John Meadowcroft
Mại dâm[1]
Phạm Nguyên Trường dịch
Dẫn nhập
Mại dâm là cung ứng dịch vụ tình dục để
lấy tiền[2]. Mặc dù mại dâm không có mặt
trong tất cả các xã hội mà ta từng biết, nhưng nó là thực tiễn đã từng tồn tại
trên tất cả các các châu lục trong hàng ngàn năm và trong những nền văn hóa
khác nhau và vì vậy mà đã được mệnh danh là “nghề lâu đời nhất thế giới”. Người
bán dâm có thể là đàn ông hay đàn bà, mặc dù dân chúng và các học giả quan tâm
nhiều nhất đến việc bán dâm của đàn bà cho đàn ông. Đấy là điều không đáng ngạc
nhiên vì hiện tượng mại dâm đàn bà-đàn ông chiếm phần chủ yếu trong quan hệ
tình dục mang tính thương mại, mặc dù hiện tượng mại dâm đồng tính nam cũng khá
thịnh hành, cũng như mại dâm đàn ông-đàn bà và mại dâm đồng tính nữ nữa (Diana,
1985; Perkins and Bennett, 1985; Ringdal, 2004). Vì vậy, Ericsson (1980: 349) nhận
xét rằng “Đáng lẽ phân đều giữa hai giới thì mại dâm lại có đặc điểm là có khá
nhiều người bán dâm là đàn ông, còn số khách hàng là nữ giới lại tương đối ít”.
Mặc dù là hiện tượng phổ biến, nhưng tại nhiều nước trên thế giới, mại dâm vẫn
bị coi là phi pháp, còn ở những nơi mà nó được coi là hợp pháp thì nhiều hoạt động
cần thiết cho mại dâm lại bị coi là phi pháp.
Bài này khẳng định rằng cấm đoán mại
dâm và những biện pháp khác của chính phủ nhằm ngăn chặn thị trường dịch vụ
tình dục là vi phạm những quyền căn bản của công dân và là chính sách xã hội tồi
dở. Thứ nhất, việc ngăn chặn như thế là vi phạm quyền căn bản của cá nhân trong
việc tự do quan hệ tình dục với đối tác mà họ lựa chọn; nhà nước tìm cách ngăn
chặn đàn ông và đàn bà trưởng thành tìm kiếm đối tác tình dục là việc làm vô đạo
đức. Thứ hai, họ tạo ra thêm chi phí cho người bán dâm, cho khách hàng của họ
và xã hội nói chung.
Sau phần dẫn nhập, bài này sẽ trình
bày những thị trường mại dâm trong xã hội đương thời và ba hệ thống pháp luật thường
thấy trong việc quản lí hiện tương mại dâm. Sau đó sẽ trình bày những luận cứ
căn bản được đưa ra nhằm cấm đoán mại dâm, tất cả đều là những biến thể của
“nguyên tắc tổn hại” và chỉ ra rằng vì sao phải bác bỏ những luận cứ như thế.
Sau đó sẽ trình bày hệ thống pháp luật tối ưu cho việc quản lí hiện tượng mại
dâm
Mại
dâm: thị trường và chế độ pháp luật
Muốn quyết định xem có cần cấm đoán mại
dâm hay không, trước hết cần phải hiểu mại dâm là gì và những thị trường mại
dâm khác nhau đang tồn tại ở những nước phát triển nhất.
Mại dâm là một ngành kinh doanh lớn
trên thế giới. Cần phải đánh giá những số liệu nói lên quy mô của nó, nhưng
đánh giá mang tính bảo thủ của Moffatt’s (2005: 193) cho rằng thu nhập hàng năm
trên toàn thế giới của ngành này là 20 tỉ USD. Ở Anh, nghiên cứu của Hội đồng
thành phố Glasgow cho rằng mỗi năm ở thành phố này người ta chi tới 6 triệu bảng
cho mại dâm đàn bà-đàn ông[3].
Thị trường mại dâm
Từ mại dạm mô tả một loạt hoạt động diễn
ra trong những bối cảnh khác nhau. Bà Diana (1985: 3) viết: “Việc phân tầng mại
dâm và tổ chức của nó rắc rối và phức tạp hơn là người ta vẫn tưởng. Một số
tiêu chí còn chống lấn lên các tiêu chí khác”. Tuy vậy, cũng có thể nhận biệt
được ba thị trường mại dâm căn bản[4].
Mại dâm đường phố là hình thức mại dâm
dễ thấy nhất, tức là người bán dâm mời gọi khách hàng ngay trên đường phố công
cộng và thường cung cấp dịch vụ ở chỗ công cộng. Hầu hết các thành phố lớn ở Bắc
Mĩ và châu Âu đều có những “khu đèn đỏ”, dành cho mại dâm đường phố. Mặc dù những
khu vực đó thường nằm xa khu dân cư, mại dâm diễn ra công khai trên đường phố
có thể làm người ta khó chịu, những người không tham gia hoạt động mại dâm có
thể bị gạ gẫm và đấy là những chỗ dường như có nhiều tội ác (hay lo sợ có tội
ác) do những người vãng lai tham gia vào những hoạt động ngầm gây ra. Những người
bán dâm trên đường phố (và khách hàng của họ) thường trở thành đối tượng của nạn
cướp giật và những hành động bạo lực khác. Trên thực tế, người ta tính được rằng
số vụ giết gái mại dâm trên đường phố ở Mĩ là 459 trên 100.000, nghĩa là những
người bán dâm trên đường phố có sắc suất bị giết cao hơn 18 lần so với những phụ
nữ cùng lứa tuổi và cùng sắc tộc (Potterat et al., 2004). Bên thứ ba có thể
tham gia vào hoạt động mại dâm đường phố, thường là cung cấp một hình thức bảo
vệ nào đó cho người bán dâm. Những câu chuyện khủng khiếp do những người chống
đối mại dâm trình bày thường liên quan đến những người bán dâm trên đường phố,
nhiều người trong số họ rất dễ bị tổn thương và đã bị hãm hại; trong các nước
đã phát triển, phần lớn những người bán dâm trên đường phố đều là những người
nghiện ma túy rất nặng, họ chỉ kiếm tiền để mua ma túy. Trong khi mại dâm đường
phố là hình thức mại dâm dễ thấy nhất, những đấy chỉ là phần nhỏ trong thị trường
mại dâm mà thôi; người ta đã tính ta rằng mại dâm đường phố chỉ chiếm 20% mại
dâm nữ và 5% mại dâm nam, tỉ lệ này có thể còn giảm hơn nữa sau khi có Internet
và điện thoại di động giá rẻ, tạo điều kiện cho sự phát triển của những thị trường
mại dâm khác (Cameron et al., 1999).
