January 24, 2016

Milovan Djilas - Giai cấp mới (Kì 6)



Milovan Djilas


Milovan Djilas (1911-1995)

Giai cấp mới

Phạm Nguyên Trường dịch

Nhà nước đảng trị (tiếp theo)


5.

Vấn đề quan trọng nhất, cả về phương diện lí thuyết và phương diện thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản là vấn đề nhà nước, và đây chính là nguồn gốc của mọi rắc rối và những mâu thuẫn ngày một rõ ngay trong lòng chế độ cộng sản.

Vì nhà nước không chỉ là - rất ít khi chủ yếu là - bộ máy đàn áp (trừ chế độ cộng sản, đây chính là một hình thức nội chiến giữa nhân dân và những kẻ đương chức đương quyền), nên bộ máy nhà nước cũng như toàn xã hội luôn nằm trong tình trạng chống đối - khi thăng khi giáng - tầng lớp chóp bu, một tầng lớp ngấm ngầm muốn biến bộ máy nhà nước thành một kẻ chỉ chuyên làm việc cưỡng bức. Cộng sản đã không hoàn thành được việc đó, cũng như họ không thể nô dịch được toàn bộ xã hội. Nhưng họ đã thiết lập được sự kiểm soát của các cơ quan chuyên chính - cảnh sát và đảng - lên toàn bộ bộ máy nhà nước và các công việc mà bộ máy này thực hiện. Vì vậy, việc phản ứng của các cơ quan chính phủ đối với “sự thiếu cảm thông” từ phía đảng, công an hoặc các nhân vật cụ thể trên thực tế chính là phản ứng của xã hội, chính là sự chống đối của xã hội được thể hiện thông qua bộ máy nhà nước trước những o ép và coi thường các nhu cầu và ước vọng của nhân dân.

Ngay cả trong chế độ cộng sản, nhà nước và vai trò của nó cũng không chỉ là các cơ quan chuyên chính và không đồng nhất với những cơ quan này. Khi nhà nước như một cách tổ chức đời sống của nhân dân, của xã hội, chịu phục tùng các cơ quan chuyên chính nghĩa là nhà nước nằm trong nhà nước. Chế độ cộng sản không thể giải quyết được mâu thuẫn đó vì tính toàn trị của nó luôn luôn xung đột với những xu hướng khác, trái ngược hoàn toàn với sự áp chế mà các chức năng khác của nhà nước có thể đảm nhiệm.

Mâu thuẫn này cùng với việc người cộng sản luôn luôn coi nhà nước là và chỉ là cơ quan chuyên chính đã dẫn đến kết quả là nhà nước cộng sản không thể trở thành nhà nước pháp quyền, nghĩa là nhà nước với toà án không phụ thuộc vào chính quyền, còn pháp luật thì được tôn trọng trên thực tế.

Hệ thống không chấp nhận một nhà nước như thế. Ngay cả khi các lãnh tụ cộng sản muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì họ cũng không thực hiện được vì nó sẽ là mối đe doạ đối với chế độ toàn trị của họ.

Sự độc lập của toà án và thượng tôn pháp luật nhất định sẽ dẫn tới đối lập. Không có điều luật nào của cộng sản cấm, thí dụ, tự do tư tưởng hay tự do lập hội. Trên cơ sở các nguyên tắc độc lập của toà án, luật pháp phải đảm bảo các các quyền tự do công dân khác nữa.

Nhưng trên thực tế những điều đó chưa bao giờ được thực hiện.

Công nhận về mặt hình thức các quyền tự do công dân, chế độ cộng sản lại đặt ra điều kiện tiên quyết: chỉ được sử dụng các quyền ấy vì mục đích của “chủ nghĩa xã hội” mà các lãnh tụ cổ xuý, nghĩa là ủng hộ cho quyền lực của họ.

Tương tự như vậy, không thể nào tách quyền lực của cảnh sát khỏi quyền lực của tư pháp. Người ra lệnh bắt giam, khởi tố trên thực tế cũng là người nắm quyền kết án và thi hành án. Một vòng tròn khép kín: chính quyền hành pháp và lập pháp chỉ là một, các cơ quan điều tra, xét xử và trừng phạt cũng là một nốt.

