January 29, 2016

Milovan Djilas - Giai cấp mới (Kì 11)

Milovan Djilas

Milovan Djilas (1911-1995)

Giai cấp mới

Phạm Nguyên Trường dịch


Mục đích và phương tiện


1.

Các nhà cách mạng và các cuộc cách mạng không bao giờ từ chối sử dụng các biện pháp vũ lực và đàn áp.

Nhưng chưa có cuộc cách mạng nào, chưa có nhà cách mạng nào lại sử dụng bạo lực một cách có ý thức, đưa bạo lực thành hoàn thiện, thành công việc thường ngày như những người cộng sản.

“Không được lựa chọn phương tiện trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của chế độ...hãy đàn áp tất cả những ai không có ích, không giúp gì cho nước cộng hoà”. Dường như đấy không phải là những lời của Saint-Just mà được phát ra từ miệng lưỡi các lãnh tụ cộng sản đương đại vậy. Nhưng Saint-Just nói những lời này khi ngọn lửa cách mạng đang hừng hực cháy, khi lòng ông tràn ngập nỗi đau cho số phận của cách mạng, còn cộng sản thì khẳng định điều đó trong suốt cuộc hành trình, từ khi bước ra vũ đài chính trị cho đến lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực và bắt đầu tan rã.

Mặc dù bạo lực cộng sản bao trùm hơn, kéo dài hơn, dã man hơn nhưng có thể nói rằng ngay trong cách mạng họ thường biết lựa chọn phương tiện hơn là các đối thủ của mình. Nhưng sau cách mạng thì phương pháp của họ, tuy ít đẫm máu hơn, nhưng càng ngày lại càng phi nhân hơn.

Nếu không kể đến hoàn cảnh lịch sử, chủ nghĩa cộng sản, cũng như bất kì phong trào chính trị-xã hội nào, cũng buộc phải sử dụng một loạt các biện pháp (chính trị là chính trị) phù hợp với quyền lợi và phân bố lực lượng trong xã hội, bất kể lí lẽ, bất kể đạo đức.

Ở đây chúng ta chỉ xem xét những biện pháp làm cho chủ nghĩa cộng sản hiện đại khác biệt với các phong trào chính trị xã hội khác, tuỳ hoàn cảnh, có thể dã man hơn, phi nhân hơn hay nhân đạo hơn các phong trào kia. Cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta chỉ quan tâm tới sự khác biệt, tính đặc thù của các biện pháp được cộng sản sử dụng, nghĩa là chỉ quan tâm tới sự khác biệt giữa cộng sản và các phong trào khác, không cần biết đấy là có phải là phong trào cách mạng hay không.

Ta có thể nói ngay rằng sự dã man không phải là điểm “khác biệt” của các biện pháp cộng sản. Dã man là điều dễ thấy, nhưng không phải là điểm khác biệt chủ yếu. Phong trào đặt cho mình nhiệm vụ khó khăn như thế - bằng bạo lực thay đổi toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn xã hội - nhất định phải sử dụng các biện pháp dã man. Nhưng các phong trào cách mạng trước đó cũng đã buộc phải làm như vậy hay buộc phải tiến đến cách làm như vậy. Tiến đến nhưng không thành: giai đoạn bạo lực của họ không thể kéo dài. Và không thể toàn diện như bạo lực cộng sản: hoàn cảnh không cho phép.

Cũng không thể cho rằng cộng sản áp dụng các biện pháp ấy là do họ là những người không có các nguyên tắc đạo đức nhất định.

Những người cộng sản, ngoài việc là cộng sản, họ cũng là những con người bình thường, trong giao tiếp với những người khác họ buộc phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức của cộng đồng. Chân không đạo đức của họ không phải là nguyên nhân mà là kết quả của những biện pháp mà họ áp dụng. Trên nguyên tắc, cũng như trên lời nói, cộng sản luôn luôn tỏ ra là những chiến sĩ đấu tranh kiên cường để bảo vệ đạo đức và chủ nghĩa nhân đạo. Đôi khi họ có vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức của mình thì cũng chỉ là do hoàn cảnh bắt buộc. Nếu không phải làm như vậy thì sẽ tốt biết bao, họ vẫn thường nói như thế. Về điểm này, họ cũng gần giống với các phong trào kia, nếu có khác thì chính tính chất phi nhân của họ được thể hiện dưới những hình thức phải gọi là quái gở và kéo dài hơn mà thôi.

