phủ Hoa Kì và các công ty tư nhân đã tìm cách giúp đỡ những lực
lượng phi cộng sản trong cuộc bầu cử năm 1970 bằng cách giúp đỡ về tài chính, để
cân bằng với những khoản việc trợ của Liên Xô và Cuba cho Allende. Sau này
Washington cũng trợ giúp tài chính cho báo chí chí độc lập với chính phủ, nhưng
tiếp xúc với các quân nhân lật đổ Allende thì không. Đây hoàn toàn là công việc
nội bộ của Chile. Xem thêm James R. Whelan, Out
of the Ashes (tạm dịch: Thoát khỏi đống
tro tàn), Washington, DC, 1989, р. р. 1027–1048.
__________________
Cuba là
nhà nước cộng sản đầu tiên và duy nhất đứng vững được ở châu Mỹ Latin, đây là
trường hợp điển hình về nền độc tài cá nhân của một chính khách có tính háo
danh vô bờ bến, người đã dùng tư tưởng cộng sản để biện hộ cho tính háo danh
của mình. “Về mặt lịch sử… chủ nghĩa
Castro là lãnh tụ đi tìm cho mình một phong trào, phong trào đòi quyền lực và
quyền lực đang tìm hệ tư tưởng riêng của mình”[6].
Trái với
các quan niệm vẫn thịnh hành, Cuba thời tiền cộng sản không phải là nước lạc
hậu cũng chẳng phải là nước chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Mức sống của người
dân đứng thứ hai ở châu Mỹ Latin (chỉ sau Venezuela có trữ lượng dầu mỏ lớn);
dân chúng đa số đều biết đọc biết viết và sống ở thành phố*. Nói rằng nền kinh
tế Cuba dựa vào đường là cũng không đúng: đường, trên thực tế, là sản phẩm xuất
khẩu chủ yếu nhưng chỉ chiếm một phần ba, thậm chí ít hơn một phần ba, thu nhập
quốc dân. Nói cách khác, Cuba không phải là nước nghèo nàn và lạc hậu, những
thứ vốn được coi là tiền đề cho cách mạng cộng sản.
*
Sự phát triển của các sự kiện ở Chile và Cuba dường như trái ngược với những điều
đã được trình bày ở đầu chương này, tức là cộng sản thường thành công ở những
nước không có chế độ tư hữu và chưa biết tới dân chủ. Nhưng ở hai nước này, cộng
sản giành được quyền lực không phải bằng cách mạng xã hội. Ở Chile, họ đã thiết
lập được chính phủ bằng con đường hòa bình, trên cơ sở thỏa thuận với đảng Dân
chủ Thiên chúa giáo, và họ đã lập tức vi phạm thỏa thuận này. Ở Cuab, như sẽ được
chỉ ra sau đây, họ giành được quyền lực vì đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của toàn
dân, chống lại nhà độc tài bị nhân dân căm thù nhằm phục hồi chế độ dân chủ.
Cộng sản
chiếm được Cuba là do các cuộc khởi nghĩa do giai cấp trung lưu nổi lên chống
lại chế độ độc tài của F. Batista, vì năm 1952 ông ta đã bãi bỏ hiến pháp do
chính ông ta công bố trong giai đoạn cầm quyền hợp pháp trước đó (1933-1944).
Fidel Castro là con một điền chủ giầu có, sinh viên đại học luật La Habana, đã
giành được quyền lực trong làn sóng phản đối đó. Là người có tư tuởng tả
khuynh, nhưng phải nói rằng ông ta không phải là cộng sản: hơn thế nữa, ông ta
chẳng có có tư tưởng gì, ông ta chỉ là kẻ đam mê quyền lực mà thôi. Chủ nghĩa
Marx-Lenin là do Che Guevara, nhà cách mạng người Argentina, nhồi nhét cho ông
ta. Cương lĩnh của Castro nhắm đến sự đoàn kết tất cả các giai cấp xung quanh
ông ta, nhấn mạnh, trước hết, nhu cầu phục hồi hiến pháp 1940.
Nhưng,
ngay sau khi giành được quyền lực độc tài, vốn là kết quả của cuộc cách mạng
toàn dân, Castro lập tức “ngả” sang phía tả. Ông ta thiết lập chính phủ độc
đảng, rồi thực hiện cải cách ruộng đất mang tính cấp tiến và sau khi được Liên
Xô khuyến khích, ông ta đã tiến hành quốc hữu hoá tất cả tài sản các công ty Mỹ
trên đất Cuba, Tổng thống Eisenhower đáp trả bằng biện pháp cấm vận thương mại.
