October 30, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (4)

 

EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 6

Phối hợp thông qua thị trường

 

           Giá cả phối hợp hoạt động của vô số người trên khắp thế giới. Giá cao cho thấy món hàng đó đang khan hiếm, nhưng còn thúc đẩy người ta cung cấp nó và làm cho nó không còn khan hiếm nữa. 

           Có nhiều cách khác nhau để sản xuất cùng một sản phẩm. Giá cả khuyến khích người ta sử dụng hỗn hợp đầu vào rẻ nhất. Đến lượt mình, các quyết định của họ lại gây ra ảnh hưởng đối với giá đầu vào trên những thị trường khác, khởi động một loạt vụ điều chỉnh uyển chuyển. 

           Thông tin về cung, cầu và giá cả là cực kì cần thiết khi tiến hành các lựa chọn kinh tế. Bằng cách sử dụng thông tin không đầy đủ, luôn luôn thay đổi, có tính khu vực và cá nhân, thị trường có thể đưa ra những lựa chọn nhanh hơn và tốt hơn hẳn so với các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 

           Thị trường đưa giá trị của những món hàng mà mỗi người làm ra cho những người khác - không phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của người sản xuất và giá trị gia tăng là do làm việc chăm chỉ, phán đoán chính xác hay chỉ là may mắn. 

Mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong các cuốn sách giáo khoa phải chịu trách nhiệm về rất nhiều chính sách sai lầm. Nó làm cho người ta mường tượng rằng thị trường trong thế giới thực là “không hoàn hảo” và phải có những biện pháp nhằm khắc phục những hiện tượng không hoàn hảo đó. Nó giả định rằng các nhà cung cấp là những người hoàn toàn giống nhau, rằng các nhà cung cấp mới không gặp bất cứ rào cản nào khi tham gia thị trường và cạnh tranh sẽ làm cho lợi nhuận giảm xuống một mức nào đó chung cho tất cả các ngành nghề. Vì vậy, khi người ta thấy rằng trong thế giới thực, những người mới bước vào thương trường gặp khá nhiều rào cản, các nhà cung cấp không phải là những người giống hệt nhau và một số doanh nhân lãi to, họ liền coi đấy là những “thất bại của thị trường”, cần phải được điều chỉnh. 

Nhiều người còn đi xa hơn, họ nói rằng hệ thống thị trường - vì không được lập kế hoạch và không có chỉ đạo từ trung ương - không bao giờ có thể cung cấp được lợi ích kinh tế một cách hợp lí hoặc hiệu quả. Vì vậy, họ kêu gọi kế hoạch hóa cả quá trình sản xuất lẫn phân phối. 

Thị trường hóa giải những khác biệt của chúng ta 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản bác rằng, trên thực tế, thị trường là hệ thống cực kì hiệu quả; nó hướng các nguồn lực, trong đó có thời gian và kĩ năng, cũng như hàng hoá vật chất, tới những nơi mà chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Nhưng, thị trường giải quyết được vấn đề này vì nó khác hẳn với mô tả trong các cuốn sách giáo khoa. Thị trường không hoạt động vì mọi người đều giống nhau, mà vì họ là những người khác nhau. Nó phối hợp những sự khác biệt của họ và tạo điều kiện để họ sử dụng những tài năng khác nhau của mình sao cho mọi người cùng có lợi. 

Trên thực tế, thị trường liên kết được rất nhiều người và là những người khác nhau trên thế giới, và tạo điều kiện để họ hợp tác một cách hòa bình. Với sự khác biệt chính trị giữa các nước như hiện nay, đấy là thành quả rất lớn và khó có thiết chế nào khác có thể làm được như vậy. Đúng là, tôi liên kết với người dân trên khắp địa cầu. Giày của tôi được sản xuất ở Italy, áo sơ mi của tôi được sản xuất ở Trung Quốc. Tôi uống rượu vang được sản xuất ở Chile và tôi xem phim Mĩ. Người dân những nước này đang sản xuất những món hàng mà tôi mua, và đổi lại tôi gửi cho họ tiền. Cả hai bên đều nghĩ rằng chúng tôi trao đổi một cách bình đẳng. Cả hai bên đều được lợi. 

Tất nhiên là, tôi không biết cái gì thúc đẩy người dân ở Italy, ở Trung Quốc, ở Chile hay ở Mĩ. Tất cả những người đó đều có những niềm tin, giá trị và tham vọng khác nhau. Điều mà thị trường làm được là tạo điều kiện hóa giải những mục tiêu của chúng ta, bởi vì những giao dịch về kinh tế như thế làm cho cả hai bên đều được lợi. Họ được tiền để chi tiêu cho mình và cho gia đình, tôi có quần áo mặc hay được giải trí khi xem phim. Tham vọng khác nhau của chúng ta là gì không quan trọng. Thật vậy, chúng ta càng đánh giá khác nhau thì trao đổi càng mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích hơn. Thị trường giúp tất cả chúng ta đạt được mục đích của mình, dù mục đích có là gì thì cũng thế. Vai trò thích hợp của chính sách công là phải để cho thị trường thúc đẩy sự hợp tác tự do giữa chúng ta, chứ không tìm cách ép chúng ta chấp nhận khái niệm có sẵn về việc chúng ta phải coi cái gì là có giá trị. 

Giá cả là thông tin liên lạc 

Nhưng làm sao thị trường có thể phối hợp hoạt động của hàng triệu người trên hành tinh và tạo điều kiện để họ hợp tác vì lợi ích chung, mặc dù họ không bao giờ gặp nhau và coi trọng những thứ rất khác nhau? Theo Hayek, câu trả lời là hệ thống giá cả, hoạt động như một hệ thống thông tin liên lạc cực kì rộng lớn. 

Giá cả có thể chỉ là tỉ lệ trao đổi mà mọi người sẵn sàng trao đổi món hàng này lấy món hàng khác. Nhưng giá cả cũng bao hàm quan niệm về giá trị của tất cả những người tham gia thương trường. Nếu món hàng được mọi người đánh giá cao thêm, họ sẽ sẵn sàng đánh đổi bằng nhiều thứ khác - ví dụ như tiền - để lấy nó. Giá cả tăng đưa ra tín hiệu cho các nhà cung cấp rằng họ sẽ được lợi nếu mang thêm món hàng này ra thị trường và họ sẽ làm đúng như thế. Nhưng, trong khi động cơ duy nhất của họ là kiếm lời thì hành động của họ lại chuyển các nguồn lực đến nơi mà chúng sẽ làm cho đồng bào của họ hài lòng hơn. Hệ thống giá cả đã và đang phối hợp những sở thích thường xuyên thay đổi của khách hàng và nhà cung cấp. 

Hayek sử dụng ví dụ về sự gia tăng giá thiếc. Có thể người ta đã tìm được ứng dụng mới cho thiếc hay một số mỏ thiếc đã cạn kiệt. Trên thực tế, đấy không phải là điều quan trọng. Khách hàng bây giờ biết rằng nếu muốn tiết kiệm tiền thì họ phải sử dụng thiếc một cách thận trọng, chỉ sử dụng nó ở những chỗ thật cần thiết và tìm kiếm các chất thay thế rẻ hơn cho những mục đích khác. Đến lượt mình, nhu cầu về chất thay thế mới sẽ làm cho giá của nó tăng, thúc đẩy người dùng hành động theo cách nói trên. Đến lượt mình, những người sử dụng những chất thay thế đó sẽ được nhắc nhở là phải tiết kiệm và cứ thế tiếp tục. Như Mises nói, mỗi sự thay đổi trên thị trường đều kích hoạt một loạt những thay đổi khác, vì người ta điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với tình huống mới - và phù hợp với phản ứng của những người khác trước tình huống đó. 

Bằng cách đó, toàn bộ thị trường điều chỉnh theo sự khan hiếm của thiếc. Trên thị trường, người ta không cần biết và không cần đánh giá tất cả những cách sử dụng thiếc và cũng không cần xác định sử dụng vào việc gì là quan trọng nhất - họ cũng không thể nào làm được. Thay vào đó, hệ thống giá cả cung cấp cho người ta tất cả thông tin cần thiết để họ phối hợp hành động của mình với hành động của tất cả những người khác. Và phản ứng của họ trước thông tin đó tự động lái các nguồn lực ra khỏi những nơi chúng có giá trị sử dụng thấp đến nơi chúng có giá trị sử dụng cao nhất. 