Các biện pháp bạo lực chính là những chỉ dấu phân biệt rõ nhất cộng sản với các phong trào chính trị khác. Điều kiện lịch sử và nhiệm vụ mà phong trào cộng sản muốn giải quyết là nguồn gốc của những biện pháp ấy.

Có một sự khác biệt căn bản mà mới nhìn người ta có thể cho rằng chủ nghĩa cộng sản có những nét tương đồng với những giáo phái trong quá khứ.

Đấy là những mục đích “lí tưởng”, người cộng sản có thể áp dụng mọi thủ đoạn nhân danh những mục đích ấy. Thêm nữa, thủ đoạn lại ngày càng trắng trợn hơn khi mục đích “lí tưởng” ngày càng xa vời hơn.

Nếu trong quá trình cách mạng, cộng sản phải sử dụng những biện pháp mà đối thủ cũng như tiến trình đấu tranh bắt buộc phải làm như thế, thì sau khi đã nắm được chính quyền, sau khi đã tiêu diệt được những kẻ thù trực tiếp, việc tiếp tục sử dụng những biện pháp đó, thậm chí những biện pháp đàn áp dã man hơn vì “lí tưởng” như “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản”, “quyền lợi của giai cấp công nhân và của toàn thể nhân dân lao động” là điều không những không thể biện hộ được về mặt đạo đức mà còn chứng tỏ họ là những kẻ bất lương và tham quyền tàn nhẫn. Các giai cấp cũ, đảng phái cũ, hình thức sở hữu cũ đã không còn hoặc đã bị vô hiệu hoá, không thể kháng cự, nhưng biện pháp thì vẫn như cũ. Hơn nữa, chỉ đến lúc này việc sử dụng chúng mới thể hiện rõ tính phi nhân của toàn bộ hệ thống.

Tính chất bất nhân của các biện pháp đàn áp của Stalin đạt đỉnh điểm chính trong quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội”. Khi tuyên bố quyền lợi của mình là mục đích tối thượng mà xã hội nhất định phải tiến tới, khi đã tạo được cho mình sự độc quyền trong lĩnh vực tinh thần cũng như các lĩnh khác, giai cấp mới tìm mọi cách hạ thấp giá trị của phương tiện. Họ thường tuyên bố: “Quan trọng là mục đích, phương tiện chỉ là thứ yếu”. “Điều quan trọng là chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, những việc khác rồi sau sẽ hay”, cộng sản thường biện hộ cho những hành động tội lỗi đê tiện của mình như thế đấy.

Mục đích biện minh cho mọi phương tiện, mà phương tiện ở đây chính là đảng. Đảng ngồi trên đầu trên cổ xã hội, giống như nhà thờ Trung cổ, đảng biện minh cho chính mình.

“Khi gặp nguy hiểm nhà thờ vứt bỏ hết mọi lời răn. Coi sự thống nhất là mục đích, nó đã dùng mọi phương tiện: lừa dối, phản bội, đàn áp, mua quan bán tước, nhà tù và án tử hình. Vì mọi chế độ đều nhân danh những mục đích chung nào đó và cá nhân phải hi sinh cho sự nghiệp chung” (Dithrich Fon Nikhaim, Giám mục xứ Verden).

Câu này như được phát ra từ miệng lưỡi của một trong những lãnh tụ cộng sản vậy.

Mặc dù chủ nghĩa cộng sản đương đại khá giống với chủ nghĩa phong kiến (thí dụ, giáo điều đến mức cuồng tín) nhưng chúng ta không sống trong thời Trung cổ và cộng sản cũng không phải nhà thờ.