Thế thì tại sao chuyên chính cộng sản lại cần pháp luật ? Tại sao họ lại che đậy bằng sự tuân thủ pháp luật?

Ngoài lí do chính trị, lí do tuyên truyền, nếu chế độ muốn tồn tại nó phải đảm bảo tính pháp lí cho những kẻ mà nó dựa vào, nghĩa là tính pháp lí cho giai cấp mới.

Luật pháp bao giờ cũng được soạn thảo vì nhu cầu và quyền lợi của đảng tức là của giai cấp mới. Về mặt hình thức, pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, cộng sản luôn bị đau đầu vì trò chơi luật pháp do chính họ viết ra, nhưng rồi lại bị họ phủ nhận ngay khi cần. Sau một thời gian, khi đã nhận ra nguyên nhân “đau khổ” của mình, để đơn giản hoá trò chơi pháp luật họ thường sáng tác ra những luật lệ “vá víu” có thể giải thích thế nào cũng được.

Thí dụ, ở Nam Tư luật ghi rằng không thể kết án một người nếu hành vi của người đó không được xác định rõ ràng theo các khung pháp lí. Nhưng đa số các vụ án chính trị lại được thực hiện trên cơ sở gọi là “truyên truyền xuyên tạc”. Người ta không dựa vào luật để giải thích khái niệm này, nó được trao cho các quan toà với lực lượng cảnh sát mật đứng đằng sau.

Vì vậy mà các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù hợp với yêu cầu của những kẻ nắm quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện hành.

Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo.

Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản. Phần lớn các phiên tòa khác cũng đều như vậy, đấy là nói những hành động cụ thể và bản án. Những vụ án chính trị ở Nam Tư chỉ là phiên bản "bỏ túi" của những vụ án ở Moskva mà thôi.

Các vụ án chính trị được dàn dựng như thế nào?

Đầu tiên, cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Trong chế độ cộng sản, đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến. Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng phạt họ.

Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản thanh toán những người chống đối không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì họ là những phần tử chống đối. Vì vậy, có thể nói: đa số tù nhân chính trị thực chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ không phải là tội phạm. Nhưng cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó.

Khi có các cuộc nổi dậy của quần chúng, chính quyền cộng sản đã thẳng tay đàn áp mà không cần để ý đến tính hợp hiến và hợp pháp của những hành động đó. Lịch sử hiện đại chưa từng biết những vụ đàn áp dã man, phi nhân và phi pháp đến như thế. Vụ đàn áp ở Poznan gây nhiều tai tiếng nhưng chưa phải là vụ đẫm máu nhất. Quân đội chiếm đóng cũng như chính quyền thuộc địa dù là người ngoài, dù hành động theo những biện pháp khẩn cấp cũng ít khi sử dụng những biện pháp dã man như thế. Những nhà cầm quyền cộng sản đã chà đạp pháp luật và tiến hành khủng bố ngay chính nhân dân nước mình.

Ngay trong những vấn đề không liên quan gì đến chính trị, luật pháp cũng thường bị vi phạm. Giai cấp toàn trị vẫn hàng ngày hàng giờ can thiệp cả vào những lĩnh vực này.

Bài báo ngắn trên tờ Politics (Chính trị) được trích dẫn dưới đây đủ nói lên vai trò và vị trí của toà án ở Nam Tư, nơi luật pháp nói chung được tôn trọng hơn so với các nước cộng sản khác.

Trong cuộc hội thảo kéo dài hai ngày dưới sự chủ trì của công tố viên liên bang, đồng chí Brana Evremovich, khi thảo luận các vấn đề liên quan đến tội phạm kinh tế, các công tố viên các nước cộng hoà và hai tỉnh Voevodin và Belgrad đều nhất trí cho rằng muốn ngăn chặn hữu hiệu các tội phạm kinh tế cần phải kiên quyết và sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan kinh tế và tất cả các tổ chức chính trị…

Mọi người đều nhất trí rằng cho đến nay xã hội chưa phản ứng đúng mức đối với các loại tội phạm kinh tế…

Các công tố viên đều cho rằng xã hội cần phản ứng một cách hữu hiệu hơn nữa. Họ cho rằng cần phải xử lí nghiêm khắc về mặt pháp luật, bên cạnh những biện pháp hành chính khác….