Thị trường mại dâm thứ hai là nhà thổ,
hay như người ta thường gọi là “nhà tắm hơn” (saunas) hay “phòng massage” (massage
parlours). Ở đấy có nhiều người bán dâm chuyên nghiệp, thường làm theo ca hay
quay vòng. Nhà thổ thường có tiếp viên hay “má mì”. Những nhà thổ lớn còn có bảo
vệ. Nhiều nhà thổ ở các nước đã phát triển hiện còn quảng cáo trên Internet, liệt
kê các dịch vụ và giá cả nữa. Nhà thổ không gây ra khó chịu như mại dâm đưởng
phố, mặc dù những người sống gần những nhà thổ đông khách có thể cảm thấy bất
an. Tại nhiều nước đã phát triển, nhất là ở Australia, Đức, Hà Lan và bang Nevada
ở Mĩ, nhà thổ được hoạt động hợp pháp và chính phủ quản lí nhằm bảo đảm việc sử
dụng bao cao su và đóng thuế. (Diana, 1985; Fleiss and Labi, 2003; Perkins và
Bennett, 1985; Ringdal,2004)[5].
Thị trường mại dâm thứ ba gọi là hộ tống
hay “gái gọi”[6].
Gái gọi là những người bán dâm độc lập, họ gặp khách hàng tại nhà hay tại phòng
khách sạn của khách, mặc dù nhiều gái gọi tìm khách hàng thông qua các môi giới.
Gái gọi gây ra ít phiền toái nhất; hàng xóm, bạn bè, thậm chí đối tác có thể là
gái gọi mà không ai biết. Trong các nước đã phát triển, thị trường gái gọi (và ở
mức độ thấp hơn là nhà thổ) phát triển rất mạnh, bằng chứng là các website do
các đối tác lập ra nhằm chia sẻ thông tin và giá cả về các “gái” và môi giới (Diana,
1985; Fleiss and Labi, 2003; Perkins and Bennett, 1985; Ringdal, 2004).
Moffatt và Peters (2004) đã chỉ ra rằng
những phụ nữ bán dâm ở Anh trong nhà thổ hay gái gọi thường có thu nhập gấp ba
lần lương người lao động chân tay và gấp hai lần lương người lao động bàn giấy.
Họ tính được rằng thu nhập của người bán dâm trong nhà thổ và gái gọi ở nội
thành London là hơn 50.000 bảng một năm[7], mà không phải đóng thuế
thu nhập, không cần chứng chỉ bằng cấp hay kinh nghiệm, thường đòi hỏi đối với
người lao động bình thường có mức lương như thế.
Chế độ pháp luật quản
lí việc mại dâm
Mại dâm được quản lí bằng một trong ba
chế độ pháp lí sau đây. Thứ nhất, nơi mại dâm và những hoạt động đi kèm là hợp
pháp, bao gồm cả ma cô, những người bán dâm được bên thứ ba quản lí. Đấy là
tình trạng pháp lí hiện hành về mại dâm tại nhiều nước, trong đó có Áo,
Singapore và Thụy Sĩ.
Thứ hai và thịnh hành hơn, được áp dụng
ở Australia, Đức, Hà La, Hungary, Anh và bang Nevada ở Mĩ; cho phép mại dâm và
những hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho nó, nhưng một số hoạt động của bên
thứ ba (mặc dù không phải lúc nào cũng thế) thì bị coi là bất hợp pháp. Chế độ
này nhằm giảm thiểu số người làm nghề mại dâm và bảo vệ người bán dâm, không để
họ bị bọn ma cô hay tú bà bóc lột.
Thứ ba, coi mại dâm và mọi hoạt động
liên quan đến mại dâm đều là bất hợp pháp. Đấy là tình trạng pháp lí trong thế
giới Hồi giáo và Arab, cũng như Thụy Điển. Trong một số nước, như Iran và Somalia,
mại dâm bị kết án tử hình. Năm 1999 Thụy Điển ban hành Luật chống báng dịch vụ
mại dâm, luật này đặc biệt ở chỗ coi việc mua dâm là phạm tội, tức là coi người
mua dâm chứ không phải người bán dâm là tội phạm.
Ngay cả ở những nơi mà mại dâm được
coi là hợp pháp, vẫn có những rào cản pháp lí ngăn chặn không cho nó trở thành
một nghề tương tự như những nghề khác. Đáng chú ý nhất là, trong một số nước, kể
cả Anh, việc người bán dâm thuê bên thứ ba làm những việc như bảo vệ và những dịch
vụ khác bị coi là bất hợp pháp. Dư luận xã hội đầy sức mạnh còn tham gia vào việc
vận động hành lang cho việc chống mại dâm nữa. Sau chiến dịch vận động nhằm đưa
mại dâm ra ngoài vòng pháp luật thành công ở Thụy Điển, một chiến dịch tương tự
đang diễn ra ở Na Uy, và tháng 7 năm 2007 có báo cáo nói rằng các bộ trưởng
trong chính phủ Anh đã xem xét việc đưa ra những đề nghị tương tự[8]. Bây giờ ta sẽ xem xét những
luận cứ căn bản được đưa ra nhằm cấm hiện tượng mại dâm
Cấm mại
dâm: ủng hộ và chống đối
Tất cả các luận cứ được đưa ra nhằm chống
mại dâm đều là những biến thể của “nguyên tắc tổn hại”. Như đã nói trong phần mở
đẩu của tuyển tập này, nguyên tắc có hại được John Stuart Mill [1859] trình bày
một cách thuyết phục nhất; nguyên tắc này nói rằng hạn chế về mặt luật pháp đối
với tự do của cá nhân chỉ có thể được biện minh khi nó được dùng để ngăn chặn mối
nguy hại đối với người khác. Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng của luật
hình sự trong tất cả các xã hội văn minh (mặc dù nó có thể có xuất sứ từ những
nguồn khác nhau) và cuộc tranh luận về phạm vi áp dụng thích hợp của luật thường
bao gồm đánh giá liệu một hành động nào đó có làm hại người khác hay không (Feinberg,
1984). Vì thế mà những người ủng hộ việc cấm mại dâm tìm cách chứng minh rằng
nó có gây tác hại.