Bề ngoài, cộng sản giống với nhà thờ Trung cổ vì cả hai đều có tham vọng độc quyền về tư tưởng và cả các lĩnh vực khác, cả hai đều áp dụng cùng một biện pháp “tác động”. Nhưng thực chất thì đây là hai hiện tượng khác nhau. Nhà thờ chỉ nắm một phần quyền lực và sở hữu; trong trường hợp xấu nhất, nó cũng chỉ đòi độc quyền trong lĩnh vực tinh thần nhân danh hệ thống xã hội đương thời. Những kẻ dị giáo thường bị truy bức nhân danh đức tin chứ không nhằm một lợi ích cụ thể nào vì lúc đó người ta cho rằng thân thể kẻ dị giáo có bị giết đi thì tâm hồn tội lỗi của hắn mới được cứu rỗi, nghĩa là mọi phương tiện trần thế đều có thể được sử dụng nhân danh thiên đường.

Trong khi đó, tham vọng của cộng sản là quyền lực trực tiếp, là chiếm và giữ chính quyền nhà nước. Và cả quyền lực trong lĩnh vực tinh thần nữa, sự truy bức nhân danh “đức tin” chỉ là biện pháp phụ trợ để củng cố quyền lực mà thôi. Khác với các cố đạo, cộng sản không phải là điểm tựa của chế độ, họ chính là “hiện thân” của quyền lực.

Nói tất cả những điều này để thấy rằng vì sao người cộng sản về lí thuyết không phải là những người sử dụng các phương tiện một cách bừa bãi, nhưng trên thực tế, họ lại phản bội chính những nguyên tắc của mình . Vì giai cấp mới không xuất hiện như một hiện tượng nhất thành bất biến mà biến đổi từ lực lượng cách mạng thành giai cấp hữu sản và phản động, nghĩa là các phương tiện của nó vẫn giữ cái vỏ bên ngoài, nhưng nội dung thì cùng với thời gian đã từ cách mạng trở thành phản động, từ tự vệ thành đàn áp, áp bức.

Các phương tiện của cộng sản vốn là vô đạo đức và trắng trợn, chúng cũng sẽ vẫn là như thế ngay cả khi về hình thức đã không còn quá dã man như cũ. Quyền lực toàn trị tuyệt đối không từ bất kì thủ đoạn nào. Cộng sản đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ không thể từ bỏ nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”, phương tiện bảo vệ quyền thống trị tuyệt đối và quyền lợi ích kỉ của họ.

Cộng sản đã tiến hành áp bức, cướp bóc, thủ tiêu con người mà không cần nhà tù và giá treo cổ. Điều đó được thưc hiện bằng cách tước đoạt khả năng gây ảnh hưởng của người dân đối với những thay đổi diễn ra trong xã hội, bằng cách tước quyền làm chủ ngay chính sức lao động của họ, không cho họ được quyền nói lên suy nghĩ của mình. Cộng sản đã biến tài sản xã hội thành tài sản của giai cấp mình, hứa huỷ bỏ nhà nước cùng với quá trình dân chủ hoá, nhưng trên thực tế, càng ngày càng củng cố quyền lực của chế độ chuyên chế; họ cũng làm tương tự như thế với các phương tiện đàn áp: nếu họ có nới lỏng các biện pháp khi không còn kẻ thù hoặc kẻ thù đã bị vô hiệu hoá thì cũng chỉ có tính chất tượng trưng .

Dù không muốn, cộng sản vẫn cứ là những chủ sở hữu và những kẻ chuyên chế, không từ bất cứ thủ đoạn nào. Trái với những lí thuyết đẹp đẽ và những dự định tốt đẹp, hệ thống bắt buộc họ phải làm như thế. Khi một cái gì đó đã trở thành tất yếu thì nhất định hệ thống sẽ biến một số tù nhân tinh thần của mình thành những kẻ thực hiện tự nguyện.

2.

Cộng sản thường nói đến “đạo đức cộng sản”, đến “con người mới xã hội chủ nghĩa” như là những phạm trù đạo đức cao cả. Nhưng những khái niệm đó chỉ có một nghĩa duy nhất: đoàn kết để chống lại mọi ảnh hưởng từ bên ngoài. Trên thực tế, chúng không phải là những phạm trù đạo đức.