Những sự kiện được dẫn ra trong các báo cáo đã chứng minh một cách thuyết phục rằng các lực lượng bị thất bại trên trường chính trị đang cố gắng báo thù trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy vấn đề tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vấn đề pháp lí mà còn là vấn đề chinh trị, đòi hỏi sự phối hợp của công tố với các cơ quan chính quyền và tổ chức xã hội…

Tổng kết buổi thảo luận, công tố liên bang, đồng chí Brana Evremovich, nhắc lại rằng cần phải tuân thủ pháp luật cũng như sự nghiêm khắc mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao đã phê phán những cá nhân phạm các tội về kinh tế.”

Như vậy là, các công tố viên đã quyết định đường lối xử án cho các quan tòa và hình phạt phải tuân theo chỉ đạo của “lãnh đạo cấp cao”.

Sự độc lập của toà án và tinh thần thượng tôn pháp luật ở đâu?

Trong chế độ cộng sản, lí thuyết về pháp luật được cải biến theo hoàn cảnh và nhu cầu của nhóm chóp bu nắm quyền. Hình phạt theo nguyên lí của Vishinsky phải được quyết định trên “nguyên tắc đích xác”, nghĩa là không được để cho các tính toán chính trị làm ảnh hưởng đến quyết định của toà. Nhưng cho dù người ta có áp dụng các nguyên lí nhân bản và khoa học hơn thì thực chất vẫn không thay đổi nếu quan hệ giữa chính quyền, bộ máy tư pháp và luật pháp vẫn giữa nguyên như trước. Trong những chiến dịch nhằm “củng cố tính pháp lí” hay những lời lẽ huênh hoang của Khrushchev rằng “bây giờ”đảng đã kiểm soát được cảnh sát và bộ máy tư pháp chỉ chứng tỏ rằng giai cấp mới cần sự an toàn về mặt pháp lí chứ không phải là sự thay đổi quan điểm của giai cấp cầm quyền đối với xã hội, nhà nước, tòa án và pháp luật.


6.

Hệ thống pháp luật cộng sản không thể thoát khỏi bệnh hình thức, vai trò của các tổ chức đảng và cảnh sát trong thủ tục tố tụng cũng rõ ràng như trong hệ thống bầu cử và các lĩnh vực khác. Thế vẫn chưa hết. Càng lên cao thì sự thượng tôn pháp luật càng có tính cách trang trí và ảnh hưởng của chính quyền đối với bộ máy tư pháp và các cuộc bầu bán càng tăng.

Mọi người đều biết sự trống rỗng và phô trương của các cuộc bầu cử dưới chế độ cộng sản, Clement Rechard Attlee gọi một cách khôi hài là: “cuộc đua một ngựa”. Tôi nghĩ rằng cũng cần thảo luận về việc tại sao những người cộng sản lại cần những cuộc bầu bán không hề có ý nghĩa gì đối với việc phân bố lực lượng, cũng như tại sao họ lại cần cái quốc hội khá tốn kém mà chẳng được tích sự gì.

Ngoài lí do tuyên truyền, lí do đối ngoại và những lí do khác tương tự, có một việc mà không chính quyền nào, kể cả chính quyền cộng sản có thể bỏ qua, đấy là mọi sự đều phải được hợp pháp hoá. Trong điều kiện hiện nay thì hợp pháp hoá là thông qua các đại diện dân cử. Nhân dân có trách nhiệm ủng hộ mọi quyết định của những người cộng sản, dù chỉ là hình thức.

Bên cạnh đó còn một nguyên nhân sâu xa nữa giải thích lí do vì sao các lãnh tụ cộng sản lại phải “nuôi” quốc hội: các chính sách của chính phủ-giới chóp bu của giai cấp mới phải được giới chức đảng ủng hộ. Không cần quan tâm tới dư luận xã hội, nhưng tất cả các chính phủ cộng sản đếu phải quan tâm tới dư luận trong đảng, dư luận trong các đảng viên cộng sản.