Giá cả đảm bảo hỗn hợp đầu vào rẻ nhất 

Có một số hoặc nhiều cách khác nhau để làm ra cùng một sản phẩm. Những người mua tấm bạt (một ví dụ khác của Hayek) có lẽ chẳng mấy quan tâm đến việc chúng được làm từ cây gai dầu, lanh, đay, bông hay nylon. Do đó, nhà sản xuất chọn loại vật liệu rẻ tiền nhất - nghĩa là, chọn loại vật liệu đòi hỏi hi sinh ít nhất những sản phẩm đáng mong muốn khác. Bằng cách tìm kiếm chi phí thấp nhất, nhà sản xuất giải phóng những nguồn tài nguyên, để đưa chúng tới những nơi mà chúng có thể được đánh giá cao hơn. 

Tương tự, khi sản phẩm chứa nhiều thành phần, nhà sản xuất sẽ tìm kiếm sự kết hợp đầu vào với chi phí thấp nhất. Nếu một số đầu vào, ví dụ như thiếc, trở nên đắt đỏ hơn, thì đấy là tín hiệu nói rằng các nhà sản xuất khác đánh giá nó cao hơn, và các nhà sản xuất có thể giảm mức độ phụ thuộc của họ vào thiếc bằng cách đưa các chất thay thế rẻ hơn vào hỗn hợp đầu vào của mình. Bằng cách đó, hệ thống giá cả cho thấy tất cả các vật liệu đều được sử dụng với giá trị cao nhất, và khuyến khích chúng ta - trong khi theo đuổi những mục đích của mình - sử dụng chúng một cách tiết kiệm nhất. 

Quá trình điều chỉnh trước những thay đổi trên thương trường, tương tự một loạt thay đổi về giá cả do giá thiếc tăng lên gây ra, không diễn ra ngay lập tức hay có tính cơ học, như mô hình trong sách giáo khoa đề xuất. Trên thị trường với hàng triệu sản phẩm đang được trao đổi, sẽ có một loạt thay đổi đến từ những hướng khác nhau, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng đều phải lèo lái để vượt qua những biến động đó. Nó cũng gần giống như khi ta tìm cách đi qua bến xe buýt đông người, khi có hàng ngàn người đang chạy theo những hướng khác nhau. Đấy là quá trình rất phức tạp, một quá trình xã hội, trong đó, những phán đoán đang thay đổi về cách đánh giá của người ta sẽ có ý nghĩa quyết định - chứ không phải là quá trình có thể được mô tả và dự đoán bằng toán học. 

Đáng chú ý là hệ thống điều khiển nguồn lực đến nơi nó được đánh giá cao nhất lại là hệ thống hoàn toàn tự động. Đấy không phải là hệ thống do các chính phủ cố tình thiết kế và các quan chức phải làm việc này. Hệ thống giá cả phát sinh một cách tự nhiên và tiếp tục tồn tại vì nó hoạt động - tương tự cách ngôn ngữ xuất hiện và tồn tại, vì nó giúp người ta giao tiếp với nhau. Thật vậy, hệ thống giá cả là hệ thống cực kì hiệu quả trong việc thu thập, sử dụng, xử lí và phổ biến thông tin về những nguồn tài nguyên khan hiếm và giá trị mà mọi người gán cho chúng. 

Thị trường sử dụng thông tin  (cục bộ?) như thế nào 

Trong mô hình sách giáo khoa kinh tế, thông tin là “hoàn hảo” và làm cho thị trường hoạt động hiệu quả. Nhưng trong thực tế, thông tin còn lâu mới hoàn hảo. Không ai có được thông tin hoàn hảo. Phần lớn thông tin chúng ta có là không đầy đủ, rời rạc, không chính xác, mâu thuẫn nhau, rối rắm, mang tính cá nhân, mất nhiều chi phí mới có và khó chuyển đi. Chính vì thông tin là không hoàn hảo mà thị trường hoạt động tốt hơn bất kì hình thức tổ chức kinh tế nào khác. 

Người ta thường nghĩ rằng thông tin là minh bạch và có thể tiếp cận được, tương tự sách trong thư viện. Trên thực tế, nhiều “thông tin” thực ra lại là những lí thuyết đối nghịch nhau của các chuyên gia khác nhau. Và hầu hết thông tin nằm tản mác ở nhiều nơi, chỉ một số người đặc biệt mới biết và không thể dễ dàng ghi lại và truyền đi. Ví dụ, những người môi giới bất động sản nắm được những cơ hội nhất thời trên thị trường đang thay đổi rất nhanh này, họ phải gắn kết nhu cầu của nhiều người mua khác nhau với tài sản đang có mỗi ngày. Phần lớn kiến thức mà họ có chỉ đơn giản là “cảm giác” của người có nghề về thị trường khu vực, được hình thành nhờ kinh nghiệm. Họ có thể, thậm chí, không thể mô tả chứ chưa nói tới việc truyền đạt những kiến thức đó. 

Cảm giác của họ có thể không phải lúc nào cũng chính xác. Thông tin của họ có thể không đầy đủ. Họ có thể đánh giá quá cao khả năng trả tiền của khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh, tức là người có quan điểm khác và đưa ra giá thấp hơn, cướp mất cơ hội bán hàng. Hoặc họ có thể bỏ qua việc một con đường mới hoặc sự phát triển của trường học và ảnh hưởng của chúng đến cầu về bất động sản. Nhưng có một điều chắc chắn: Họ sẽ nắm được thông tin về điều kiện của địa phương tốt hơn những người lập kế hoạch ở trung ương xa xôi. Trong khi các quan chức địa phương thu thập được những thông tin mà họ có thể thu thập được và gửi về trung ương thì đấy là thông tin vừa thiếu, vừa lạc hậu rồi. Trong khi trung ương đánh giá xong những quan điểm trái ngược nhau của những cơ quan khác nhau, thì các sự kiện ở địa phương đã thay đổi và đánh giá của trung ương trở thành vô dụng. Thị trường với hệ thống thông tin về giá cả của nó tuyệt vời ở chỗ nó tạo điều kiện cho người ta sử dụng thông tin mang tính cá nhân, tại chỗ và phân tán, và hành động một cách nhanh chóng và hiệu quả. Điều đó có nghĩa là nó có nhiều khả năng thành công trong việc điều phối kế hoạch của tất cả những người liên quan, và bằng cách đó làm gia tăng giá trị hơn bất kì hệ thống lập kế hoạch tập trung nào khác. Hệ thống lập kế hoạch tập trung không thể thu thập và xử lí nhiều thông tin đến như thế và nhanh đến như thế. 

Chủ nghĩa tư bản không dẫn đến độc quyền 

Người ta cũng thường phê phán cạnh tranh trên thương trường là nó dẫn tới chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ví dụ, Marx nói rằng vì cạnh tranh thường xuyên đẩy các doanh nghiệp kém thành công ra khỏi thương trường, các doanh nghiệp còn lại sẽ lớn mãi lên, cho đến khi trong mỗi ngành chỉ còn lại một nhà sản xuất độc quyền mà thôi. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng đấy là điều vô nghĩa: thực tế khác hẳn. Mặc dù dễ nhìn thấy sự tăng trưởng của các công ti lớn, những công ti thành công, nhưng chúng ta cũng thường bỏ qua sự xuống dốc của những công ti cũng lớn chẳng khác gì những công ti kia và được thay thế bằng những công ti đang lên hay những công ti vừa bước vào thương trường. Thị trường không phải là quá trình tập trung hóa không thể nào tránh được, mà là liên tục chao đảo và thay đổi. 

Điều làm người ta lo ngại về độc quyền là các công ti giữ thế thượng phong thích đòi giá nào cũng được. Nhưng, ngay cả điều đó cũng không đúng. Họ luôn luôn bị những công ti có lẽ là nhỏ hơn, sáng tạo hơn đe dọa cạnh tranh. Tương tự, bao giờ cũng có những món hàng thay thế mà khách hàng có thể mua: ví dụ, thế thượng phong của các công ti đường sắt Mĩ đã bị các hãng hàng không phá vỡ. 

Khác với các công ti thương mại - những công ti này chỉ tồn tại được nếu họ tiếp tục phục vụ người tiêu dùng - các chính phủ có thể đơn giản là tự bỏ phiếu cho các công ti độc quyền của mình - như họ đã từng làm trong quá khứ, trong các lĩnh vực như muối, điện thoại, radio, ti vi và nhiều thứ khác. Hay họ tạo ra các công ti độc quyền bằng cách hạn chế người gia nhập một số ngành nghề thông qua giấy môn bài. Họ có thể biện bạch là cần bảo đảm an toàn cho xã hội –- ví dụ như để người dân không bị gặp các bác sĩ hay lái xe taxi không đủ trình độ. Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng, thường thì tất cả những việc đó đều có động cơ chính trị. Môn bài là nguồn thu của chính quyền. Và môn bài sẽ giúp những người đã hành nghề trên thị trường - những người có nhiều của cải hơn và có thể có nhiều ảnh hưởng chính trị hơn - tránh được những đối thủ tiềm tàng. Rất ít tổng công ti (cartel) và công ti độc quyền từng xuất hiện, mà không được chính phủ hay những người có quyền lực chính trị giúp đỡ bằng cách bóp nghẹt cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản không có xu hướng dẫn tới độc quyền hay giá cả độc quyền; ngược lại, nó có xu hướng dẫn tới đa dạng và khác biệt, chất lượng tăng mà giá thì giảm. Các mô hình trong sách giáo khoa che giấu sự kiện này, nhưng đấy là điểm chính và là lợi ích lâu dài của cạnh tranh. 