Và, mặc dù người cộng sản không có những qui tắc hành xử đặc biệt nào, cũng như không thể có “con người xã hội chủ nghĩa”, nhưng cộng sản cố tình đưa vào hàng ngũ của mình “quan điểm riêng” về đạo đức: không phải như những nguyên lí tuyệt đối mà là những tiêu chuẩn động, ăn sâu bén rễ, thâm căn cố đế trong hệ thống thang bậc, nơi cấp trên có thể làm nhiều việc mà nếu cấp dưới vi phạm và bị phát hiện thì sẽ bị “ăn đòn”.

Thái độ và tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái của họ không phải là những tiêu chuẩn hoàn hảo và ổn định mà trải qua một quá trình phát triển lâu dài, đôi khi chính chúng cũng có đóng góp vào việc đưa giai cấp mới lên những tầng cao mới. Kết quả là, đã hình thành nên những tiêu chuẩn đạo đức bất thành văn, phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp chóp bu, tuy bất thành văn, nhưng lại là những tiêu chuẩn bắt buộc. Nói tóm lại, quá trình hình thành tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái đó trùng hợp với việc thăng tiến của giai cấp mới, các tiêu chuẩn đó thực chất là nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”, không chấp nhận các phạm trù đạo đức chung của nhân loại nữa.

Xin khảo sát từng vấn đề một cách cụ thể hơn.

Tiêu chuẩn đạo đức cộng sản cũng như mọi tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái khác, ban đầu, tuy thuộc về một phong trào khép kín nhưng vẫn là các tiêu chuẩn nhân bản nói chung chứ chưa phải hoàn toàn mang tính giáo phái hay biệt phái. Không phải vô tình mà phong trào cộng sản đã xuất hiện như một phong trào có tính lí tưởng và hi sinh nhất, đã tập hợp được trong đội ngũ của mình những người con ưu tú nhất, dũng cảm nhất và dĩ nhiên là cũng đức hạnh nhất của dân tộc.

Kết luận này và tất cả những kết luận nói đến ở trên liên quan đến các nước mà phong trào cộng sản sinh ra và giành được sức mạnh trong lòng dân tộc (Nga, Nam Tư, Trung Quốc).

Khắp mọi nơi, phong trào cộng sản đều bắt đầu từ ước mơ về những điều tốt đẹp hơn, ước mơ về lí tưởng; chính vì thế nó mới hấp dẫn những người đức hạnh. Đồng thời, là một phong trào quốc tế, như cây hướng dương tìm mặt trời, nó luôn hướng về nơi có phong trào mạnh nhất, nơi phong trào đã giành được chính quyền. Cho đến nay đấy chính là Liên Xô. Vì vậy, phong trào cộng sản ở những nước chưa giành được chính quyền đã mất chất cộng sản lúc đầu và tiếp thu những phẩm chất cộng sản cầm quyền. Kết quả là, các lãnh tụ cộng sản ở phương Tây hiện nay cũng có thói quen xuyên tạc sự thật và lèo lái các tiêu chuẩn đạo đức hệt như các đồng nghiệp của họ ở Liên Xô. Nói chung, trong giai đoạn đầu, cộng sản là phong trào của những người đức hạnh, nguyên tắc đạo đức đó được người ta gìn giữ như báu vật và đấy là lí do của những cuộc khủng hoảng, hậu quả của những hành động vô luân và duy ý chí của các lãnh tụ về sau này.

Lịch sử có chưa nhiều các phong trào bắt đầu và phát triển trên những nguyên tắc cao thượng và với những chiến sĩ xả thân vì sự nghiệp, đoàn kết vì lí tưởng, gắn bó bằng tình yêu, tình đồng chí, lòng chân thành, sự nhiệt tình, sinh ra trong bão lửa đấu tranh, nơi họ hoặc sẽ chiến thắng hoặc sẽ chết như thế. Cùng làm việc, ước nguyện có cùng suy nghĩ và cảm xúc, cùng chia sẻ niềm vui, hi sinh cá nhân cho sự nghiệp của đảng, của tập thể, sẵn sàng hi sinh vì đồng đội, thương yêu thanh thiếu nên, chăm sóc người già cả, đấy là đặc điểm của những người cộng sản trong giai đoạn khi mà phong trào đang hình thành như một phong trào cộng sản chân chính. Đảng viên nữ, đấy không chỉ là một chiến hữu, một người đồng chí bình thường. Cần luôn luôn nhớ rằng chị đã hi sinh tất cả khi tham gia phong trào, cả tình yêu, cả khả năng làm mẹ. Giữa đàn ông và đàn bà đã hình thành mối quan hệ trong sáng, ấm áp, một mối tình đồng chí lí tưởng, bảo bọc lẫn nhau. Lòng trung thành, tương trợ lẫn nhau, chân thành trong từng ý nghĩ cao thượng nhất, đấy là những nét đặc trưng của những người cộng sản chân chính lúc đó.