Có thể nhận ra hai biến thể chính của
luận cứ này. Thứ nhất, mại dâm làm hại những người bán dâm, vì người ta tin rằng
chắc chắn là có sự bóc lột những người phụ nữ hành nghề mại dâm. Thứ hai, người
ta khẳng định rằng mại dâm làm hại xã hội hay buộc những người khác phải chịu ảnh
hưởng, dù họ không tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này.
Hại đối với người bán
dâm
Có khả năng là luận cứ dai dẳng nhất
nhắm chống lại mại dâm là: mại dâm chắc chắc có hại cho những người bán dâm.
Trung tâm của luận cứ này là quan điểm cho rằng không có ai tự ý làm người bán
dâm và vì vậy mà mại dâm chắc chắn là có bóc lột, cưỡng bức hay ít nhất cũng là
do tuyệt vọng mà ra. Luận cứ này thường được áp dụng cho gái bán dâm, những người
được cho là bị mất hết quyền lực và bị đẩy ra ngoài lề trong những xã hội bị
coi là gia trưởng.
Quan niệm cho rằng mại dâm nữ chắc chắn
là có sự bóc lột phụ nữ là trọng tâm của luận cứ của những người bênh vực cho
quyền lợi của phụ nữ, chống mại dâm. Những người phụ nữ bán dâm bị họ coi là những
người không được quyền chọn những nghề khác, chủ yếu là do nghèo đói mà ra: “Mại
dâm là do không còn lựa chọn nào khác… Muốn thoát khỏi mại dâm, phụ nữ cần những
gì? Họ cần tiền lương đủ sống. Đặc biệt, nhu cầu của họ bao gồm nhà ở, học nghề
và chăm sóc y tế, kể cả chữa trị việc lạm dụng thuốc” (Farley, 2005: 2; xem
thêm Pateman, 1988: ch. 7).
Miêu tả như thế về mại dâm được áp dụng
không chỉ cho những người bán dâm trên đường phố hay những người phụ nữ bị bán
làm gái mại dâm mà còn được áp dụng cho tất cả những người phụ nữ làm nghề mại
dâm nữa: “Sự khác biệt giữa việc sự kiện đó xảy ra ở khách sạn Plaza hay ở một
nơi nào đó kém lịch sự hơn không phải là sự khác biệt quan trọng… Hoàn cảnh
không làm giảm nhẹ hay thay đổi được bản chất của mại dâm (Dworkin, 1997:
140−41).
Quan niệm cho rằng mại dâm là sự bóc lột
phụ nữ thường là quan điểm của những người Marxist về bóc lột, bị họ coi là hiện
tượng cố hữu trong lòng chủ nghĩa tư bản; mại dâm nữ là hình thức bóc lột thô lậu,
dường như là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Do đó, theo Rowbotham (1972: 65): “Hệt như người bán dâm đổi tình lấy tiền, người
công nhân đổi lao động và cuộc sống của họ lấy đồng lương mỗi ngày”.
Theo Pateman (1988: ch. 7) mại dâm là
sản phẩm của “chủ nghĩa tư bản gia trưởng”, nhưng người ta cũng nói rằng có sự
khác biệt về chất giữa bóc lột người đàn bà bán dâm và bóc lột sức lao động của
người đàn ông trong chủ nghĩa tư bản; nơi người đàn ông chỉ bán sức lao động của
họ cho người sử dụng lao động, quan hệ không thể tách rời giữa thể xác và tâm hồn
có nghĩa là khi người phụ nữ bán dâm là ‘người đó bán mình theo nghĩa thực tế
nhất của từ này” (ibid.: 207).
Do đó, họ tuyên bố rằng bản chất của sự
xâm hại về mặt thể xác của mại dâm có nghĩa là nó không phải là “công việc bẩn
thỉu” như nhiều “công việc bẩn thỉu khác”, hay chỉ là một thí dụ về sự bóc lột
tư bản chủ nghĩa trong số nhiều vụ bóc lột khác: “Xí nghiệp bóc lột sức lao động
là xấu xa, nhưng hàng ngày chúng không xâm hại từng lỗ chân lông trên cơ thể bạn”
(Farley, 2005: 4). Như vậy là người ta nói rằng mại dâm xâm phạm quyền sở hữu
cơ thể của chính người đàn bà. Trên cơ sở đó, người ta nói rằng mại dâm là có hại.
Quan điểm cho rằng mại dâm nhất định sẽ
kèm theo bóc lột phụ nữ, tất cả phụ nữ bán dâm đều là nạn nhân bị thiệt hại, đã
có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhận thức xã hội và định hình chính
sách xã hội về mại dâm. Có thể nhận thấy điều này trong quá trình xây dựng luật
cấm của Thụy Điển vào năm 1999, liên quan đến “mại dâm… là biểu hiện của nạn bạo
hành của nam giới đối với phụ nữ và trẻ em” cho nên “nó được chính thức coi là
hình thức bóc lột phụ nữ và trẻ em” (Bộ
công nghiệp, lao động và thông tin, 2004: 1).
Nhưng bằng chứng thực tế lại không ủng
hộ lời tuyên bố của những người phản đối mại dâm khi họ nói rằng chỉ những người
phụ nữ (và đàn ông) đã tuyệt vọng hay họ ép buộc, không còn lựa chọn nào khác mới
bán dâm mà thôi. Nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn đã chỉ ra rằng người bán
dâm có xuất xứ từ tất cả các giai tầng xã hội. Thí dụ, những cuộc khảo cứu “gái
gọi” cho thấy nhiều người tốt nghiệp đại học, có thu nhập tương đối cao ngay
khi họ tìm những công việc khác. Đấy là những người phụ nữ có cơ hội lựa chọn
công việc và họ bán dâm không phải là do túng quẫn (Diana, 1985; Perkins và Bennett,
1985; Satz, 1995). Trên thực tế, một trong những công trình nghiên cứu toàn diện
nhất về mại dâm ở Mĩ cho thấy một phần ba gái bán dâm xuất thân từ những giai
đình có thu nhập cao (Diana, 1985: 45).