Cấm vận càng làm cho Cuba lệ thuộc vào Liên Xô hơn. Ban đầu, tuy ủng hộ Castro,
nhưng Moskva vẫn tỏ ra thận trọng và dè chừng trước phản ứng của Mỹ, nhưng rồi
đã bị lôi kéo vào đường lối của Cuba, nhất là sau khi Castro tuyên bố, Cuba là “nước xã hội chủ nghĩa”. Thất bại của
vụ xâm nhập Vịnh Con Lợn do Mỹ tổ chức (tháng 4 năm 1961), rồi vụ khủng hoảng
trên vùng biển Caribê (tháng 10 năm 1962) đã dẫn đến kết quả là Washington buộc
phải tôn trọng chủ quyền của Cuba và hòn đảo này trở thành một phần của khối Xô
Viết. Trong thời gian diễn ra khủng hoảng, Fidel từng yêu cầu Liên Xô tấn công
phủ đầu Mỹ bằng vũ khí nguyên tử, nhân danh chiến thắng của sự nghiệp “xã hội
chủ nghĩa”[7]
trên toàn thế giới - ông ta sẵn sàng hy sinh đất nước Cuba. Moskva trở thành
chỗ dựa kinh tế chủ yếu của Cuba, Liên Xô mua phần lớn số đường do Cuba sản
xuất với giá cao hơn thị trường thế giới, và cung cấp cho nước này dầu lửa và
rất nhiều loại hàng hoá công nghiệp khác, cũng như các khoản vay khá hào phóng.
Theo các số liệu do Raul Castro, em trai Fidel, cung cấp, thì trước khi sụp đổ,
Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho Cuba thiết bị quân sự trị giá 10 tỷ USD.
Về kinh tế, Cuba gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô.
Đổi lại,
Castro ủng hộ mọi hành động của Liên Xô trên trường quốc tế, từ vụ can thiệp
vào Tiệp Khắc cho đến vụ xâm lược Afghanistan; ông ta cũng để cho Moskva đặt
các trạm tình báo chuyên nghe trộm và lãnh trách nhiệm truyền bá chủ nghĩa cộng
sản vào Trung và Nam Mỹ. Tại đại hội thành lập ở La Habana năm 1967, Tổ chức
đoàn kết Mỹ Latin (OLAS) ra lời kêu gọi tiến hành chiến tranh du kích tại tất
cả các nước Mỹ Latin.
Ở trong
nuớc, Fidel áp dụng chế độ theo đúng mô hình Liên Xô. Trong vòng mười năm sau
khi ông ta cầm quyền, tất cả các lĩnh vực kinh tế, trừ ngành nông nghiệp, đều
bị quốc hữu hoá, chỉ một phần ba ngành nông nghiệp còn nằm trong tay các điền
chủ nhỏ và trung bình. Đảng nắm độc quyền cai trị đất nước.
Công nhân
bị buộc phải tham gia các tổ chức công đoàn do nhà nước quản lý, công nhân bị
tước quyền thành lập các tổ chức độc lập, không được quyền đàm phán với người
sử dụng lao động và không được quyền đình công. Có một số thành tựu đáng kể
trong lĩnh vực xã hội, như giáo dục, y tế và nhà ở, nhưng chủ yếu là do tài sản
tích cóp được trong thời tiền cộng sản. Bất đồng ý kiến được giải quyết theo
hai cách: cho xuất ngoại phần lớn tầng lớp trung lưu và tổ chức các toà án cách
mạng, cũng như các trại “cải tạo lao động” theo mô hình Liên Xô.
Mặc dù
thần thánh hoá lãnh tụ là việc “thường ngày” của cộng sản, nhưng phần lớn các
lãnh tụ cộng sản, giống như thánh thần, lại không thích xuất đầu lộ diện. Nhưng
đấy không phải là trường hợp của Castro: ông ta hiện diện khắp nơi, buộc quần
chúng phải nghe ông ta thuyết phục, động viên, đe doạ nhiều giờ đồng hồ liền. Lời
lẽ khoa trương của ông ta thường nhấn mạnh xu hướng bài Mỹ, ông ta coi Mỹ là
cội nguồn của cái ác và là nguồn gốc của tất cả những khó khăn của Cuba.
Mức sống
của dân chúng liên tục giảm, một phần là do sự phản đối một cách thụ động của
công nhân và nông dân, một phần là do những người năng động và có học đã di cư
sang Mỹ. Chế độ hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô.