Nhưng đấy là ở những giai đoạn ban đầu, khi phong trào chưa được nếm vị ngọt ngào của quyền lực.

Để có những lí tưởng đó, phong trào phải đi qua những đoạn đường dài, đầy chông gai, thử thách. Phong trào cộng sản đã lôi cuốn được những thành viên của nhiều tầng lớp và lực lượng xã hội khác nhau. Sự đồng nhất về mặt tâm lí không thể xuất hiện ngay, trước đó nhất định phải diễn ra quá trình va chạm của những nhóm, những phe cánh khác nhau và chiến thắng (nếu điều kiện khách quan cho phép) sẽ thuộc về phe nhận rõ thực chất của phong trào và vì vậy cũng là phe thể hiện giá trị đạo đức cao nhất. Trải qua các cuộc khủng hoảng về đạo đức, qua các âm mưu về chính trị, các trò lừa đảo bẩn thỉu, các trò vu cáo lẫn nhau, các cuộc xung đột nội bộ, những vụ vỡ mộng về tinh thần cũng như trí tuệ, phong trào phát triển mãi lên, tạo ra hạt nhân lãnh đạo và giáo lí, đạo đức và tâm lí, phong cách và phương pháp làm việc.

Khi phong trào cộng sản trở thành một phong trào cách mạng thật sự và như ta đã thấy, trong một giai đoạn ngắn, đã có những phẩm chất đạo đức cao thượng. Đã có một giai đoạn, khi lời nói thường đi đôi với việc làm, nói đúng hơn, những người lãnh đạo phong trào, những người trung thành nhất, những người cộng sản chân chính đã thực sự tin vào lí tưởng của mình và một lòng một dạ thực hiện lí tưởng ấy. Đấy là giai đoạn trước cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền, là nói các phong trào phải trải qua giai đoạn như vậy.

Tất nhiên, đấy là đạo đức có tính biệt phái, nhưng là đạo đức cao thượng. Đây là một phong trào khép kín cho nên nó thường khó nhìn nhận được sự thật, mặc dù như thế, không có nghĩa là người ta không tìm kiếm và không yêu sự thật.

Tính biệt lập về trí thức và đạo đức là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài vì sự thống nhất về tư tưởng và hành động, ta sẽ khó tưởng tượng nổi một phong trào cộng sản cách mạng thiếu những đặc trưng vừa kể. “Thống nhất về tư tưởng và hành động” sẽ không thể nào xảy ra nếu thiếu sự thống nhất về tâm lí và đạo đức. Và ngược lại. Nhưng chính sự thống nhất về đạo đức và tâm lí tự phát như thế, không cần một nội qui và qui tắc nào, đã trở thành một thói quen và làm cho cộng sản thành một gia đình cố kết, bảo vệ lẫn nhau, có cùng cách phản ứng, có cùng những suy nghĩ và tình cảm, người bên ngoài không thể hiểu và không thể xâm nhập được. Sự xuất hiện một tổ chức thống nhất về đạo đức và tâm lí như thế là dấu chỉ rằng phong trào cộng sản đã đứng vững và trước mắt những người ủng hộ nó, cũng như trước mắt nhiều người khác, đây đã là một cơ thể duy nhất, một tâm hồn duy nhất, một bàn tay đã nắm thành quả đấm. Đấy là một phong trào đoàn kết nhất trí đầy tương lai. Nhưng đấy là cái tương lai khác hẳn với ước nguyện ban đầu.

Tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ bạc màu, sẽ tan dần trong quá trình tiến đến đỉnh cao của quyền lực. Chỉ còn lại hình thức và những thói quen rỗng tuếch, nội dung thực sự đã bị thay thế từ lâu.

Sự thống nhất hình thành trong cuộc đấu tranh với kẻ thù và những nhóm “nửa” cộng sản khi đối diện với một nhóm chóp bu nắm quyền (thường là một ông vua “xã hội chủ nghĩa”) đã biến thành sự thống nhất của những tên tay sai, những kẻ quan liêu “ăn theo nói leo” trong nội bộ phong trào. Thói luồn cúi, nịnh bợ, không dám phát biểu công khai, sự can thiệp vào đời sống riêng tư (sự tương trợ có tính đồng chí trước đây đã trở thành vũ khí nô dịch của nhóm đương quyền), hệ thống cấp bậc và khép kín, phụ nữ chỉ còn vai trò thứ yếu và mang tính tượng trưng, thói bon chen, ích kỉ, đố kị và thù hận – càng gần đến lúc giành được chính quyền thì những thói hư tật xấu nói trên càng xuất hiện nhiều và thế chỗ dần cho những phẩm chất cao thượng ban đầu. Tính nhân bản của một phong trào khép kín đã trở thành thói đạo đức giả và bất dung của một giai cấp đặc quyền đặc lợi. Lòng chân thành cách mạng giữa các đồng chí với nhau cũng chấm dứt, mánh khoé và dự giả dối đã thành lẽ sống. Những người anh hùng (những người còn sống và chưa bị hất ra khỏi guồng máy) mới ngày hôm qua còn sẵn sàng hi sinh tất cả, kể cả mạng sống của mình vì người khác, vì lí tưởng và hạnh phúc của nhân dân đã trở thành những kẻ ích kỉ hèn nhát, chẳng còn lí tưởng, cũng chẳng còn ai là đồng chí của ai nữa. Họ sẵn sàng từ bỏ danh dự, từ bỏ chân lí và đạo đức miễn là được ở lại trong giai cấp cầm quyền, miễn là giữ được chiếc ghế trong bộ máy. Nếu trước đây thế giới ít khi được thấy nhiều người anh hùng như thế, nhiều người sẵn sàng chịu hi sinh, chịu đau khổ, nhiều người có niềm tin, thông minh và không khoan nhượng như thế (những người cộng sản đã là như vậy trước và trong cách mạng) thì thế giới cũng chưa từng biết nhiều kẻ hèn nhát, thiếu tư cách đến như thế, những người anh hùng ngày hôm qua, khi vừa nắm được quyền lực liền biến thành những kẻ bảo vệ mù quáng những khẩu hiệu đã mất hết sức sống. Chỉ vì quyền lực, vì đặc quyền đặc lợi mà thôi. Những phẩm chất nhân bản tuyệt vời là điều kiện tạo ra phong trào và sự hấp dẫn và sức mạnh của phong trào ấy, thì tinh thần bè phái, sự chà đạp đạo lí và đức hạnh lại là điều kiện bảo đảm cho sự hùng mạnh và sự sống còn của chính nó. Nếu trước đây sự trung thực, lòng chân thành, đức hi sinh, tình yêu chân lí là một cái gì đó hoàn toàn tự nhiên, là điều kiện tham gia phong trào và điều kiện để chính phong trào tồn tại, thì nay sự giả trá cố ý, âm mưu, vu khống, xuyên tạc, khiêu khích đã dần trở thành những hiện tượng đồng hành không thể thiếu của sự thống trị toàn diện và tuyệt đối của giai cấp mới nói chung và giữa các thành viên của giai cấp ấy với nhau nói riêng.

3.

Những người không nắm được sự phát triển một cách biện chứng đó của phong trào cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cái gọi là những vụ án Moskva và tại sao những cuộc khủng hoảng về đạo đức do sự phản bội của những kẻ mới hôm qua còn được coi là thánh sống lại không gợi lên trong tâm trí những người cộng sản sự chuyển biến mang tính quyết định mà một người bình thường hay một thành viên của những phong trào khác sẽ nhận ra ngay.