Trái ngược với lời tuyên bố của những
người theo phái nữ quyền phản đối mại dâm rằng người bán dâm chẳng có quyền
hành gì và không được lựa chọn, họ phải làm tất cả những gì khách hàng yêu cầu (xem,
thí dụ: Dworkin, 1997: 140; Farley, 2005: 3), bằng chứng thực tế chứng tỏ rằng
người bán dâm thường đàm phán khá lâu với khách hàng về những việc họ sẽ làm
hay không làm và giá phải trả cho những dịch vụ đặc biệt (Diana, 1985;
Pheterson, 1996). Do đó, như Pheterson (1996: 39) mô tả: “Trên thực tế, hoạt động
tình dục cũng như giá cả đều được đàm phán. Gái bán dâm đề nghị hay khách hàng
đòi hỏi, nhưng cô ta là người phải thỏa thuận điều kiện chung cuộc”. Thực ra,
khoản thu nhập cao của nhiều người bán dâm là bằng chứng nữa chứng tỏ rằng họ
không phải là những người không có quyền hành gì, nhất định phải có quyền mặc cả
thì mới mặc cả được tiền công cao như thế.
Như vậy là, mại dâm là một trong nhiều
hoạt động mà người ta muốn tham gia khi lợi ích thu được lớn hơn là giá phải trả.
Trong bất cứ xã hội nào, nơi người dân không sống bằng lộc thánh mà phải lao động
mới có ăn thì người dân nhất định phải tham gia những hoạt động mà giá phải trả
là chính cá nhân – với giả định rằng họ thích chơi hơn thích làm. Có những người,
như Wertheimer (1992: 215) mô tả, “hầu như trong tất cả các hợp đồng lao động,
thực tế là hầu như trong tất cả các hợp đồng mang lại lợi ích, đều có yếu tố
tiêu cực”, nhưng “Chúng ta không nói rằng người công nhân do làm việc mà bị tổn
thương… Chúng ta giả định rằng lợi ích mà người công nhân đó thu được lớn hơn
là giá phải trả”.
Vì vậy mà chỉ ra rằng một người do
hoàn cảnh kinh tế mà phải làm những việc mà trong hoàn cảnh khác họ sẽ không
làm hay giá phải trả là chính cá nhân người đó, không chứng minh được rằng người
đó bị bóc lột hay bị ép buộc hay hành động vì tuyệt vọng. Nó chỉ chứng tỏ rằng những lựa chọn đáng mong
ước hơn đòi hỏi sự hợp tác của những người khác, thí dụ người ta muốn kiếm sống
trong khi vẫn được an nhàn, và sự hợp tác như thế bị pháp luật cấm đoán. Như
Ericsson (1980: 346) đã chỉ rõ: “nói rằng gạ gẫm bán dâm có nguyên nhân kinh tế
… là hoàn toàn chấp nhận được, khi chúng ta sẵn sàng nói như thế về ‘bệnh suy
nhược thần kinh’”. Nếu người bán dâm tham gia bán dâm vì lí do kinh tế thì cũng
tương tự như nói rằng bán dâm cũng là một nghề như bất kì nghề nào khác, dù đấy
là luật, ý tế hay lau chùi của sổ thì cũng vậy mà thôi.
Hơn nữa, nếu đàn bà và đàn ông có quyền
lựa chọn bạn tình thì điều đó phải bao gồm việc lựa chọn đổi tình lấy tiền, nếu
họ muốn như thế. Vì vậy, lời tuyên bố của Farley (2005: 1) rằng “đàn bà có quyền
KHÔNG là gái bán dâm” phải hàm ý rằng đàn bà (và đàn ông) có quyền làm người
bán dâm. Nếu không phải như thế thì một quyền lực ngoại tại nào đó có quyền quyết
định rằng đàn bà (và đàn ông) có thể làm tình với người nào. Quan điểm này dường
như không tương thích với bất kì khái niệm nào về quyền tự chủ, tự do cá nhân
hay trao quyền cho cá nhân.
Ý tưởng cho rằng đàn bà không có chọn
lựa khi tham gia vào quan hệ tình dục thương mại trong khi đàn ông có thể lựa
chọn mà không bị bóc lột hay ép buộc dường như ám chỉ rằng đàn bà không thể tham
gia vào địa hạt tình dục mà không có sự bảo vệ của nhà nước. Vì đàn bà không phải
là công dân hạng hai, nghĩa là chấp nhận rằng họ có thể chọn lựa cách sử dụng
cơ thể của mình theo cách mà họ thấy phù hợp, thậm chí nếu đấy có nghĩa là bán
dâm.
Trên thực tế, Pheterson (1996: 37−8) từng
khẳng định rằng việc coi những người phụ nữ bán dâm là nạn nhân là sản phẩm của
“sự hòa nhập của phụ nữ vào xã hội theo lối truyền thống, không cho phụ nữ nói
chuyện về tình dục, không cho đòi tiền trong bất cứ tình huống nào” và vì thế
mà là một phần của “việc áp đặt mang tính quy chuẩn sự phụ thuộc của phụ nữ về
mặt tình dục và tài chính”. Đối với Pheterson, chỉ khi phụ nữ được coi là có khả
năng lựa chọn trong việc tham gia bán dâm trên cùng mặt bằng với đàn ông thì họ
mới đạt được sự giải phóng và quyền bình đẳng thật sự. Theo đó, không phải mại
dâm duy trì vĩnh viễn sự phụ thuộc của đàn bà, mà niềm tin rằng đàn bà không thể
tự do lựa chọn khi bán dâm và vì vậy mà những người phụ nữ bán dâm chắc chắn là
nạn nhân mới góp phần vào việc duy trì sự lệ thuộc đó.
Hại đối với xã hội
Cái hại thứ hai thường được gán cho mại
dâm là tác hại đối với những người không trực tiếp tham gia vào công nghệ tình
dục. Ở cấp độ cơ bản nhất, mại dâm được cho là gây hậu quả đối với xã hội qua
việc lan truyền những bệnh lây qua đường tình dục, làm thiệt hại cho xã hội; nó
còn được gán cho là có liên hệ với tệ nạn lạm dụng ma túy và những loại tội phạm
hình sự khác, và đe dọa những mối quan hệ đã ổn định và như thế là góp phần vào
việc phá vỡ các cuộc hôn nhân và gia đình.
Cách tiếp cận mang tính thực tế đối với
mại dâm nhằm tìm cách giảm bớt những tác hại do mại dâm gây ra là đặc trưng của
chính sách xã hội trong nhiều nước đã phát triển, mặc dù giảm mại dâm đến mức
càng ít càng tốt nói chung là mục tiêu dài hạn của chính sách như thế.