Công lí và thị trường 

Hệ thống thị trường không phụ thuộc vào những người “làm việc tích cực” mà phụ thuộc vào việc họ tạo ra những món hàng mà người khác muốn - và theo những cách gây ra ít xung đột nhất với ước muốn của người khác. Phần thưởng của thị trường không phải là phần thưởng “công bằng” cho những cố gắng hay phẩm chất cá nhân, và thậm chí không phản ánh quy mô của khoản đầu tư đã được thực hiện - đôi khi người ta gặp được những sản phẩm với thành công lớn mà tốn rất ít thời gian và tiền bạc để phát triển. Thị trường chỉ tưởng thưởng cho giá trị mà mỗi người cung cấp được cho những người khác, dù đấy có là do may mắn, do đánh giá đúng hay làm việc chăm chỉ thì cũng thế. 

Một số nhà tư tưởng, như Karl Marx, đã áp dụng “lí thuyết giá trị lao động”, nói rằng giá trị của sản phẩm được xác định bởi lao động bỏ ra để làm ra nó (Ông sử dụng lí thuyết này để giải thích việc bóc lột của các nhà tư bản, những người dường như không bỏ nhiều sức lao động vào những hàng hoá mà họ sản xuất ra). Böhm-Bawerk và các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng nói thế là hoàn toàn sai. Giá trị không phải là chất lượng tồn tại trong món hàng hay chất lượng mà nhà sản xuất đưa vào nó. Các nhà sản xuất có thể làm việc chăm chỉ, và đầu tư nhiều thời gian và công sức, và làm ra sản phẩm mà chẳng ai muốn mua. Giá trị là cái mà khách hàng hay người tiêu dùng nghĩ rằng có trong sản phẩm. Giá cả không phải là thước đo về thời gian và nỗ lực đã được đưa vào sản phẩm. Hoàn toàn ngược lại: Giá cả thông báo cho người sản xuất biết cần phải dùng bao nhiêu thời gian và sức lực để làm ra sản phẩm. Sản xuất không quyết định giá cả: Giá cả khuyến khích người sản xuất. 

Hệ thống thị trường không phải quá trình đã được kế hoạch hóa nhằm đạt được kết quả cụ thể nào đó. Vì vậy, chúng ta không bao giờ có thể dự đoán được mỗi người hay mỗi nhóm người cụ thể nào đó sẽ được mấy phần của cái phần thưởng mà sản phẩm sẽ mang lại. Một số người làm việc chăm chỉ có thể được tưởng thưởng rất ít, trong khi những người khác gặp may có thể kiếm được nhiều tiền. Nhưng trong hệ thống thị trường, quan trọng là phần của mỗi người sẽ là lớn nhất, có thể. Vì hệ thống thị trường chuyển một cách hiệu quả các nguồn lực đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất cho xã hội, phần của mỗi cá nhân trong toàn bộ phần thưởng sẽ được phân phát với chi phí thấp nhất có thể. 

Chương 7

Cạnh tranh và tinh thần nghiệp chủ

 

           Cạnh tranh không phải là lặp lại một cách lãng phí. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà sản xuất tranh giành nhau cung cấp hàng hoá với giá cả và chất lượng khác nhau với hi vọng là sẽ khám phá được người mua đánh giá món hàng nào cao nhất. Đấy là động cơ của cải tiến và tiến bộ. 

           Do đó, cạnh tranh xảy ra vì nó là không hoàn hảo - bởi vì các nhà sản xuất, các sản phẩm và người tiêu dùng là khác nhau, chứ không giống hệt nhau. 

           Quá trình khám phá của cạnh tranh được thúc đẩy bởi các doanh nhân, những người luôn luôn tỉnh táo và có tài - được thúc đẩy bởi khả năng kiếm lời - chấp nhận rủi ro nhằm đổi mới sản phẩm mà họ hi vọng sẽ có sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. 

           Do đó, lợi nhuận có vai trò xã hội quan trọng, nó khuyến khích các doanh nhân tìm cách sản xuất những món hàng mà dân chúng ưa thích nhất. 

Cơ hội kiếm lời bằng cách cung cấp món hàng mà một số người tiêu dùng mong muốn là động cơ thúc đẩy người sản xuất, nhưng đe dọa cạnh tranh càng làm nổi bật quá trình đưa các nguồn lực tới những nơi chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Cạnh tranh khuyến khích các nhà sản xuất hoạt động tích cực nhằm lấp đầy khoảng cách giữa ước muốn của người tiêu dùng và hàng hóa mà thị trường đang cung cấp. Nó còn thúc đẩy các nhà sản xuất tìm cách làm tốt hơn người khác nhằm đảm bảo rằng sẽ đáp ứng được mong muốn của người tiêu dùng. Cạnh tranh càng khốc liệt thì càng có các nhà sản xuất nhanh hơn và chính xác hơn tham gia phục vụ công chúng và dự đoán những nhu cầu của họ trong tương lai; và họ càng phải sáng tạo và giàu trí tưởng tượng hơn trong khi làm việc đó. 

Cuộc trưng cầu dân ý của người tiêu dùng 

Cạnh tranh là quá trình lựa chọn. Và trên thị trường, người tiêu dùng chính là người lựa chọn. Họ luôn luôn tìm kiếm những sản phẩm tốt nhất với giá rẻ nhất, đáp ứng được nhu cầu của mình. Và rất khó làm họ hài lòng: Nếu một người nào đó có thể sản xuất được sản phẩm tốt hơn hoặc rẻ hơn thì họ sẽ bỏ nhà cung cấp hiện có và đem tiền đi mua sản phẩm mới, chứ không mua sản phẩm cũ nữa. 

Mises mô tả thị trường như là cuộc trưng cầu dân ý diễn ra hằng ngày về việc cần sản xuất cái gì và ai là người sản xuất sản phẩm đó. Mỗi đồng xu mà người tiêu dùng bỏ ra trong vô số cuộc giao dịch diễn ra hằng ngày là một lá phiếu trong cuộc bỏ phiếu diễn ra liên tục, nhằm xác định mỗi món hàng cần sản xuất bao nhiêu và đưa sản xuất đến những nơi mà nó được đánh giá cao nhất. Nó hiệu quả hơn hẳn việc ban hành quyết định thông qua các cuộc bầu cử chính trị, mấy năm mới có một lần và thậm chí lúc đó người ta cũng chỉ bỏ phiếu cho một gói các biện pháp khác nhau mà thôi. Trên thương trường, mỗi đồng xu đều được đo đếm và được đo đếm mỗi ngày. 

Cạnh tranh và đa dạng 

Nhiều người nghĩ rằng cạnh tranh nghĩa là làm lại công việc tương tự nhau và do đó là “lãng phí”. Đó là quan điểm xuất phát từ mô hình trong sách giáo khoa về “cạnh tranh hoàn hảo”, trong đó, tất cả các nhà sản xuất đều là những người giống hệt nhau. Nhưng trên thực tế, cạnh tranh chính là cái làm cho các nhà sản xuất trở thành những người khác nhau. Họ muốn làm tốt hơn các nhà sản xuất khác, để cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa tốt hơn hoặc rẻ hơn những người khác, món hàng nổi bật so với những món khác, thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng và làm cho người tiêu dùng chuyển sang mua sản phẩm mới. 

Trên mô hình trong sách giáo khoa, người tiêu dùng không quan tâm tới các nhà cung cấp, vì tất cả các nhà cung cấp đều giống hệt nhau. Nhưng, vai trò của cạnh tranh chính là để phân biệt giữa các nhà sản xuất. Không có hai nha sĩ, hai cửa hàng tạp hóa, hoặc hai đại lí du lịch giống hệt nhau và không bao giờ có thể giống hệt nhau: Họ cạnh tranh rất mạnh với nhau. Các công ti khác nhau làm ra sản phẩm với giá cả khác nhau, chất lượng khác nhau, tính chất khác nhau, bao bì khác nhau và quảng cáo khác nhau. Thậm chí ngay cả các sản phẩm dường như đã trở thành tiêu chuẩn như xà bông hay nước cam cũng khác nhau và được bán theo những cách khác nhau, ở những nơi khác nhau. Chúng ta có thích tất cả nhà cửa, xe cộ hay quần áo giống hệt nhau nhằm tạo ra thị trường “hoàn hảo” hay không? Hay thích điều gì tương tự thế? Các nhà sản xuất không tìm cách cung cấp cho tất cả chúng ta sản phẩm giống hệt nhau với giá thấp nhất, mà cố gắng tìm cho ra những sản phẩm mà người tiêu dùng ưa thích. 