Khrushchev từng khẳng định rằng tra tấn là biện pháp chủ yếu để buộc các nạn nhân các vụ thanh trừng của Stalin phải “thú nhận tội lỗi”, tự vu khống mình. Ông ta không nhắc đến ma tuý mặc dù có bằng chứng chứng tỏ rằng ma tuý đã được sử dụng. Nhưng sự đàn áp dã man nhất và chất ma tuý có hoạt tính hữu hiệu nhất lại chính là cái chất có sẵn trong lòng các “tội nhân”.

Những tội phạm bình thường, không phải đảng viên thường không rơi vào trạng thái bị thôi miên, không tự vu khống một cách điên rồ và không xin được chết vì “tội lỗi”. Chỉ những người có “tư chất” đặc biệt, những đảng viên cộng sản mới làm như thế.

Đầu tiên, họ kinh ngạc vì sự tàn bạo và vô luân của cú ra đòn và những lời buộc tội của thượng cấp, họ còn chưa chịu tin rằng cái thượng cấp ấy lại vô nguyên tắc và vô luân đến như vậy dù rằng trong thâm tâm (và giữa những bạn bè thân hữu) họ đã ngầm lên án nó vì nhiều chuyện rồi. Thế mà bỗng nhiên họ bị bứt ra như người ta bứt mấy cây cỏ dại vậy. Ai đã quyết chuyện đó? Chính giai cấp của họ, lãnh đạo của họ, lãnh tụ của họ đã quyết như thế. Người ta đã nắm cổ và vứt họ ra đống rác. Tệ hơn nữa, họ đã bị coi là những kẻ phản bội dù không làm gì nên tội. Thế mà từ lâu họ đã được giáo dục, từ lâu họ đã quen là một tế bào của đảng, hết lòng vì lí tưởng của nó. Nay, sau khi bị bật khỏi gốc rễ, họ trở thành những người cực kì cô đơn. Họ không biết hoặc không nhớ rằng còn có một thế giới khác, thế giới bên ngoài giáo phái cộng sản, bên ngoài những quan niệm và quan hệ bệnh hoạn của nó, nhưng đã muộn, họ không còn thời gian: người ta không cho họ quay lại nữa, từ lâu, trong tư tưởng, trong tâm lí, họ đã là tù binh của giáo lí đó rồi.

Con người không thể đấu tranh, thậm chí không thể sống bên ngoài xã hội, bên ngoài cộng đồng. Đấy là dấu hiệu không thể tách rời của con người, khi người ấy còn có thể được coi là người, Aristotle đã nhận thấy điều đó, đã giải thích nó và gọi con người là “con vật chính trị”.

Một người đã từng là thành viên của một giáo phái biệt lập, nay bị tách ra khỏi môi trường quen thuộc, bị kết án về mặt đạo đức, lại bị tra tấn một cách tinh vi và dã man, có thể làm được gì? Người đó chỉ còn mỗi một việc là “thú nhận” và bằng cách đó giúp cho giai cấp, giúp cho các “đồng chí”, những người đang cần những lời thú nhận đó để tiếp tục chiến đấu với “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội” với “bọn đế quốc”. Đấy là hành động “vĩ đại”, hành động “cách mạng” cuối cùng của một thân phận đã bị bỏ lỡ, một thân phận đã tan nát hoàn toàn.

Mọi người cộng sản chân chính đều được dạy và tiếp tục dạy người khác rằng bè phái, tranh chấp nội bộ là tội ác đối với đảng, đối với lí tưởng. Đúng như thế, nếu đảng cộng sản mà chia rẽ thì nó sẽ không thể giành chiến thắng trong cách mạng, không thể giành và giữ được quyền lực. Giữ sự thống nhất bằng mọi giá, đấy chính là cái mệnh lệnh bí hiểm mà đằng sau nó, giống như đằng sau bức tường công sự, ẩn chứa ước mơ của giới chóp bu về một quyền lực không giới hạn, không gì ngăn cản được. Ngay một người đối lập trong đảng, một người đã nghi ngờ hay biết rõ điều đó cũng không thể giải thoát khỏi sự thần bí của yêu cầu thống nhất. Ngoài ra, anh ta còn có thể nghĩ rằng các lãnh tụ sẽ đến rồi đi, những kẻ ngu dốt và độc ác, ích kỉ và tham quyền kia cũng sẽ phải đi, nhưng mục đích thì vẫn còn đó, vĩnh viễn. Mục đích là tất cả, chẳng phải ngay từ đầu, từ ngày thành lập đảng đã là thế ư?