Tuy nhiên, nhiều tác hại được cho là
do mại dâm gây ra cũng phải được áp dụng cho những hoạt động tình dục khác,
trong đó có ngoại tình và tình một đêm (Fabre, 2006: 163). Do đó, khẳng định rằng
mại dâm phải bị đưa ra ngoài vòng pháp luật trên cơ sở những luận cứ như thế, về
mặt logic, cũng hàm ý rằng những quan hệ tình dục phi-thương mại khác, tức là
những quan hệ góp phần làm lan truyền bệnh tật và phá vỡ hôn nhân cũng phải bị
cấm. Dĩ nhiên, đề nghị như thế không phải là đề nghị đặc biệt hấp dẫn, đấy
chính là cách tiếp cận trong những nước Hồi giáo nghiêm khắc như Iran và Saudi
Arabia, nơi ngoại tình (cũng như mại dân) là những tội ác nghiêm trọng. Nếu mại
dâm phải bị cấm trên cơ sở như thế thì cũng phải chứng minh rằng vì sao ngoại
tình và sự lang chạ nói chung không bị đưa ra ngoài vòng pháp luật.
Nhiều tác hại được liệt kê bên trên là
kết quả trực tiếp của tình trạng pháp lí của mại dâm và có thể được cải thiện nếu
mại dâm và những hoạt động cần thiết cho nó diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật.
Sự kiện là trong phần lớn các quốc gia, mại dâm tồn tại trong những tình huống
khó xác định về mặt luật pháp làm cho những người tham gia vào lĩnh vực này phải
hoạt động trong thế giới mù mờ, xấu nhất là khi mại dâm bị tội phạm có tổ chức
kiểm soát. Điều này lại liên kết mại dâm với những hoạt động tội phạm khác, như
buôn bán ma túy và làm cho bọn tội phạm chú ý đến người bán dâm và khách hàng của
họ. Coi việc cung cấp dịch vụ của bên thứ ba cho người bán dâm là hoạt động phạm
pháp càng làm cho những người bán dâm khó áp dụng những biện pháp an toàn mà
không tìm đến những tổ chức tội phạm.
Chính vì trong rất nhiều nước, mại dâm
là bất hợp pháp hay không được xác định chắc chắn về mặt luật pháp cho nên mới
có hiện tượng mua bán phụ nữ làm gái bán dâm, mặc dù mức độ của loại tội phạm
này gần như chắc chắn là bị phóng đại vì
lí do chính trị (Weitzer, 2007a, 2007b). Hơn nữa, chỉ những công việc chui mới
dễ bị mắc những tội đó, những lĩnh vực hoạt động hợp pháp, được nhà nước quản
lí không gặp phải những vấn đề tương tự như bạn buôn người và lạm dụng con người.
Có thể làm sáng tỏ con đường đi lên bằng thí dụ nhà thổ lớn nhất Australia, có
tên gọi là Daily Planet, được đưa lên thị trường chứng khoán vào tháng 5 năm
2003; một công ty như vậy dường như sẽ không tham gia nhiều hơn vào việc buôn
người và lao động cưỡng ép so với những công ty như Tesco hay Wal-Mart. Đặt
công nghệ tình dục trên cơ sở như những lĩnh vực khác của nền kinh tế là biện
pháp tốt nhất nhằm chấm dứt những tác hại liên quan đến mại dâm.
Cần phải nói thêm rằng có ít bằng chứng
chứng tỏ rằng cấm đoán làm giảm được tệ nạn mại dâm. Không những thế, có bằng
chứng cho thấy rằng những biện pháp nhằm gia tăng những chi phí bằng tiền và
không bằng tiền hầu như không có ảnh hưởng tới hiện tượng mại dâm. Bằng chứng từ
châu Âu và Mĩ cho thấy rằng quan hệ pháp lí của mại dâm trong một nước cụ thể
hay một bang của Mĩ ít ảnh hưởng tới tỉ lệ người bán dâm so với toàn bộ dân số.
Không những thế, mật độ dân số là yếu tố quyết định đối với sự lan tràn của mại
dâm; có thể đấy là do trong những khu vực thưa dân ở nông thôn, sự kiểm soát xã
hội thường gắt gao hơn (nhất là sự khinh bỉ của xã hội) và việc có quá đông
khách hàng, thường thấy ở các khu vực đô thị, làm cho mại dâm phát triển (MacCoun
and Reuter, 2001; Moffatt, 2005).
Luận cứ căn cơ hơn, nói rằng mại dâm
có hại đối với xã hội dựa trên niềm tin rằng mại dâm là vô đạo đức và về bản chất
là sai. Luận cứ này khẳng định rằng thậm chí nếu mại dâm có diễn ra theo cách
nào đó mà nó không hề làm phiền xã hội và thậm chí nếu những người bán dâm tự
nguyện làm việc đó thì ngay sự tồn tại của mại dâm đã góp phần phá hủy đạo đức
xã hội rồi, vì vậy, nó phải bị đưa ra ngoài vòng pháp luật. Quan điểm đòi hỏi của
đạo đức xã hội (dù nó có nghĩa là gì và được xác định như thế nào thì cũng vậy)
phải chà đạp lên quyền của cá nhân trong việc tham gia vào những hành động tự
nguyện củng cố cho những lời kết án của tôn giáo đối với mại dâm (và nhiều hoạt
động được coi là vô đạo đức khác) và những lời phê phán của một số nhà hoạt động
trong phong trào nữ quyền đối với mại dâm.
Theo những người nữ quyền chống báng mại
dâm thì đấy là một trong nhiều định chế xã hội góp phần duy trì quan niệm cho rằng
đàn bà thua kém hơn đàn ông, và giá trị chủ yếu của đàn bà là thỏa mãn nhu cầu
tình dục của đàn ông. Theo Satz (1995: “Tình dục được thương mại hóa …[duy trì]
thế giới, trong đó đàn bà là nhóm người phụ thuộc. Mại dâm là sai vì việc bán
dâm củng cố cách suy nghĩ của nhiều người về sự bất bình đẳng giới… mại dâm
đương thời góp phần và còn là bằng chứng củng cố quan niệm cho rằng về mặt xã hội,
đàn bà thua kèm hơn đàn ông”.
Tương tự như thế, Pateman (1988: 199) khẳng
định rằng mại dâm là một phần của công nghệ tình dục, tức là ngành “thường
xuyên nhắc nhở đàn ông – và cả đàn bà – rằng đàn ông có quyền của phái nam, rằng
họ có quyền gia trưởng trong việc tiếp cận với thân thể phụ nữ”.