Đấy là lí do vì sao bầu cử chẳng có ý nghĩa gì nhưng việc chọn người lại được các cấp lãnh đạo thực hiện một cách vô cùng thận trọng. Hàng loạt khía cạnh được cân nhắc: đóng góp, vai trò và chức năng trong xã hội, nghề nghiệp, vv... Đối với lãnh đạo thì các cuộc bầu cử có ý nghĩa rất lớn vì họ có thể xếp bên cạnh mình những lực lượng mà họ coi là có giá trị, cũng có nghĩa là tạo cho chính mình tính hợp pháp trước đảng, trước giai cấp và nhân dân.

Những thử nghiệm nhằm đưa hai ba ứng viên cho một ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử quốc hội đều thất bại. Nam Tư đã tiến hành các cuộc bầu cử như vậy, nhưng sau đó đã bị lãnh đạo gán cho nhãn “chia rẽ”. Có những tin tức nói rằng tại các nước Đông Âu cũng đang tiến hành việc có nhiều ứng viên cho một ghế đại biểu. Giả sử chuyện đó có xảy ra thì tôi cho rằng khả năng thành công là rất thấp, mặc dù đây là một bước tiến hay có thể nói là sự khởi đầu của quá trình dân chủ hoá. Tôi nghĩ rằng Đông Âu rồi cũng đi theo mô hình “tự quản” của Nam Tư chứ chưa thể dẫn đến quá trình dân chủ hoá hoặc phân hoá trong hàng ngũ đảng cầm quyền được. Hạt nhân chuyên chế nhận thức được rằng nó sẽ gặp nhiều rắc rối nếu không giữ vững sự thống nhất truyền thống và vì vậy vẫn nắm giữ chặt quyền điều khiển. Mọi sự tự do, kể cả tự do trong đảng, đe doạ không chỉ quyền lực của các lãnh tụ mà đe doạ ngay chính chế độ toàn trị.

Quốc hội cộng sản không chỉ không đưa ra các quyết sách quan trọng, thực ra nó không có khả năng làm việc đó. Biết trước rằng sẽ được bầu, hả hê vì được tham gia vào toàn bộ tiến trình kể từ lúc lập danh sách ứng viên, các đại biểu, dù có muốn cũng không có sức lực và dũng khí để có thể tranh luận. Hơn nữa họ được uỷ quyền không phải bởi cử tri cho nên họ cũng không phải chịu trách nhiệm với cử tri. Họ chỉ có mỗi một quyền là thỉnh thoảng lại ủng hộ một trăm phần trăm những quyết định đã được giải quyết sau hậu trường. Hệ thống cũng cần chính một quốc hội như thế, cho nên nếu có trách thì chỉ trách là nó quá tốn kém và vô tích sự.

7.

Nhà nước cộng sản được xây dựng trên cơ sở bạo lực và đàn áp, luôn luôn xung đột với nhân dân, cho nên ngay cả khi không có tác nhân bên ngoài, nó vẫn là một bộ máy nhà nước quân phiệt. Không ở đâu sự tôn sùng sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh quân sự, lại được đề cao như trong các nước cộng sản. Chủ nghĩa quân phiệt là nhu cầu nội tại của giai cấp mới, là một trong những hình thức tồn tại của nó và đồng thời cũng là tác nhân củng cố đặc quyền đặc lợi của nó.

Là một tổ chức mang tính bạo lực, và khi cần thì chỉ thực hiện vai trò bạo lực, nhà nước cộng sản ngay từ đầu đã là một nhà nước quan liêu. Hoàn toàn phụ thuộc vào một nhóm nhỏ những kẻ cầm quyền chóp bu, cơ quan nhà nước, không ở đâu bằng chế độ cộng sản, tràn ngập đủ các thứ văn bản pháp qui. Ngay từ khi vừa xuất hiện nó, đã lập tức tạo ra một khối lượng văn bản pháp qui nhiều đến nỗi các luật sư và quan toà bị ngập lụt. Ngay những việc tầm phào nhất cũng phải được phê duyệt, mặc dù trên thực tế chẳng có ý nghĩa gì. “Tác phẩm” của các nhà làm luật cộng sản thường có động cơ chính trị và vì vậy mà bỏ qua hiện thực của đời sống. Chìm trong những công thức pháp lí “xã hội chủ nghĩa” trừu tượng, lại không bị các lực lượng đối lập phê phán, họ đã “nhốt” cuộc sống sinh động vào những điều khoản cứng nhắc. Và tất cả đều được quốc hội thông qua.