Những
tưởng như với tình hình như thế, sau khi Liên Xô tan rã và chính phủ Yeltsin từ
chối giúp đỡ thì chế độ của Castro chắc chắn sẽ cáo chung. Nhưng, hoá ra ông ta
đã vượt qua được. Để có thể sống còn, ông ta buộc phải nhượng bộ các nhà tư sản
nước ngoài, buộc phải tạo cho họ một số điều kiện đầu tư nhất định. Đồng USD
được tự do lưu chuyển. Chế độ đã phải tìm mọi cách để phát triển ngành du lịch,
chế độ không những tìm mọi cách quảng bá các bãi biển và khu nghỉ dưỡng giá rẻ
mà còn quảng bá cả sắc đẹp và sự dễ dãi của các cô gái Cuba nữa. Năm 1992,
trong bài phát biểu trước Quốc hội, Castro còn ca ngợi cả tính ưu việt của gái điếm
địa phương, ông ta tuyên bố rằng Cuba là nước có tỉ lệ người mắc bệnh AIDS thấp
nhất thế giới. Nhờ những chiến dịch như thế, năm 1999 đã có 1,7 triệu du khách
tới Cuba, làm cho nước này trở thành “một trong những địa chỉ nổi tiếng nhất
cho các sex-tour, chẳng khác gì Thái Lan”[8].
__________________
Nếu trong
những giai đoạn đầu, người ta còn thấy ở Mao, thậm chí ở cả Pol Pot, một vài lý
tưởng xã hội chủ nghĩa nào đó, thì ở các phần khác của Thế giới Thứ ba, đặc
biệt là ở châu Phi lòng đam mê lý tưởng hoàn toàn vắng bóng. Các chính khách
háo danh ở đây chỉ có những hiểu biết tối thiểu về chủ nghĩa cộng sản và lịch
sử của phong trào này, họ viện đến Marx và Lenin nhằm hai mục tiêu: làm giàu cá
nhân và nhận viện trợ của khối cộng sản trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù cả
bên trong lẫn bên ngoài.
Mengistu
Haile Mariam của Ethiopia, kẻ, trong giai đoạn từ 1974 đến 1991 đã biến nước
mình thành tay sai của Liên Xô, là thí dụ điển hình của lối hành xử bịp bợm đó.
Vốn là thành viên của một nhóm sĩ quan quân đội bất mãn vì con đường hoạn lộ,
tháng 9 năm 1974, thiếu tá Mengistu tham gia vào một cuộc bạo loạn lật đổ quốc
vương Haile Selassie. Chính quyền rơi vào tay uỷ ban gọi là Derg,
Mengistu là một nhân vật quan trọng của uỷ ban này. Chẳng bao lâu sau, xung đột
bùng lên ngay trong nội bộ Derg, ba tháng sau, Mengistu tiến hành đảo
chính quân sự và giành được quyền lực. Ông ta tuyên bố Ethiopia là nước xã hội
chủ nghĩa và ngay lập tức tiến hành quốc hữu hoá các ngân hàng và các công ty
bảo hiểm. Tháng 3 năm 1975, ông ta huỷ bỏ quyền tư hữu ruộng đất và buộc nông
dân phải ra nhập các công xã được xây dựng theo mô hình của Mao.
Năm 1976,
Mengistu khởi sự cuộc “khủng bố đỏ”: rất nhiều nạn nhân, hàng ngàn người, vốn
là sinh viên theo trường phái Marxist. Khoảng mười ngàn nhân viên các cơ quan
đặc vụ của Liên Xô và Đông Đức được gửi tới để giúp tiến hành chiến dịch giết
người này. Trước đó, Liên Xô, bằng cách ủng hộ chế độ “chủ nghĩa xã hội khoa
học” do tập đoàn quân phiệt dựng lên ờ Somalia, đã chiếm được tiền đồn ở vùng
Sừng châu Phi, nay bỏ rơi nước này để chuyển sang ủng hộ Ethiopia. Năm 1977,
khi quân Somalia xâm nhập Ethiopia nhằm chiếm vùng Agadena, khối cộng sản đã
dành cho nước này một sự giúp đỡ to lớn, trong đó có việc gửi tới đây gần 15
ngàn lính đánh thuê Cuba. Nhờ sự trợ giúp quân sự đó mà khối cộng sản giành
được ảnh hưởng đáng kể ở Ethiopia. Sự giúp đỡ của khối cộng sản đóng vai trò
quyết định trong việc giáng trả cuộc xâm lược của Somalia, cũng như đàn áp
phong trào giải phóng dân tộc ở Eritrea.