Như vậy là, người ta nói rằng mại dâm
không chỉ có hại đối với những người phụ nữ bán dâm mà còn có hại cho những người
không trực tiếp tham gia vào công việc này; nhưng họ phải sống trong xã hội,
trong đó thái độ của đàn ông và đàn bà bị ảnh hưởng, theo một cách nào đó, bởi
nạn mại dâm. Theo nghĩa này, người ta khẳng định rằng tất cả phụ nữ đều có trải
nghiệm thực tế về mại dâm vì họ sống trong thế giới được định hình bởi nạn mại
dâm và những định chế mang tính gia trưởng.
Nhưng phải hỏi rằng liệu mại dâm có củng
cố quyền lực được cho là đàn ông có đối với đàn bà hay là ngược lại. Dường như
là trái với tuyên bố của Pateman, những người muốn có tình thì phải trả tiền có
ít quyền “trong việc tiếp cận với thân thể phụ nữ” hơn là những người không mất
tình phí.
Hơn nữa, khẳng định rằng những người
phụ nữ từ một giai cấp hay nhóm đơn lẻ có chung những trải nghiêm đơn lẻ là khẳng
định chẳng có bằng chứng thực tế nào hết. Trên thực tế, mỗi cá nhân đều được định
hình bởi những trải nghiệm và giá trị mang tính chủ quan và mang tính cá nhân của
người đó. Những trải nghiệm và giá trị đó dĩ nhiên là có tính xã hội và văn
hóa, nhưng không giống hệt như những trải nghiệm và giá trị của những người
cùng giới, cùng tuổi tác, cùng sắc tộc hay hoàn cảnh kinh tế.
Nếu tất cả phụ nữ đều có chung một trải
nghiệm thì không rõ tại sao trải nghiệm đó phải là trải nghiệm của những người
bán dâm chứ không phải là trải nghiệm, thí dụ, của những luật sư thành đạt hay
chính trị gia cao cấp hoặc giáo sư đại học.
Hơn nữa, nếu trải nghiệm của tất cả phụ
nữ đều bị định hình bởi sự kiện là một số người phụ nữ là gái điếm thì điều này
cũng phải được áp dụng đối với đàn ông. Căn cứ vào sự kiện là một số đàn bà và
một số đàn ông là những người bán dâm, vậy thì về khía cạnh này, trải nghiệm của
đàn bà và đàn ông phải giống nhau và như vậy là mại dâm không còn hiện tượng có
tính áp bức đối với riêng phụ nữ nữa.
Công và tư
Trong ngữ cảnh của nguyên tắc tổn hại
đó, mục đích của yếu của Mill (1859 [1985]) là phân định rạch ròi lĩnh vực đạo
đức công và tư. Nghĩa là xác định đâu là những vấn đề riêng tư mà cá nhân phải
quan tâm và đâu là những vấn đề công mà chính phủ phải quan tâm. Không có sự
phân biệt như thế, phạm vi mà chính phủ có thể can thiệp vào đời sống của người
dân sẽ là vô giới hạn. Theo Mill, chỉ có những hành động có ảnh hưởng trực tiếp
tới người khác mới thuộc về lĩnh vực của đạo đức công và vì vậy là mục tiêu phù
hợp của lập pháp, những hành động không có ảnh hưởng trực tiếp tới người khác nằm
trong lĩnh vực của đạo đức cá nhân và vì vậy là vấn đề của lương tâm mỗi cá
nhân.
Trong khi những người nữ quyền khẳng định
rằng “vấn đề cá nhân là vấn đề chính trị” thì thực ra những vấn đề cá nhân phải
là những vấn đề của từng cá nhân, cho nên “vấn đề cá nhân là vấn đề cá nhân”. (McElroy,
1995: 125). Do đó, như McElroy (ibid.: 125−6) từng viết, cuộc sống tình dục của
đàn ông và đàn bà trưởng thành là vấn đề cá nhân, nằm ngoài lĩnh vực chính trị
hay lĩnh vực công: “Có một cánh cửa chính trị, cánh cửa này đóng nhằm tách biệt
và bảo vệ các cá nhân khỏi xã hội. Người ta gọi sự bảo vệ này bằng những tên
khác nhau: tuyên ngôn nhân quyền, quyền tư hữu, quyền cá nhân, hay pháp quyền tự
nhiên. Dưới cái ô của sự bảo vệ như thế, người đàn bà đưa ra những quyết định
liên quan đến họ và chỉ liên quan đến họ mà thôi. Thí dụ, họ quyết định những vấn
đề liên quan tới tình dục”.
Như vậy là, nguyên tắc tổn hại không
nhằm mục đích mở rộng khả năng can thiệp dường như vô giới hạn của chính phủ bằng
cách trao cho dân chúng quyền tuyên bố rằng họ bị thiệt hại bởi những hành động
do những người trưởng thành khác làm trong chỗ riêng tư. Đúng ra, nguyên tắc tổn
hại nhằm đóng cánh cửa và giới hạn khu vực, trong đó chính phủ có thể can thiệp
– bằng cách phân định rõ khu vực công và tư của hành động của con người. Nhưng
người ta có thể vạch ra được một đường biên giới như thế, đời sống tình dục của
những người trưởng thành phải thuộc về lĩnh vực riêng tư.
Chế độ
pháp lí tối ưu
Một phần tư thế kỉ trước, Ericsson
(1980: 336) đã từng nhận xét rằng mọi cuộc thảo luận về mại dâm đều khởi sự từ
quan điểm cho rằng mại dâm là hiện tượng không đáng mong muốn. Mặc dù hiện nay
trong sách báo mang tính hàn lâm đã có những cách hiểu khác, nhưng cách tiếp cận
đó vẫn giữ thế thượng phong trong những cuộc thảo luận chính sách cho giai đoạn
hiện tại. Thí dụ, báo cáo tham khảo của chính phủ Anh năm 2004 bắt đầu với những
lời lẽ như sau: “Mại dâm có thể gây ra những hậu quả tai hại đối với những người
tham gia và cho cộng đồng rộng rãi hơn” (Home Office, 2004: 5). Đương nhiên là cũng
có thể nói như thế về việc lái xe, nhưng không có báo cáo tham khảo nào của
chính phủ về giao thông đường bộ bắt đầu với tuyên bố tương tự như thế. Người ta
vẫn lái xe vì họ nghĩ rằng lợi ích thu được lớn hơn giá phải trả, tương tự như
vậy, mại dâm vẫn tồn tại vì người bán dâm và khách hàng của họ nghĩ rằng lợi
ích mà họ thu được lớn hơn giá phải trả. Xuất phát điểm phù hợp nhất trong quá
trình tìm kiếm chế độ pháp lí tối ưu cho mại dâm là công nhận những lợi ích mà
người ta thu được từ hoạt động này.