Nhưng chủ nghĩa quan liêu cộng sản lại không hề ảnh hưởng đến nhu cầu và cách thức làm việc của các lãnh tụ cộng sản. Giới cầm quyền chóp bu của nhà nước, cũng là của đảng, ít khi chịu tự giới hạn bởi các nguyên tắc. Trong tay nó là chính sách, là các quyết định mang tính chính trị, không thể chờ đợi và không chịu bất kì giới hạn nào. Chính những người sáng lập ra bộ máy quan liêu nhất và tập trung nhất lại không phải là những người quan liêu hoặc chịu tự giới hạn bởi các tiêu chuẩn pháp lí nào. Stalin không quan liêu. Tito cũng thế. Vì vậy các văn phòng của các lãnh tụ cộng sản thường rất lộn xộn và cẩu thả.

Điều đó cũng không ngăn cản các “ông chủ” thỉnh thoảng lại tổ chức các phong trào “đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu” nghĩa là chống lại sự cẩu thả và chậm trễ của bộ máy hành chính. Nhưng đây không phải là ý định loại bỏ chủ nghĩa quan liêu thực sự đã ăn sâu, bén rẽ vào xã hội mà bản chất của nó là sự phụ thuộc toàn diện của đời sống xã hội vào bộ máy chính trị.

Các lãnh tụ cộng sản thường nhắc đến Lenin khi tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu.

Nhưng nếu nghiên cứu kĩ Lenin thì ta sẽ thấy ông không thể nào tiên đoán được rằng bộ máy quan liêu sẽ nuốt chửng hệ thống mới. Khi chạm trán với sự quan liêu, một phần là sản phẩm của chế độ do Sa Hoàng để lại, ông cho rằng tai hoạ là do “không có bộ máy gương mẫu gồm toàn những người cộng sản hoặc những người đã học qua trường đảng” . Dưới thời Stalin, những quan chức cũ đã không còn, chỉ còn “toàn” đảng viên cộng sản nhưng tệ quan liêu thì lại tăng lên. Ngay ở Nam Tư, nơi tệ quan liêu có ít hơn, nhưng bản chất của nó, nghĩa là sự độc quyền chính trị và các quan hệ do độc quyền này tạo ra thì vẫn vững như bàn thạch.

Nhà nước cộng sản, đúng hơn phải nói chính quyền, tìm mọi các để phi cá tính hoá không những từng người mà còn toàn thể dân tộc, thậm chí phi cá tính hoá ngay chính những người bảo vệ chế độ. Người ta định biến cả dân tộc thành một nòi quan chức. Tiền lương, diện tích nhà ở và nói chung, tất cả nhu cầu về vật chất như tiền lương, nhà ở và thậm chí hoạt động tinh thần đều được phân phối, đều bị kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự phân biệt không chỉ theo tiêu chuẩn là viên chức hay không (tất cả đều là viên chức) mà theo mức lương và đủ mọi loại ưu tiên ưu đãi khác. Sau khi tập thể hoá thì ngay tầng lớp nông dân cũng ngày càng bị lôi kéo vào tổng liên đoàn những kẻ quan liêu.

Nhưng đấy chỉ là bề ngoài. Trong hệ thống cộng sản, các nhóm xã hội được phân chia một cách cực kì rạch ròi. Nhưng mặc dù có những mâu thuẫn và khác biệt như thế xã hội cộng sản vẫn là xã hội cố kết hơn bất kì xã hội nào khác. Điểm yếu của sự cố kết này chính là tính chất cưỡng chế và mâu thuẫn của nó. Nhưng tất cả các bộ phận của nó lại phụ thuộc lẫn nhau, không khác gì các chi tiết của một cỗ máy khổng lồ.