Cạnh tranh là quá trình khám phá 

Trong mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” của sách giáo khoa, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng giống hệt nhau, đã được biết trước và không thay đổi. Đấy là những sự kiện “cho trước”. Nhưng, trên thị trường, người tiêu dùng đánh giá cao những thứ khác nhau và không ai biết đấy là cái gì và không phải là sự kiện “cho truớc”. Chỉ có người tiêu dùng liên quan mới biết mà thôi - và thậm chí, người tiêu dùng có thể cũng không biết một cách đầy đủ cho đến khi họ phải lựa chọn. Nhiệm vụ của nhà sản xuất là tìm cho ra cái mà khách hàng của họ thực sự muốn và cung cấp cho họ món hàng đó. Nhà sản xuất không có “thông tin hoàn hảo” về sở thích của người tiêu dùng. Họ không thể biết chính xác khách hàng sẽ phản ứng như thế nào trước một sản phẩm mới hay trước sự thay đổi về chất lượng hoặc giá của sản phẩm. 

Như vậy là, đối với các nhà kinh tế học Trường phái Áo, cạnh tranh không phải tình trạng mua và bán mà là hoạt động. Cạnh tranh là quá trình khám phá. Đó là quá trình mà các nhà sản xuất sử dụng nhằm tìm cho ra sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng (ở đầu ra) và kết hợp các nguồn lực một cách tốt nhất và rẻ nhất (ở đầu vào) có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất. 

Cạnh tranh thúc đẩy các nhà sản xuất đổi mới và thử nghiệm với những sản phẩm mới, và tìm cách thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà các nhà sản xuất đang cạnh tranh với họ không nhận ra. Tương tự, cạnh tranh khuyến khích các nhà sản xuất thử nghiệm với các hỗn hợp của đầu vào và quy trình sản xuất khác nhau nhằm tìm cho ra hỗn hợp để làm ra sản phẩm có giá trị cao nhất với chi phí thấp nhất. 

Kinh doanh và lợi nhuận 

Do đó, sản xuất không chỉ là đầu tư vốn liếng theo bất kì cách nào đó mà bạn chọn và ngồi đợi hưởng “lợi nhuận bình thường” mà nó tạo ra. Đầu tư không phải lúc nào cũng tạo ra những món hàng hóa mà khách hàng muốn mua, như một số nhà phê bình chủ nghĩa tư bản thường nói. Đầu tư là những lựa chọn, tính toán và dự đoán phức tạp. Những nguồn lực bổ sung như đất đai, lao động và thiết bị phải được kết hợp với nhau. Sản phẩm phải được thiết kế, chế tạo, đóng gói và bán. Phải dự đoán được nhu cầu của người tiêu dùng với mức độ chính xác nào đó. Và tất cả đều diễn ra trong thế giới của những sự kiện luôn luôn thay đổi và thông tin không hoàn hảo, không ai có thể tin tưởng chắc chắn đâu là kết hợp tốt nhất của đầu vào hay người tiêu dùng sẽ mua cái gì hoặc đối thủ cạnh tranh có thể đưa ra sản phẩm mới nào. 

Do đó, sản xuất thành công bao gồm dự đoán tương lai của thị trường. Tất cả các quá trình sản xuất đều cần thời gian, đấy là quá trình tập kết nguyên liệu đầu vào, chế tạo sản phẩm và tiếp thị. Để có lợi ích về tài chính, người tiến hành dự án sản xuất - doanh nhân - phải bán được sản phẩm cuối cùng với giá cao hơn giá của các thứ khác nhau nằm ở đầu vào, được sử dụng để đưa sản phẩm ra thị trường. Nhưng vì sản xuất cần thời gian và mọi thứ có thể thay đổi trong khoảng thời gian đó, kết quả không bao giờ chắc chắn. Chi phí đầu vào có thể gia tăng, các đối thủ cạnh tranh khác có thể đưa ra thị trường sản phẩm tốt hơn hay rẻ hơn, thị hiếu có thể thay đổi, và người tiêu dùng có thể không sẵn sàng trả giá mà doanh nhân từng kì vọng. 

Do đó, lợi nhuận không đơn giản là kết quả của việc đầu tư tiền của vào quá trình sản xuất và chờ đợi lợi nhuận. Sản xuất là một vụ đầu cơ. Có thể mắc những sai lầm rất lớn, mất thì giờ, tiền bạc và công sức mà chỉ tạo ra những sản phẩm không được công chúng chào đón. Quy trình sản xuất càng kéo dài và càng phức tạp - như đang diễn ra trong nền kinh tế hiện đại - thì khả năng mắc sai lầm càng lớn. Thành công của doanh nhân phụ thuộc vào kiến thức, kĩ năng và cả may mắn. Lợi nhuận chỉ có khi phán đoán chính xác món hàng nào sẽ mang lại giá trị cho những người khác. Đoán không chính xác thì lỗ. Theo đuổi lợi nhuận nghĩa là phải chấp nhận rủi ro. 

Vai trò xã hội của lợi nhuận 

Do đó, lợi nhuận có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích các cá nhân khám phá những nhu cầu mới và chưa được thỏa mãn và tìm cách dự đoán thị trường chính xác nhất có thể và thỏa mãn những nhu cầu đó một cách rẻ nhất và hiệu quả nhất có thể. Đấy không chỉ là lợi nhuận mà nhà sản xuất thu được, sức quyến rũ của lợi nhuận còn có mục đích xã hội quan trọng là giúp đưa các nguồn lực đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất. Trong thế giới không có lợi nhuận - ví dụ, trong xã hội mà các công ti độc quyền của nhà nước quản lí toàn bộ quá trình sản xuất - thì không có gì thúc đẩy người ta chấp nhận rủi ro, và do đó không khuyến khích người ta tìm ra những biện pháp mới nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng. Các nhà lập kế hoạch của nhà nước càng ít có khả năng đầu tư vào những ý tưởng mới. 

Lợi nhuận không chỉ là lợi ích cá nhân. Nó phản ánh giá trị mà người sản xuất đã mang lại cho cuộc sống của những người khác. Lợi nhuận chỉ xuất hiện nhờ thói quen mua hàng của những người tiêu dùng đã được thỏa mãn - vì, nếu có cạnh tranh thì họ không bị bắt buộc phải trao đổi với những người mà họ không muốn trao đổi một cách tự nguyện. Thật vậy, doanh nhân càng thu được nhiều lợi nhuận thì chắc chắn là họ đang tạo ra thêm giá trị và xã hội sẽ ngày càng thịnh vượng hơn. 

Kirzner khẳng định rằng ngay cả may mắn cũng phải được tưởng thưởng. Bởi vì thị trường là quá trình khám phá, mà người ta tìm ra những cơ hội và khả năng mà người khác không có, lợi nhuận của việc làm đó phải thuộc về người khám phá. Nói cho cùng, điều đó sẽ khuyến khích những người khác hành động như doanh nhân, chấp nhận rủi ro và khám phá thêm nhiều cơ hội và khả năng trong việc đem lại lợi ích cho những người khác. 

Sự linh hoạt của doanh nhân 

Khi các nhà kinh tế học Áo thảo luận về các doanh nhân hay người đầu cơ, họ không nghĩ tới hình ảnh những nhà tư bản giảo hoạt đỏm dáng. Bởi vì tương lai là không chắc chắn, cho nên họ coi tất cả hành động đều là đầu cơ. Ở mức độ nào đó, mọi người đều là doanh nhân, tức là người đang tìm cách sử dụng các kĩ năng và nguồn lực của mình nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Điều đó cũng đúng đối những người lao động đăng kí học một khóa đào tạo với hi vọng cải thiện được triển vọng nghề nghiệp của mình, cũng như đối với các nhà điều hành doanh nghiệp, những người xây dựng nhà máy hay những người môi giới đang bán chứng khoán. 

Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại đã chuyên môn hóa của chúng ta, một số người là doanh nhân chuyên nghiệp thì cũng như những người khác là bác sĩ hay kĩ sư mà thôi. Theo Kirzner, các doanh nhân đưa vào tiến trình thị trường không chỉ đổi mới và kĩ năng tổ chức của họ mà còn đưa vào cả sự tỉnh táo của họ. Họ đang tìm cơ hội kiếm lời - ở đâu nhu cầu của người tiêu dùng chưa được đáp ứng hay có thể mang tới nơi nào những món hàng tốt hơn và rẻ hơn. Họ phải luôn luôn tỉnh táo thì mới phát hiện được những thay đổi trên thương trường và tìm cách dự đoán những thay đổi đó và kiếm lời từ những thay đổi đó trước khi những người kém tỉnh táo hơn phát hiện ra. Họ có thể nắm được thông tin chính xác hơn người khác, vì họ có hiểu biết sâu sắc hơn về những thị trường cụ thể mà họ coi là nghề chuyên môn của mình - tạo điều kiện cho họ phán đoán nhanh hơn và chính xác hơn về nhu cầu trong tương lai. Hoặc chỉ vì họ có thể suy nghĩ một cách sáng tạo và tìm ra những biện pháp mới để sản xuất rẻ hơn, cải tiến sản phẩm hay tìm ra những biện pháp hoàn toàn mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Sự kiện là họ thành công và có lời khuyến khích những người kém tỉnh táo hơn hay có ít thông tin hơn làm theo họ. Bằng cách đó, họ đã đóng góp sức lực của mình vào quá trình cải thiện liên tục mức sống của tất cả mọi người. 

Một lần nữa, toàn bộ thị trường điều chỉnh, hướng các nguồn lực vào những kẽ hở mà các doanh nhân tỉnh táo nhất đã phát hiện ra. Với ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh đang tìm kiếm kẽ hở tương tự trên thương trường, người ta ngày càng khó kiếm lời hơn; và trong tiến trình tìm hiểu, đầu cơ và khám phá không ngừng như thế, các doanh nhân sử dụng kiến thức và kĩ năng đặc biệt của mình để tìm ra những nơi mới có thể có lời bằng cách cung cấp giá trị cho người tiêu dùng, và do đó thúc đẩy sự thịnh vượng của xã hội. 

Vì vai trò quan trọng như thế của doanh nhân trong việc duy trì và nâng cao đời sống của chúng ta, cho nên Kirzner khẳng định rằng, quan trọng là không được bóp nghẹt nó. Ví dụ, các quy định của chính phủ có thể dập tắt một số cơ hội của các doanh nhân dẫn đến kết quả là làm lợi cho những người khác. Thuế khóa có thể làm một số cách tân mất hết giá trị, nó cũng làm giảm động cơ đổi mới vì “ăn” mất lợi nhuận trong tương lai - lợi nhuận, xin nhớ như thế, chỉ là triển vọng không chắc chắn và đầy rủi ro. 


October 29, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (3)

 

EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 4

Vai trò quan trọng của giá trị 

           Giá trị không phải là tính chất của đồ vật, tương tự kích thước hay trọng lượng của chúng. Những người khác nhau đánh giá các món hàng hoá ở những thời điểm và địa điểm khác nhau một cách khác nhau. Giá trị chỉ tồn tại trong tâm trí của những người liên quan mà thôi. 

           Chúng ta không thể biết được người ta nghĩ gì, nhưng chúng ta có thể có một số ý niệm về thước đo các giá trị của họ bằng cách nhìn vào những thứ họ lựa chọn trên thực tế. 

           Lựa chọn và giá trị không phải là giá trị toán học: Người bị đau đầu không cho rằng 100 viên aspirin thì giá trị gấp 50 lần 2 viên. 

Phương pháp tiếp cận kinh tế học của Trường phái Áo hoàn toàn khác với phương pháp tiếp cận của khoa học tự nhiên - mặc dù các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng đấy là phương pháp rất khoa học. Nó có thể được sử dụng để dự đoán, nhưng đây là những dự đoán theo kiểu khác, chứ không như những dự đoán được đưa ra - hoặc tuyên bố - bởi các nhà khoa học tự nhiên. 

Kinh tế học chắc chắn là phải khác, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, vì kinh tế học liên quan đến các cá nhân; và - khác với các vật thể vô tri vô giác mà các nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu - các cá nhân có động cơ và mục đích riêng của mình, đấy cũng là những thứ làm cho họ có sức sống. Nhà vật lí học khó mà dự đoán được rằng không khí sẽ dãn nở nếu các phân tử trong chất khí đó có cuộc sống của riêng chúng và một số phân tử bắt đầu phàn nàn về cuộc thí nghiệm, trong khi số khác lại hoan nghênh. Tương tự, thật khó dự đoán các số liệu thống kê kinh tế khi động cơ và hành động của cá nhân rất đa dạng, luôn luôn thay đổi và mâu thuẫn với nhau như ta đang thấy. 

Như vậy, “sự kiện” của khoa học kinh tế không phải là những con số thống kê gộp như giá cả, đầu tư, hay tiết kiệm. Thậm chí đấy cũng không phải là kế hoạch tiết kiệm, đầu tư hay giá cả của cá nhân. Những con số này chỉ quan trọng đối với các cá nhân, và sự lựa chọn mà các cá nhân làm. Các “sự kiện” của kinh tế học không phải là đồ vật mà là cái mà người ta nghĩ và tin vào thế giới, cái mà họ kì vọng là sẽ xảy ra và cái gì là quan trọng nhất đối với họ và thúc đẩy họ hành động. Phương pháp tiếp cận này được gọi là chủ nghĩa chủ quan, bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của ý kiến cá nhân, có tính chủ quan so với những thứ khách quan có thể đo đếm được. Theo quan điểm này, kinh tế học là nói về những thứ mà người ta đánh giá cao, và những việc mà họ làm, sau khi đã đưa ra đánh giá. 

Giá trị là ở trong đầu óc người ta chứ không phải trong đồ vật 

Người ta rất hay nhầm lẫn về giá trị, và đã như vậy cả ngàn năm rồi. Nhiều người quan niệm rằng giá trị là các món hàng khác nhau thì có giá trị khác nhau - tức là phẩm chất có thể đo lường được, tương tự khối lượng hay trọng lượng của chúng. Nhưng giá trị không phải là một phẩm chất khách quan nằm trong chính sự vật. Giá trị nằm trong đầu óc của người chứng kiến. Cùng một đồ vật, nhưng những người khác nhau lại đánh giá khác nhau - tương tự những người mua bán trên thị trường chứng khoán, có người nghĩ rằng đó là lúc nên mua, trong khi người khác lại nghĩ rằng đó là lúc nên bán. Giá trị mà chúng ta gán cho nó một cái gì đó là vấn đề đánh giá cá nhân, cảm tính. Nó phản ánh những lợi ích mà chúng ta tin rằng cái đó sẽ mang lại cho chúng ta. Phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và tâm lí của chúng ta - chúng ta có thể đánh giá rất cao một chiếc áo ấm, khi đang có bão tuyết, nhưng khi ở trong sa mạc thì không. Và nó phụ thuộc vào việc niềm tin của chúng ta dựa trên cơ sở kiến thức vững chắc đến mức nào - chúng ta thường đánh giá một cái gì đó quá cao, nhưng lại thất vọng khi đã nắm được nó trong tay. 

Những thứ chúng ta coi là có giá trị cũng thay đổi vì sản phẩm mới và quy trình được cải tiến và công nghệ thay đổi, chuyển ước muốn của chúng ta sang những thứ tốt hơn hoặc rẻ hơn. Kết quả không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được: Mises nói, sản xuất hàng loạt của một món quần áo nào đó có thể làm cho nó trở thành hấp dẫn vì hợp túi tiền đối với những khách hàng nghèo hơn, nhưng lại làm cho những người giàu, có ý thức về thời trang, bỏ loại trang phục này và đi tìm một cái gì đó độc đáo hơn. 

Mặc dù kinh tế học bắt nguồn từ các giá trị của con người, nhưng nó không phải là một nhánh của tâm lí học. Nó không quan tâm tới lí do vì sao người ta đánh giá cao những thứ khác nhau - ví dụ, vì sao họ lại uống rượu - mà chỉ quan tâm tới kết quả những giá trị của những thứ mà họ lựa chọn trên thương trường - như ở nồng độ cồn cần phải có ở mỗi mức giá khác nhau. Kinh tế học phải coi đánh giá và mục đích của các cá nhân là những số liệu “cho trước” vì nó không bao giờ có thể thâm nhập được vào đầu óc của người ta. Thay vào đó, nó chú ý vào hành động của họ - những việc họ làm, như là kết quả của các đánh giá và mục đích của họ. Như Mises mô tả, kinh tế học là một phần của khoa học có tính khái quát hơn về hành vi của con người (mà ông gọi là khoca học về hành vi của con người (nhân hành học) - praxeology). 