Chính Trotsky, một người đối lập kiên trì nhất, cũng không vượt qua được cách lí luận như vậy. Một lần, trong cơn phấn khích tự phê bình, Trotsky đã tuyên bố rằng đảng không bao giờ sai vì đảng chính là hiện thân của nhu cầu lịch sử, nhu cầu xây dựng xã hội phi giai cấp. Còn khi đã lưu vong, để lí giải sự vô luân không thể tưởng tượng được của các vụ án ở Moskva, ông đã dựa vào các vụ tương tự trong lịch sử: xảy ra trước khi Thiên chúa giáo giành thắng lợi ở Rome, trong thời Phục hưng, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản; tất cả đều kèm theo những vụ hành quyết vô luân, vu khống và lừa dối đã là hiện tượng phổ biến và nhiều tội ác khác. Giai đoạn quá độ sang chủ nghĩa xã hội cũng không thể tránh được những hiện tượng như thế, đấy chính là tàn dư của xã hội có giai cấp, Trotsky đã kết luận như vậy đấy. Ông ta chẳng lí giải được gì, nhưng bằng cách đó, ông đã tự an ủi: ông đã không phản bội “chuyên chính vô sản”, không phản bội chính quyền Xô Viết, “hình thức quyền lực duy nhất trong giai đoạn quá độ sang xã hội phi giai cấp”. Nhưng nếu Trotsky đi sâu vào vấn đề thêm một chút nữa thì có lẽ ông đã hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản cũng như thời Phục hưng và nói chung trong lịch sử, khi một giai cấp hữu sản nào đó đang dọn đường cho mình thì khó khăn càng lớn, bức tranh về một thế giới ngày mai mà nó vẽ ra cho mình và cho những người khác càng “lí tưởng”, ước vọng của những người chiến đấu cho thế giới ấy càng sâu sắc và càng cao thượng thì đức hạnh càng ít có giá trị.

Tương tự như vậy, những người không hiểu các thay đổi xã hội to lớn đang diễn ra sau khi cộng sản chiến thắng đã đánh giá sai những cuộc khủng hoảng về đạo đức trong hàng ngũ của họ. Thí dụ, người ta đã đánh giá quá cao cuộc công kích của những cộng sự của Stalin vào phong cách làm việc của ông ta - được gọi là quá trình phi Stalin hoá.

Những cuộc khủng hoảng về đạo đức, lớn có, nhỏ có, là một phần không thể thiếu được của tất cả các chế độ chuyên chế vì những kẻ bảo vệ các chính thể ấy đã quen cho rằng đồng phục tư tưởng chính là lòng yêu nước, là trách nhiệm công dân cao cả nhất và họ cảm thấy đau khổ trước mỗi khúc quanh, trước mỗi thay đổi nhất định phải xảy ra. Các chế độ toàn trị lại càng không thể tránh được những cuộc khủng hoảng như thế.

Đồng thời cộng sản lại biết rõ bằng bản năng rằng, cứ sau mỗi khúc quanh như thế quyền lực toàn trị của giai cấp họ không những không giảm mà còn tăng thêm, đấy chính là con đường phát triển tự nhiên của họ, đức hạnh và bao điều khác không có vai trò gì, thậm chí còn có hại. Họ nhanh chóng nhận thức được điều đó qua thực tiễn. Vì vậy mà những cuộc khủng hoảng về đạo đức đó dù có sâu sắc đến đâu cũng chỉ là hiện tượng tạm thời. Thực ra, khi toàn thể trái tim và khối óc đã dành cho các mục tiêu thực tế, còn những cuộc thảo luận về lí tưởng chỉ là bức màn che giả tạo, thì phương tiện nào mà chả tốt.

No comments:

Post a Comment