Giống như mọi chế độ chuyên chế khác, chính quyền cộng sản coi cá nhân chỉ như là một đơn vị trừu tượng. Trong chế độ chuyên chế, những người thuộc phái trọng thương đã đẩy nền kinh tế vào sự bảo trợ hoàn toàn của nhà nước, còn chính nhà vua (thí dụ Ekaterina) thì cho rằng nhà nước có trách nhiệm cải tạo các thần dân của mình. Các lãnh tụ cộng sản cũng tư duy theo cách ấy. Nhưng dưới chế độ chuyên chế, chính quyền chỉ cải tạo về tư tưởng các chủ sở hữu, còn bây giờ, trong chế độ cộng sản, chính quyền vừa là chủ sở hữu vừa là nhà tư tưởng. Nhưng điều đó không có nghĩa là cá tính đã biến mất, hay con người đã trở thành một chiếc đinh ốc vô hồn di chuyển theo quyết định của một mụ phù thuỷ toàn năng trong lòng của bộ máy to lớn nhưng vô hồn của nhà nước. Con người vừa có xu hướng tập quần, vừa có xu hướng cá nhân cho nên ngay cả trong hệ thống này nó vẫn tìm mọi cách bảo vệ cá tính mình. Chưa bao giờ cá tính con người lại bị đè nén đến như thế cho nên nó phải thể hiện bằng những cách khác.

Thế giới của cá nhân đã trở thành thế giới của những lo toan thường nhật, không có tương lai nào. Nhưng những lo toan thường nhật đó cũng luôn luôn đụng độ với hệ thống, một hệ thống muốn đè bẹp tất cả nhu cầu vật chất và tinh thần của con người nên ngay cái thế giới nhỏ bé đó của cá nhân cũng không được tự do, không được bảo vệ. Trong chế độ cộng sản, cá nhân buộc phải học được cách sống mà không có bất kì sự đảm bảo nào. Nếu nó chịu khuất phục thì nhà nước sẽ để cho nó lay lắt qua ngày. Nó luôn bị giằng xé giữa ước muốn và khả năng. Nó phải phục tùng quyền lợi tập thể, nhưng cũng như trong mọi hệ thống khác nó luôn luôn chống đối các đại diện độc đoán của tập thể. Đa số công dân của chế độ cộng sản không chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng họ bất bình cách thực hiện, thực ra những người cộng sản đâu có xây dựng chủ nghĩa xã hội cho nên từng thần dân của họ phải bất bình với những hạn chế không phải vì quyền lợi của toàn xã hội mà chỉ nhân danh quyền lợi của nhóm đương quyền.

Những người thuộc các hệ thống khác không thể nào hiểu được vì sao các dân tộc dũng cảm và đầy tự hào lại có thể chấp nhận để người ta tước đoạt tự do tư tưởng và tự do lao động kiếm sống. Cách giải thích khá chính xác và đơn giản: bộ máy đàn áp dã man và bao trùm lên tất cả. Nhưng còn có những nguyên nhân khách quan sâu sắc hơn.

Một trong những nguyên nhân đó, nguyên nhân lịch sử, đã được chúng tôi nói tới: khao khát cải tạo nền kinh tế đã buộc nhân dân phải chấp nhận mất tự do.

Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân trí dục và đức dục. Ước mơ chủ nghĩa xã hội-chủ nghĩa cộng sản, ước mơ đạt được mức sống lí tưởng, niềm hi vọng, sự phấn khích có thể nói sánh ngang với niềm phấn khích tôn giáo không chỉ đối với những người cộng sản mà cho cả một bộ phận dân chúng nữa. Trong quan niệm của đa số người không thuộc các giai cấp cũ thì việc vùng dậy có tổ chức nhằm chống lại chính quyền, chống lại đảng đồng nghĩa với sự phản bội tổ quốc, phản bội những lí tưởng cao đẹp nhất.

Phong trào đối lập có tổ chức không thể xuất hiện trong các chế độ cộng sản dĩ nhiên là do tính chất bao trùm, tính chất toàn trị của các nhà nước đó. Tính chất toàn trị thâm nhập vào mọi tế bào của xã hội, vào từng cá nhân, vào những công trình nghiên cứu của các nhà bác học, vào cảm hứng của các thi sĩ, vào ước mơ của các đôi tình nhân. Chống lại nó không chỉ có nghĩa là tự đưa mình đến giá treo cổ mà còn chuốc lấy sự khinh bỉ và né tránh. Không một chút ánh sáng nào, không một chút khí trời nào có thể lọt vào được dưới gót sắt của nó.