Tuy nhiên, nó khác với khoa học tự nhiên, tức là những môn khoa học bắt nguồn từ việc quan sát các sự vật và hiện tượng để đưa ra những lí thuyết có tính dự đoán và kiểm tra những lí thuyết này. Thứ nhất, chúng ta không thể quan sát đánh giá của người ta một cách chính xác vì chúng ta không thể thâm nhập vào đầu óc của họ. Thứ hai, chúng ta không thể kiểm tra các lí thuyết về những việc người ta làm, vì những hoàn cảnh chính xác như thế có thể không bao giờ lặp lại. Thế giới thay đổi liên tục và những giá trị mà người ta coi trọng cũng như động cơ của họ cũng thay đổi. 

Mises gọi kết quả thực sự của tất cả những hành động và tương tác “loạn xà ngầu” này là hành vi kinh tế của con người (catallaxy), vì sợ rằng thuật ngữ thông thường “nền kinh tế” ám chỉ một cái gì đó quá cơ khí, cố ý và được kế hoạch hóa. Và việc nghiên cứu về kinh tế của những kết quả này được ông gọi là catallactics*. (catallactics - bộ môn nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, cũng tức là nghiên cứu việc hình thành giá cả từ những hoạt động trao đổi của con người - ND) 

Bản chất của khoa học kinh tế 

Nhưng, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng kinh tế học là môn khoa học có thể khám phá các sự kiện và thậm chí đưa ra được những dự đoán - không phải trên cơ sở quan sát, lập thuyết và kiểm nghiệm, mà thông qua diễn dịch. Hệt như hình học hay toán học là những môn học xuất phát từ một vài tiên đề đơn giản về đường thẳng hoặc con số, do đó, kinh tế học có thể được diễn dịch từ một vài tiên đề đơn giản về hành vi của con người. Chúng ta biết một số thứ về cách thức người ta chọn để làm cái này hay cái kia, vì chúng ta cũng là những con người. Và từ đó, chúng ta có thể suy ra khá nhiều kiến thức về kinh tế học. Ví dụ, chúng ta có thể phân tích các nguyên tắc của cầu hay giá cả được quyết định như thế nào, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể biết vì sao những người khác nhau lại muốn mua những món hàng hóa khác nhau. 

Tương tự, mặc dù chúng ta không thể biết những thứ mà một người đánh giá cao nhưng từ những lựa chọn của họ trên thực tế chúng ta có thể xây dựng được bức tranh về những đánh giá đó. Khi người ta chọn một đường lối hành động này chứ không chọn đường lối khác, chúng ta có thể có lí do để giả định rằng đó là đường lối mà họ ưa thích hơn, đường lối được họ đánh giá cao hơn. Đối với họ, những việc họ quyết định làm quan trọng hơn là những việc họ quyết định không làm. Khi quan sát người ta tiến hành một loạt lựa chọn, chúng ta có thể xây dựng được một bức tranh về các giá trị mà họ đánh giá cao thông qua những sở thích mà họ tiết lộ ra bằng hành động - đấy là cái mà Mises gọi là sở thích được bộc lộ (). Chúng ta không thể tiếp cận với những đánh giá của họ, nhưng từ những thứ mà người ta lựa chọn trên thực tế, chúng ta có thể suy ra chúng. Và đây là biện pháp mà chúng ta sử dụng để đưa ra các nguyên tắc của kinh tế học, tức là các nguyên tắc của lựa chọn. 

Cách suy nghĩ như thế đã tạo điều kiện cho Carl Menger phát minh ra môn khoa học mới về giá trị và hành động, môn khoa học này có tính cách mạng và hữu ích đến mức hiện nay vẫn còn được sử dụng (và bị lạm dụng) trong những sách giáo khoa về kinh tế học dòng chính - Phân tích lợi ích biên. 

Tính toán để lựa chọn 

Một thứ luôn luôn làm cho các nhà kinh tế học bối rối là vì sao nước - quan trọng như thế với đời sống - lại rất rẻ, trong khi viên kim cương - không cần thiết đối với đời sống - lại quá đắt. Menger có câu trả lời. Các cá nhân không bao giờ phải lựa chọn là sở hữu toàn bộ nước trên thế giới, hay sở hữu tất cả kim cương trên thế giới. Họ chỉ đứng trước những lựa chọn là cần mỗi thứ một ít mà thôi - ví dụ, một cốc nước hay một viên kim cương. Hầu hết mọi người đã có đủ nước để thỏa mãn cơn khát của mình, và do đó họ không đánh giá cao cốc nước mà họ được nhận thêm. Nhưng, ít người tin rằng họ có đủ kim cương, vì vậy, họ sẵn sàng trả nhiều tiền để mua thêm một viên nữa. Họ không nghĩ rằng thêm một cốc nước thì sẽ được thêm nhiều lợi ích, nhưng họ tưởng tượng rằng có thêm một viên kim cương thì sẽ có nhiều cái lợi. Đó là vấn đề được gọi là lợi ích biên - lợi ích mà người ta kì vọng sẽ nhận được khi kho hàng của họ có thêm một ít hàng hóa nữa. 

Tất nhiên, lựa chọn của người ta sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của mình lúc đó. Một người đang chết khát trên sa mạc có thể đánh giá rất cao một cốc nước và sẵn sàng dùng mấy viên kim cương để đổi lấy cốc nước. Một người sống ở đất nước nhiều mưa sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Lợi ích là cái lợi mà một người nào đó kì vọng món hàng nào đó sẽ mang lại cho mình, và như vậy đây là vấn đề đánh giá cá nhân tại địa điểm và thời điểm đó. Một người đang bị đau đầu có thể thích vài viên aspirin, nhưng có thêm một trăm viên nữa cũng chẳng để làm gì. Một người cần mười thanh gỗ để dựng một cái lều (trong ví dụ của Mises) có thể đổi một chiếc áo mưa lấy mười thanh gỗ trở lên, nhưng sẽ không đổi lấy chín thanh, vì không thể dựng được lều để che mưa che nắng. Lợi ích không phải là chất lượng của các đồ vật có thể xếp chồng lên nhau và so sánh như những đống gạch - như những cuốn sách giáo khoa kinh tế học dòng chính thường nói. 

Đây là lí do vì sao các đường bàng quan (indifference curves) cũng làm người ta hiểu sai. Những đường cong này có mục đích là chỉ ra số hàng hóa mà người ta sẵn sàng từ bỏ để đổi lấy món hàng hóa khác. Nhưng tất cả những trao đổi như thế phụ thuộc vào tình cảm của những người liên quan chứ không phải là công thức toán học đơn giản có thể giúp vẽ thành đồ thị trơn tru - như ví dụ về gỗ và áo mưa cho thấy. 

Xin lấy một gia đình nông dân với năm bao tải thóc làm ví dụ - một bao cho người ăn, một bao nuôi gia súc, một bao làm giống, một bao đem bán để mua nhu yếu phẩm, còn một bao thì để nuôi đàn vẹt cảnh. Không may là họ còn phải dùng một bao để trả nợ. Họ có giảm tất cả các khoản xuống một phần năm, như các nhà toán học đề xuất hay không? Không, họ sẽ ăn, sẽ cho gia súc ăn, sẽ làm giống và bán đúng như trước đây và để cho lũ vẹt chết đói, vì nó có giá trị biên thấp nhất đối với họ. 

Lợi ích biên chính là cơ sở để người ta lựa chọn giữa những đường lối hành động khác nhau. Khi đứng trước các lựa chọn kinh tế - bỏ một cái gì đó để được một cái gì khác mà người ta đánh giá cao hơn, họ sẽ bỏ cái gì? Rõ ràng là họ bắt đầu với thứ mà họ coi là ít quan trọng nhất, tức là bỏ thứ mang lại cho họ ít lợi ích nhất, bỏ thứ có lợi ích biên thấp nhất. Họ sẽ chỉ trao đổi khi lợi ích biên của thứ mà họ nhận được lớn hơn lợi ích biên của thứ mà họ từ bỏ. Công nhận sự kiện này là chìa khóa để hiểu cách thức hoạt động của thị trường. 

Chương 5

Giá cả, Chi phí và lợi nhuận 

           Lựa chọn là từ bỏ một cái gì đó để theo đuổi một cái gì đó mà bạn đánh giá cao hơn.

            Chi phí (cái mà bạn từ bỏ khi bạn chọn) và lợi ích (cái mà bạn thu được) vì vậy mà cũng mang tính cá nhân - cũng như lợi nhuận, tức là sự khác biệt giữa lợi ích và chi phí. 

           Người ta trao đổi các đồ vật vì họ đánh giá chúng khác nhau. Giá cả chỉ đơn giản là tỉ lệ mà người ta sẵn sàng trao đổi. 

           Ý tưởng trong những cuốn sách giáo khoa về “cạnh tranh hoàn hảo” về cơ bản là sai: Sự đa dạng và khác biệt chứ không phải sự đơn điệu làm cho thị trường hoạt động. 