Đối với những người làm nghề mại dâm,
mại dâm là cách kiếm thu nhập tương đối cao, thời gian làm việc tương đối ngắn,
giờ giấc linh hoạt và không đòi hỏi chứng chỉ tay nghề. Trong khi, đó lại không
phải là nghề mà ai cũng suy nghĩ tới, có bằng chứng rằng một số người cho rằng
đó là công việc đáng làm, một công việc tạo điều kiện cho họ cung cấp điều mà họ
coi là dịch vụ quan trọng cho những người khác (Diana, 1985: ch. 2; Fleiss, 2002;
Perkins và Bennett, 1985: ch. 11).
Đối với khách hàng, mại dâm tạo cho họ
cơ hội có những mối liên hệ tình dục và thân mật bên ngoài những buổi hẹn hò và
bổn phận thường ngày. Có rất nhiều lí do vì sao người ta lại thích chuyện đó.
Có thể lí do thường gặp nhất là thỏa mãn nhu cầu tình dục mà không còn cách nào
khác, có thể đối tác dài hạn không có khả năng hay không muốn hoặc không có đối
tác dài hạn. Một số khách hàng có thể không có khả năng hay kém hấp dẫn đến mức
không tìm được đối tác bên ngoài lĩnh vực thương mại. Một số người có thể đến với
gái bán dâm vì họ thích làm tình với đối tác hấp dẫn hơn là những đối tác mà họ
có thể kiếm được bằng cách khác. Một số khách hàng có thể muốn làm tình với nhiều
đối tác khác nhau hay đơn giản là họ không có những quan hệ gắn bó với ai hết.
Mại dâm còn tạo điều kiện cho người ta tìm hiểu hoạt động tình dục của mình và
có trải nghiệm tình dục khác biệt, bên ngoài mối quan hệ sẵn có; đấy là một
trong những cách giúp người ta tham gia vào “thí nghiệm trong khi sống”. Có bằng
chứng chứng tỏ rằng khách hàng của các gái gọi muốn có sự gần gũi cả về tình cảm
lẫn thể xác – thực ra, yêu cầu của khách hàng trong lĩnh vực này có thể là gáng
nặng tâm lí đáng kể đối với người bán dâm (Lever and Dolnick, 2000; Monto,
2000; Perkins và Bennett, 1985).
Như Perkins và Bennett (1985: 222) đã
viết trên cơ sở công trình nghiên cứu có tính thực nghiệm trên bình diện quốc tế
về công nghệ tình dục, mại dâm phải được coi là dịch vụ xã hội, tạo điều kiện
cho người ta chấp nhận các nhu cầu và ước muốn khác nhau:
Chúng
tôi coi [mại dâm] là một loại dịch vụ xã hội, nó cung cấp lối thoát về mặt tình
dục vì thỏa mãn về mặt tình dục có thể giúp ngăn chặn bệnh tật cho nhiều người
đàn ông và đôi khi giúp ngăn chặn cả những rối loạn tâm lí nữa. Ngay cả những
người coi đấy là hiện tượng đáng tiếc hay chưa được tốt cũng có thể coi đấy như
một trong những nghề có tính cách giúp đỡ, một loại dịch vụ, tương tự như y tế,
như công tác xã hội hay cảnh sát, giúp người ta giải quyết những vấn đề của
mình.
Do đó, lời tuyên bố chính xác hơn, mở
đầu cho báo cáo tham khảo về đề tài này nên được viết như sau: Mại dâm có thể tạo
ra những lợi ích tích cực cho các cá nhân tham gia cũng như cho cộng đồng rộng
rãi hơn.
Chế độ pháp lí tối ưu đối với mại dâm
phải hợp pháp hóa mại dâm và tất cả những hoạt động bổ trợ cho nó, trong đó có
bên thứ ba, tức là những người quản lí hay cung cấp dịch vụ cho họ nhằm thu được
lợi nhuận. Khuôn khổ pháp lí như thế sẽ bảo đảm rằng người bán dâm có thể sử dụng
môi giới nhằm kiểm tra khách hàng hay làm việc trong những nhà thổ có bảo vệ
thích hợp và những dịch vụ khác, thí dụ như y tế. Việc hợp pháp hóa hoàn toàn sẽ
đưa ngành công nghiệp này vào hệ thống thuế khóa và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát hiện những hành động phạm pháp.
Nếu có những vụ bóc lột vô đạo đức đối
với những người không tự ý lựa chọn tham gia bán dâm thì những loại tội phạm đó
có thể và phải bị xử lí bằng những điều luật về bắt cóc, lạm dụng tình dục và
luật lao động. Đưa mại dâm từ thị trường chợ đen hay mù mờ vào nền kinh tế minh
bạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết những vấn đề như thế.
Những thiệt hại đối với xã hội, về
nguyên tắc, thường liên quan với mại dâm đường phố cũng có thể được đưa vào
khuôn khổ pháp lí như thế, thậm chí ở những nơi mại dâm đã được hợp pháp hóa,
đa số những người bán dâm đường phố vẫn nằm bên ngoài những điều luật và quy định
quản lí việc bán hàng trên đường phố và đóng thuế. Dưới chế độ pháp lí tối ưu,
cảnh sát hay những cơ quan khác sẽ có thề can thiệp nhằm ngăn chặn mại dâm đường
phố, trên cơ sở bán hàng trên đường mà không có giấy phép hay trốn thuế chứ
không phải là phạm tội về mặt tình dục
Kết luận
Cấm đoán mại dâm là một thí dụ về
chính sách tồi, dựa trên những lí lẽ sai lầm đang rất thịnh hành hiện nay. Đấy
một phần là do ít người muốn công khai thách thức nó. Bài này đã chỉ ra rằng mại
dâm là trao đổi tự nguyện, đôi bên đều có lợi, giữa những người đàn bà và đàn
ông đã trưởng thành. Nhiều tổn hại liên quan đến mại dâm thực ra là kết quả của
tình trạng bán hợp pháp hay bất hợp pháp của nó tại nhiều quốc gia. Mại dâm phải
nằm trong lĩnh vực đạo đức cá nhân chứ không phải lĩnh vực quản lí của nhà nước,
nhà nước ép buộc đời sống tình dục của người trưởng thành là sai.