Nền kinh
tế vốn đã suy sụp do chính sách tập thể hoá cưỡng bức, lại còn bị những trận
hạn hán liên tiếp hoành hành, kết quả: trong các năm 1984-1985 đã xảy ra nạn
đói với gần một triệu người thiệt mạng. Địa vị của Mengistu lung lay ngay sau
khi Đông Đức sụp đổ vào năm 1989; năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã ông ta rơi
vào tình trạng cô lập hoàn toàn. Bị lật đổ ngay trong năm 1991, ông ta phải
chạy sang tị nạn ở nước Zimbabwe. Thế là chấm dứt câu chuyện về “thí nghiệm
Marxist-Leninist thành công nhất ở châu Phi”[9].
Ngoài chế
độc tài quân sự tàn nhẫn bắt chước Liên Xô và Trung Quốc, nhưng được cải biến
cho phù hợp với nhu cầu chính trị, thật khó tìm thấy bất cứ dấu hiệu gì của cái
gọi là chủ nghĩa xã hội trong cái nước mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa này”.
_____________
Trong
những năm 1970 và 1980, trong Thế giới Thứ ba cũng như ở châu Âu và Nhật Bản đã
xuất hiện các phong trào khủng bố, tấn công vào các thiết chế dân chủ và chủ
nghĩa tư bản, nhân danh chủ nghĩa Marx-Lenin, Stalin hay Mao, mặc dù trên thực
tế, các phong trào này có nhiều điểm chung với chủ nghĩa vô chính phủ hơn.
Điển hình
là Đảng Cộng sản Peru, thường được biết đến với tên “Con Đường Sáng”, do
Abimael Guzmán Reynoso, một cựu giáo sư triết học thành lập, có nhiều trí thức
trẻ tham gia. Đảng này chuyên kích động sự bất bình của người da đỏ và dùng
khủng bố như là biện pháp thực hiện cương lĩnh Maoist của mình. Các vụ khủng bố
do Đảng này thực hiện đã làm 25 ngàn người thiệt mạng và gây ra nhiều thiệt hại
cho nền kinh tế Peru. Năm 1992, Guzmán bị bắt, phong trào hoàn toàn tan rã.
Trong một
loạt nước châu Mỹ Latin khác, ví dụ như Columbia, “chủ nghĩa Marx” đã và vẫn là
bình phong che đậy cho các băng đảng vũ trang (gọi là Lực lượng Vũ trang Cách
mạng và Quân đội Giải phóng Quốc gia) chuyên khủng bố, bắt cóc, tống tiền và
buôn lậu ma tuý. Theo các tài liệu hiện có, từ năm 1964 đến nay, hai tổ chức
này đã làm 120 ngàn người Columbia thiệt mạng và 2 triệu người khác phải rời bỏ
nhà cửa.
_________________
Có thể
thấy sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa những nước cộng sản không chỉ trong cách
thức thành lập chế độ mà cả trong những hậu quả do các chế độ ấy gây ra. Mức
sống suy giảm đáng kể kéo theo nạn đói, hạn hán dường như cũng có một mối liên
hệ siêu nhiên nào đó với các chế độ cộng sản. Việc bãi bỏ quyền tự do và quyền
công dân nhân danh công bằng, bao giờ cũng kéo theo sự xuất hiện một lãnh tụ
tối cao, gọi là đại nguyên soái hay leader maximo, tập trung trong
tay tất cả quyền lực mà ông ta đã tước đoạt của các thần dân và được các thần
dân coi là thánh sống. Cái thành quả như thế rõ ràng là trái ngược hẳn với quan
điểm của chủ nghĩa Marx, theo đó, chủ nghĩa cộng sản là kết quả hoạt động của
các lực lượng kinh tế phi cá tính và là tác nhân vun đắp một nền tự do vô bờ
bến cho tất cả mọi người.
[2] Jasper Becker, Hungry Ghost: China’s Secret Famine (Ma đói: Nạn đói bí mật của Trung Quốc),
London, 1996, trang XI
[3] Kenneth M. Quinn trong
Jackson, Cambodia, trang 238
[4] Jackson, Cambodia, trang 3 và 150
[5] Charles M. Twininng trong
Jackson, Cambodia, trang 110
[6] Draper, Castroism (Chủ
nghĩa Castro), trang 48-49
No comments:
Post a Comment