Khi suy nghĩ về kinh tế học là người ta nghĩ về người mua và người bán trong các cửa hàng và ở chợ. Nhưng kinh tế học thực ra là nói về những lựa chọn và hành động của con người theo nghĩa rộng nhất, chứ không chỉ nói về những lựa chọn và hành động liên quan tới tiền bạc. 

Tôi có nên nằm nghỉ trên giường hay đi cắt cỏ? Đó là lựa chọn giữa việc nghỉ ngơi và niềm vui là tôi sẽ có một khu vườn được dọn dẹp gọn gàng. Tôi có nên đi chơi với bạn bè hay ở nhà đọc cho xong cuốn sách? Đó là sự lựa chọn về cách chia thời gian của tôi giữa hai việc mà tôi cùng muốn làm. Tôi có nên dùng thời gian rỗi vào việc nấu một bữa ăn ngon hay đi hiến máu? Đó là sự lựa chọn giữa một bữa ăn vui vẻ và cảm giác ấm áp vì tôi sẽ giúp đỡ người khác. Tôi nên đi bộ hay đi xe buýt? Mua áo khoác hay là không? Đi khám bệnh hay là tiếp tục chịu đau họng? Tất cả đều là lựa chọn. 

Hầu hết các lựa chọn hằng ngày của chúng ta là như thế. Không có lựa chọn nào liên quan tới tiền bạc. Nhưng đấy là những lựa chọn “kinh tế” theo nghĩa là để được một cái gì đó thì chúng ta phải từ bỏ một cái gì đó khác. Điều đó làm cho những lựa chọn này giống như các giao dịch trên thương trường, nơi mà chúng ta bỏ tiền để mua món hàng mà chúng ta muốn. Kinh tế học áp dụng được cho cả lựa chọn liên quan tới tiền lẫn lựa chọn không liên quan tới tiền.

 Lựa chọn và hài lòng 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng, khi lựa chọn là chúng ta đang theo đuổi một tình huống được ưa thích hơn so với tình huống không được ưa thích bằng. Khi chúng ta quyết định đi cắt cỏ, đi chơi với bạn bè hay hiến máu là vì chúng ta tin rằng những đường lối hành động này sẽ làm cho chúng ta hài lòng hơn những lựa chọn thay thế khác. Chúng ta có thể sai - ví dụ, trong lúc đi chơi, chúng ta có thể sẽ cãi nhau với bạn bè và ước gì cứ ở nhà - nhưng, chúng ta vẫn tiếp tục theo đuổi kết quả hay mục tiêu đáng mong muốn hơn, đấy chính là cái mà chúng ta kì vọng. 

Từ đó suy ra rằng chúng ta sẽ đặt ưu tiên cho việc theo đuổi những mục tiêu làm cho chúng ta hài lòng nhất. Rất đơn giản, chúng ta thích cái làm cho chúng ta hài lòng hơn là cái làm cho chúng ta không được hài lòng bằng. Vì vậy, chúng ta chọn đường lối hành động mà kết quả sẽ làm cho chúng ta hài lòng nhất. Nói cách khác, chúng ta làm những việc khiến chúng ta hài lòng nhất. Và vì thế, chúng ta đặt ưu tiên là tránh những kết quả mà chúng ta nghĩ rằng sẽ làm cho chúng ta thất vọng nhất; và, do đó, chúng ta hành động để làm giảm bớt sự thất vọng của mình. Các nhà kinh tế học không cần phải biết chính xác người ta coi cái gì làm họ thỏa mãn hay thất vọng. Đấy chỉ là phép diễn dịch theo lối logic mà thôi. Khi chúng tôi chấp nhận rằng người ta hành động nhằm đạt mục tiêu mà họ ưa thích hơn, thì sẽ suy ra rằng họ hành động nhằm tối đa hóa sự hài lòng và làm giảm sự thất vọng của họ. 

Bản chất cá nhân của chi phí 

Nhưng, việc theo đuổi sự hài lòng của chúng ta không phải là đơn giản. Chúng ta thường phải từ bỏ một cái gì đó thì mới có được sự hài lòng. Phải mất chi phí. Không cần phải là chi phí tài chính, và trong nhiều trường hợp đấy không phải là chi phí tài chính. Cắt cỏ làm cho chúng ta mất một ít sức lực. Đọc hết cuốn sách thì chi phí là một buổi tối vui vẻ với bạn bè. Hiến máu, thì chi phí là thời gian mà chúng ta bỏ ra và có lẽ là một chút khó chịu nữa. Khi xem xét liệu có nên theo đuổi mục tiêu nào đó làm chúng ta hài lòng hay không theo đuổi thì chúng ta cũng phải xem xét những chi phí để có thể đạt được mục tiêu đó, đấy là khoảng thời gian hay công sức phải bỏ ra hay đánh mất niềm vui nếu làm những việc khác. 

Và điều thú vị là tất cả những suy nghĩ này đều nằm trong đầu óc của cá nhân. Bãi cỏ gọn gàng không chứa một số lượng hài lòng khách quan, có thể đo lường được, mà bất kì người nào có máy cắt cỏ cũng thu lượm được. Sự hài lòng về một bãi cỏ gọn gàng chỉ có trong đầu óc của những người quan sát nó; một số người có thể đánh giá rất cao, trong khi một số người khác hầu như chẳng thấy nó có giá trị gì. Tương tự, thời gian và sức lực bỏ ra để cắt cỏ không thể đo lường được bằng đơn vị của sự không hài lòng. Một số người có thể đánh giá thời gian của họ cao hơn những người khác, những người yếu có thể cảm thấy bực bội khi phải dùng sức lực hơn là những người khỏe mạnh. Nó phụ thuộc vào mỗi người và những giá trị cụ thể mà họ đánh giá cao. Vì thế, như Wieser đã chỉ ra, lợi ích chỉ xuất hiện trong đầu óc của các cá nhân, chi phí cũng thế. Chi phí và lợi ích không phải là những giá trị có thể đo lường một cách khách quan, mà là những giá trị chủ quan. 

Trên thực tế, những lựa chọn của chúng ta thậm chí không đơn giản vì khi chúng ta chọn theo đuổi mục tiêu được ưa thích hơn thì chúng ta đã phải bỏ một loạt cơ hội khác. Vâng, chúng ta có thể nằm trên giường chứ không đi cắt cỏ. Nhưng chúng ta cũng có thể dọn dẹp nhà cửa, nướng bánh, viết email, dắt chó đi dạo, giải ô chữ và nhiều thứ khác; mỗi thứ sẽ mang lại cho chúng ta một sự hài lòng nào đó. Khi quyết định không làm những việc này và đi cắt cỏ, chúng ta phải từ bỏ những lựa chọn và cơ hội thỏa mãn mà những việc này sẽ mang lại cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta đứng trước điều mà các nhà kinh tế học gọi là chi phí cơ hội. Khi quyết định một đường lối hành động, chúng ta phải xem xét không chỉ thời gian và sức lực để thực hiện, mà còn phải xem xét giá trị của những cơ hội khác mà chúng ta bỏ qua. 

Lợi nhuận cũng mang tính cá nhân 

Kết luận thú vị khác là bản chất của lợi nhuận. Khi nghĩ về lợi nhuận, người ta thường nghĩ đến sự khác biệt giữa số tiền mà doanh nhân phải bỏ ra để có thể mang lại món hàng nào đó ra thị trường và số tiền mặt người đó nhận được sau khi bán hàng. Nhưng một lần nữa, lợi nhuận thực ra không chỉ là tiền. Nó chỉ xuất hiện trong đầu óc của những người liên quan mà thôi. 

Khi đạt được mục tiêu ưa thích hơn - ví dụ, bãi cỏ sạch sẽ và gọn gàng - chúng ta lấy làm hài lòng hay được hưởng lợi. Tất nhiên, cảm giác hài lòng là hoàn toàn cá nhân - hay còn gọi là có tính chủ quan. Tương tự, giá trị của những thứ chúng ta sử dụng để giành được mục tiêu nào đó và giá trị của những cơ hội mà chúng ta bỏ qua, những chi phí đó cũng hoàn toàn mang tính chủ quan. Khi chi phí và lợi ích đều mang tính chủ quan, có nghĩa là sự khác biệt giữa chúng - lợi nhuận (hoặc, nếu không may, bạn bị lỗ) cũng là giá trị chủ quan. Lợi nhuận, một lần nữa, lại nằm trong đầu óc của các cá nhân. 