Cả hai phong trào đối lập, sinh ra từ các giai cấp cũ và xuất hiện ngay trong lòng chế độ cộng sản đều không có khả năng tạo ra được đường lối đấu tranh. Đại diện của phong trào thứ nhất sẽ biến mất, còn đại diện của phong trào thứ hai thì quay ra phê phán chế độ bằng những thuật ngữ giáo điều vô nghĩa lí. Điều kiện cho những con đường mới chưa xuất hiện.

Bên cạnh đó, nhân dân, bằng bản năng của mình, đã phát hiện ra các phương pháp khác, họ luôn phản kháng, ngay cả chỉ vì những tiểu tiết. Phong trào phản kháng này chính là mối đe doạ cụ thể nhất, lớn nhất đối với chế độ. Các lãnh tụ cộng sản không biết nhân dân đang nghĩ gì, muốn gì. Biết rằng lòng dân không yên, họ không thể tự tin như xưa nữa.

Nếu lịch sử chưa từng thấy một hệ thống nào có thể vô hiệu hoá những người chống đối như chế độ chuyên chính vô sản thì nó cũng chưa từng thấy một trật tự xã hội nào lại bị người dân chối bỏ đến như thế. Có vẻ như lương tâm càng bị cầm tù và khả năng cho những hành động có tổ chức càng bị giới, hạn quần chúng càng thêm ta thán, oán ghét.

Toàn trị cộng sản đưa tới oán cừu toàn diện, mọi tình cảm của con người đều bị nung cháy trong ngọn lửa oán hận đó, chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng và lòng hận thù.

Sự chống đối một cách tự phát, từng ngày từng giờ, bùng lên vì những “việc vặt” của hàng triệu người là hình thức phản kháng mà cộng sản không thể nào dập tắt được. Có thể thấy điều đó ngay trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Có cơ sở để tin rằng tinh thần chiến đấu của người Nga không phải đã cao đến thế ngay khi quân Đức tràn vào Liên Xô. Nhưng Hitler đã để lộ mục đích: tiêu diệt nhà nước Nga và biến tất cả người Slav thành nô lệ. Chỉ khi đó lòng yêu nước sâu xa không gì dập tắt được mới bùng dậy. Trong suốt cuộc chiến tranh, Stalin không một lần nào nhắc tới chính quyền Xô Viết hay chủ nghĩa xã hội, ông ta chỉ dùng danh từ Tổ quốc. Người ta sẵn sàng chết vì tổ quốc ngay cả khi bên cạnh đó là chủ nghĩa xã hội của Stalin.

8.

Các chế độ cộng sản đã giải quyết được nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề dân tộc, mà những chế độ trước đó phải bó tay. Nhưng họ không thể giải quyết được hoàn toàn vấn đề dân tộc. Vấn đề này đã tái xuất hiện, dưới hình thức mới và nghiêm trọng hơn.