Tài liệu
tham khảo
Cameron, S., A. Collins and N. Thew
(1999), ‘Prostitution services: an exploratory analysis’, Applied Economics,
31: 1523−9.
Diana, L. (1985), The Prostitute and
Her Clients, Springfield, IL: Charles C. Thomas.
Dworkin, A. (1997) Life and Death:
Unapologetic writings on the continuing war against women, New York: Free
Press.
Edlund, L. and E. Korn (2002), ‘A
theory of prostitution’, Journal of Political Economy, 110(11): 181−214.
Ericsson, L. O. (1980), ‘Charges
against prostitution: an attempt at a philosophical assessment’, Ethics, 90:
335−66.
Fabre, C. (2006), Whose Body Is It
Anyway?, Oxford: Oxford University Press.
Farley, M. (2005), Unequal, San
Francisco, CA : Prostitution Research and Education Center.
Feinberg, J. (1984), Harm to Others:
The Moral Limits of the Criminal Law, vol. 1, New York: Oxford University
Press.
Fleiss, H. (2002), Pandering, Los
Angeles, CA : 1 Hour Entertainment.
Fleiss, H. and N. Labi (2003), ‘In
defense of prostitution’, Legal Affairs, September/October.
Home Office (2004), Paying the Price:
A consultation paper on prostitution, London: TSO.
Lever, J. and D. Dolnick (2000),
‘Clients and call girls: seeking sex and intimacy’, in R. Weitzer (ed.), Sex
for Sale: Prostitution, Pornography and the Sex Industry, London: Routledge.
MacCoun, R. J. and P. Reuter (2001),
Drug War Heresies: Learning from Other Vices, Times and Places, Cambridge:
Cambridge University Press.
McElroy, W. (1995), XXX: A Women’s
Right to Pornography, New York: St Martin’s Press.
Mill, J. S. (1859 [1985]), On Liberty,
London: Penguin Classics.
Ministry of Industry, Employment and
Communications (2004), Prostitution and Trafficking in Women, Stockholm:
Ministry of Industry, Employment and Communications.
Moffatt, G. (2005), ‘The economics of
prostitution’, in S. W. Bowmaker (ed.), Economics Uncut, Cheltenham: Edward
Elgar.
Moffatt, G. and S. A. Peters (2004),
‘Pricing personal services: an empirical study of earnings in the UK
prostitution industry’, Scottish Journal of Political Economy, 51(5): 675−90.
Monto, M. A. (2000), ‘Why men seek out
prostitutes’, in R. Weitzer (ed.), Sex for Sale: Prostitution, Pornography and
the Sex Industry, London: Routledge.
Pateman, C. (1988), The Sexual
Contract, Cambridge: Polity.
Perkins, R. and G. Bennett (1985),
Being a Prostitute: Prostitute Women and Prostitute Men, London: Allen and
Unwin.
Pheterson, G. (1996), The Prostitution
Prism, Amsterdam: Amsterdam University Press.
Potterat, J., D. Brewer, S. Muth, R.
Rothenburg, D. Woodhouse, J. Muth, H. Stites and S. Brody (2004), ‘Mortality in
a long-term open cohort of prostitute women’, American Journal of Epidemiology,
159(8): 778−85.
Ringdal, N. (2004), Love for Sale: A
Global History of Prostitution, trans. R. Daly, London: Atlantic Books.
Rowbotham, S. (1972), Women, Resistance
and Revolution, London: Penguin.
Satz, D. (1995), ‘Markets in women’s
sexual labor’, Ethics, 106(1): 63−85.
Weitzer, R. (2007a), ‘The facts about
the slave trade’, Foreign Affairs, 86(3): 164−5.
Weitzer, R. (2007b), ‘The social
construction of sex trafficking: ideology and institutionalization of a moral
crusade’, Politics and Society, 35(3): 447−75.
Wertheimer, A. (1992), ‘Two questions
about surrogacy and exploitation’, Philosophy and Public Affairs, 21(3):
211−39.
Zelizer, V. A. (2005), The Purchase of
Intimacy, Princeton, NJ : Princeton University Press.
[1]
Tôi xin
cám ơn Adrian Blau và một người phản biện dấu tên vì những nhận xét của họ cho
bản thảo.
[2]
Tuy nhiên,
những khó khăn về định nghĩa có thể xuất hiện vì quan hệ như thế có thể tồn tại
trong một số cuộc hôn nhân và những mối quan hệ khác, đòi hỏi việc “mua sự gần
gũi” (Edlund and Korn, 2002; Zelizer, 2005). Edlund và Korn (2002) đã tìm cách
vượt quan vấn đề này bằng cách định nghĩa rằng mại dâm là mua dâm mà từ quan điểm
của người mua là không có khả năng thụ thai. Định nghĩa này tuy không giải quyết
được toàn bộ khó khăng, nhưng có thể gần với định nghĩa thực tế về mại dâm.
[3]
Website
tin tức của hãng BBC, ‘Đàn ông ở Glasgow chi tới 6,6 triệu bảng cho tình dục’, http://news.bbc.co.uk/1/hi/ scotland/glasgow_and_west/5007898.stm.
[4]
Ở Mĩ, thị
trường mại dâm thứ tư lập trung vào dịch vụ tình dục tại những bến đỗ xe tải
(xem, thí dụ, Diana, 1985).
[5]
Các
websites trở thành nguồn thông tin quan trọng về mại dâm ở Anh, những trang này
có thông tin về nhiều bài báo có tính hàng lâm như Moffatt and Peters (2004).
[6] Sau đây sẽ gọi đơn giản là gái gọi
– ND.
[7]
Thu nhập hàng
năm của gái gọi ở New York (sau khi đã hiệu chỉnh lạm phát), do Satz (1995),
đưa ra là từ 30.000 đến 100.000 USD. Đồn
rằng những gái gọi làm việc cho bà ‘Hollywood Madam’ Heidi Fleiss được trả món
tiền 4 đến 5 chữ số một đêm chỉ để chuyên phục vụ khách hàng của bà ta (Fleiss,
2002).
[8] Đàn
ông mua dâm có thể bị truy tố, Guardian, 10 September 2007, p. 1.
No comments:
Post a Comment