Bá quyền dân tộc ở Liên Xô đã được thiết lập thể hiện qua bộ máy quan liêu có nhiều cành nhánh và thông qua những đại diện của dân tộc được coi là hiện thân của chế độ. Nhưng ở Nam Tư, đã xảy ra những cuộc tranh cãi vì mâu thuẫn giữa những bộ máy quan liêu của các dân tộc khác nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, đây không phải là mâu thuẫn dân tộc theo nghĩa cũ. Cộng sản vốn không phải là những người dân tộc chủ nghĩa, đối với họ, chủ nghĩa dân tộc chỉ là một trong những biện pháp nhằm củng cố sức mạnh mà thôi. Khi cần, họ có thể trở thành những người sô-vanh cực đoan nhất. Stalin, một người Georgia, nhưng trong thực tế và tuyên truyền, khi cần ông ta có thể trở thành một người Đại Nga điên cuồng nhất. Ngay cả Khrushchev cũng phải công nhận rằng một trong những sai lầm của Stalin là ông ta đã tiêu diệt toàn bộ một số sắc dân. Stalin và phe nhóm của ông ta đã lợi dụng thành kiến dân tộc của người Nga – dân tộc lớn nhất – như thể đấy là những người Hottentot vậy. Các lãnh tụ cộng sản sẽ luôn luôn tìm cách sử dụng tất cả những biện pháp mà họ cho là có lợi, kể cả giáo lí về quyền bình đẳng giữa bộ náy quan liêu của những dân tộc khác nhau, mà theo họ là tương đồng với quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Nhưng quyền lợi dân tộc và tình cảm dân tộc không phải là nền tảng của xung đột giữa các bộ máy quan liêu của các dân tộc trong trong chế độ cộng sản. Có thể có một chút gì đó, nhưng nguyên nhân chính nằm ở chỗ khác: quyền uy tối thượng trong khu vực của mình, trong khu vực mình cai quản. Cuộc đấu tranh vì uy tín và quyền lực của nước cộng hòa “của mình” thường không vượt quá ước mong củng cố quyền lực của chính mình. Các đơn vị nhà nước cộng sản cũng chẳng có ý nghĩa gì hơn là khu vực quản lí lấy ngôn ngữ làm cơ sở. Các quan chức cộng sản là những nhà yêu nước nhiệt thành đơn vị nắm dưới quyền cai quản của mình, ngay cả khi những khu vực đó không được chia theo ngôn ngữ hay chủng tộc. Trong một số đơn vị hành chính ở Nam Tư (hội đồng khu vực), tinh thần sô-vanh còn cao hơn cả chính phủ các nước cộng hòa.

Ở một số đảng viên cộng sản người ta có thể thấy cả chủ nghĩa sô-vanh thiển cận lẫn sự suy thoái về ý thức dân tộc. Tất cả phụ thuộc vào cơ hội và nhu cầu.

Khó có thể gọi ngôn ngữ mà cộng sản dùng là ngôn ngữ của chính người dân nước họ. Vẫn là những từ ngữ đó, nhưng câu cú, khái niệm và ý tứ bên trong – tất cả đều có tính đặc thù, tính cộng sản.

Là những người có thái độ nghi ngờ với những hệ thống khác và trung thành tuyệt đối với hệ thống của mình, người đảng viên cộng sản có thể trở thành những người quốc tế chủ nghĩa nhiệt thành, đấy là nói khi quyền lợi của họ đòi hỏi như thế.

Những dân tộc khác nhau, có thời từng là những dân tộc độc đáo, có lịch sử và những kì vọng riêng của mình thì nay đã trở thành những dân tộc bất động, thiếu sinh khí và chán nản, bị đè bẹp dưới gót giày của những ông trùm đầy quyền lực, biết tuốt – thực chất là những kẻ chẳng thuộc về dân tộc nào. Cộng sản không thể khuyến khích được tinh thần dân tộc. Theo nghĩa này, họ không giải quyết được vấn đề dân tộc. Hiện nay ai còn biết tên các nhà văn hay chính khách người Ukraine? Cái dân tộc lớn bằng Pháp và có thời từng là dân tộc tiến bộ nhất của nước Nga đã gặp chuyện gì vậy? Có cảm tưởng bên dưới bộ máy đàn áp phi cá tính đó, đấy chỉ còn là một đám đông chẳng có hình dạng gì.

Nhưng không phải thế.

Cá tính của con người, các giai cấp xã hội và ý tưởng tiếp tục sống, các dân tộc thì cũng thế; các dân tộc tiếp tục hoạt động, tiếp tục đấu tranh chống lại chế độ độc tài. Và tiếp tục giữ được bản sắc riêng của mình. Vâng, tinh thần và linh hồn của dân tộc đã bị đàn áp, nhưng không bị bẻ gẫy. Bị khuất phục, nhưng họ không đầu hàng. Không phải là chủ nghĩa dân tộc xưa cũ, chủ nghĩa dân tộc tư sản mà là ước muốn được là chính mình, và bằng con đường phát triển riêng của mình mà trở thành thành viên bình đẳng trong cộng đồng nhân loại đang khuyến khích họ.

No comments:

Post a Comment