Tại sao chúng ta trao đổi 

Vì các giá trị, sở thích, lợi ích, sự hài lòng, chi phí, lời và lỗ đều là những phán đoán mang tính cá nhân cho nên chúng ta mới trao đổi với nhau. Nếu mọi thứ đều có một giá trị khách quan cụ thể, có thể đo lường được như kích thước hay trọng lượng của chúng, thì không ai lại trao đổi những mặt hàng “có giá trị cao hơn” để lấy những mặt hàng “ít giá trị hơn”. Nhưng, chúng ta trao đổi mọi thứ. Trẻ em trao đổi những món đồ chơi mà chúng đã chán để lấy những món đồ chơi khác mà chúng muốn. Người lớn làm lợi cho nhau. Chúng ta mua tạp chí bằng tiền mặt, và đến lượt mình người bán báo đem tiền đi mua hàng tạp hóa. Không có món đồ chơi, tờ báo hay món hàng tạp hóa nào được tạo ra trong quá trình này, nhưng tất cả những người liên quan đều cho rằng cuộc sống của mình đã được cải thiện, bởi vì họ đã đổi thứ mà họ có để lấy một thứ gì đó mà họ đánh giá cao hơn, dù đấy có là món đồ chơi, tờ báo hay hàng tạp hóa hoặc tiền mặt thì cũng thế. 

Trong những trao đổi này, không có tí cơ học hay toán học nào hết. Người ta không trao đổi những thứ có “giá trị như nhau”, như một số nhà kinh tế học trước khi Trường phái Áo xuất hiện đã nghĩ. Tại sao họ phải bận tâm tới việc trao đổi? Không: Người ta hứng thú trao đổi các thứ chính là vì họ đánh giá chúng một cách khác nhau. Đứa trẻ nào cũng thích món đồ chơi của đứa kia hơn món đồ chơi của mình. Khách hàng thích tờ tạp chí hơn khoản tiền nhỏ mà họ phải bỏ ra để mua. Người bán báo thích các món tạp hóa hơn số tiền mà anh ta bỏ ra. Thị trường hoạt động - và chỉ hoạt động - vì mỗi người đánh giá những món đồ đó một cách khác nhau. Thật vậy, người ta càng không đồng ý với nhau về giá trị và khoảng cách giữa những đánh giá của họ càng lớn thì lợi ích mà họ nhận được từ cuộc trao đổi sẽ càng nhiều. Mỗi người đều mang cái mà họ hoàn toàn không đánh giá cao để đổi lấy cái mà họ muốn.

 Nguồn gốc của giá 

Chúng ta có thể không bao giờ biết được lợi nhuận mà mỗi bên thu được từ những vụ trao đổi này, vì chúng ta không chui vào đầu óc của họ và đo lường được giá trị của những thứ mà họ coi trọng. Nhưng trong nền kinh tế hiện đại, chí ít, chúng ta cũng có thể nhìn thấy và đo lường được số lượng của một món hàng mà họ sẵn sàng bỏ đi để được nhận một món hàng khác - cụ thể là số tiền, nói ví dụ thế, mà người bán báo đòi cho một tờ tạp chí hay số tiền mà người bán tạp hóa đòi cho món hàng mà họ cung cấp. Chúng ta có thể nhìn thấy tỉ lệ mà người ta sẵn sàng trao đổi với nhau. Và chúng ta gọi tỉ lệ trao đổi giữa tiền và những món đồ đó là giá của chúng. Trong nền kinh tế hàng đổi hàng, giá của món hàng nào đó là tỉ lệ trao đổi của nó với gia súc, vỏ sò hay da động vật. Trong nền kinh tế hiện đại, giá được thể hiện bằng tỉ lệ trao đổi với đồng bảng Anh hay đồng USD hoặc bất cứ đồng nội tệ nào khác. 

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng giá - mặc dù có thể quan sát được một cách rõ ràng - không phải là thước đo giá trị của đồ vật. Giá trị mang tính cá nhân, cảm tính và đa dạng. Giá cả chỉ là tỉ lệ trao đổi, là kết quả của nhiều người đang mua bán tất cả mọi thứ trên thương trường - mua bán xảy ra chỉ vì người ta đánh giá các món hàng hóa một cách khác nhau. Mỗi giao dịch diễn ra chỉ với một giá, nhưng hàm ý hai cách đánh giá trái ngược nhau. 

Thị trường hoàn hảo trong các cuốn sách giáo khoa 

Tất cả những điều vừa nói làm cho quan điểm của Trường phái kinh tế học Áo về các thị trường khác hẳn với cách giải thích trong các cuốn sách giáo khoa. Tất nhiên, mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong sách giáo khoa chỉ là mô hình - đơn giản hóa thế giới thực. Nhưng mô hình, trong đó người mua và người bán được cho là giống hệt nhau thì không phải là đơn giản hóa thế giới thực, mà là chối bỏ hoàn toàn thế giới thực. Thị trường chỉ hoạt động vì người ta là những người khác nhau và có những quan điểm khác nhau về giá trị của các đồ vật. 

Các mô hình trong sách giáo khoa cũng giả định giá cả là đại lượng “có trước”. Nhưng giá cả không phải là đại lượng “cho trước” - giá cả là kết quả của vô số các giao dịch giữa những con người khác nhau, mỗi người lại thay đổi ưu tiên khi thời gian và hoàn cảnh thay đổi. Và giá cả dao động theo. Cũng không có “giá cân bằng”, tức là giá, mà ở đó, thị trường đạt trạng thái cân bằng hoàn hảo, vì hoàn hảo ngụ ý không có lí do để thay đổi. Các mô hình này gây ra hiểu lầm nghiêm trọng vì giả định sai về tất cả mọi thứ làm cho thị trường hoạt động trên thực tế.

October 27, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (2)

 


EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 3 

Tại sao các nhà kinh tế học không biết họ đang làm gì 

           Các nhà khoa học tìm những mối liên kết thống kê giữa nguyên nhân và hậu quả. Nhưng các sự kiện kinh tế lại phụ thuộc vào những lựa chọn của cá nhân. Mà lựa chọn thì không thể đoán trước được. 

           Tương tự, những giá trị mà người ta coi trọng là rất đa dạng và mang tính cá nhân, do đó, không thể xử lí theo lối thống kê. 

           Các nhà kinh tế học không nên tìm kiếm những mối liên kết không hề tồn tại, vì vậy, họ nên tập trung vào việc tìm hiểu cách thức người ta lựa chọn. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng các môn khoa học xã hội - ví dụ như kinh tế học - là khoa học, nhưng là những môn khoa học hoàn toàn khác với các ngành khoa học tự nhiên. Thật vậy, kinh tế học không giống bất kì môn khoa học nào mà bạn đã từng gặp. 

Các nhà khoa học tự nhiên - ví dụ, các nhà hóa học hay vật lí học - tìm kiếm những mối liên kết lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng tự nhiên. Họ có thể nói rằng khi nhiệt độ gia tăng, khí sẽ nở ra. Hiện tượng đó sẽ lặp lại khi nhiệt độ gia tăng. Vì thế, họ coi đây là quy luật khoa học phổ quát - khi (và bất cứ ở đâu) tăng nhiệt độ lên thì khí sẽ nở ra. Họ dự đoán rằng hiện tượng tương tự cũng sẽ xảy ra trong tương lai. Và bằng cách đo quy mô của hiệu ứng, họ có thể tìm được một số hằng số - ví dụ, thể tích của một loại khí cụ thể nào đó sẽ tăng thêm 2% khi nhiệt độ tăng thêm 1°. 

Phương pháp khoa học này cực kì hiệu quả trong việc giúp chúng ta dự đoán thế giới tự nhiên, vì vậy, hầu hết các nhà khoa học xã hội cũng đều nghĩ rằng họ nên làm như thế. Họ tin rằng phải tìm những mối liên kết và các hệ số tỉ lệ giữa các hiện tượng xã hội, như các nhà vật lí học hay hóa học làm đối với các hiện tượng tự nhiên. Ví dụ, các nhà xã hội học có thể tìm kiếm quan hệ giữa mật độ dân cư trong một thành phố và số vụ tội phạm bạo lực trên đường phố của thành phố này. Tương tự, các nhà kinh tế học có thể tìm kiếm quan hệ giữa các hiện tượng xã hội trong lĩnh vực kinh tế - ví dụ, giữa thu nhập của một quốc gia và số tiền mà nước này tiết kiệm được. 

Bằng biện pháp như thế, cuối cùng, các nhà kinh tế học sẽ tìm được mối liên kết giữa những đại lượng tổng gộp trong đời sống kinh tế, trên bình diện toàn xã hội, ví dụ như thu nhập, tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng, nhập khẩu, xuất khẩu, thuế khóa của quốc gia, chi tiêu của chính phủ, việc làm và nhiều vấn đề khác - gọi là các đại lượng gộp kinh tế (economic aggregates). Và họ tìm cách xác định “các hằng số” - ví dụ, khi thu nhập của một nước tăng thêm 4% thì tổng số tiền tiết kiệm sẽ tăng thêm 1% - gọi là khuynh hướng tiết kiệm biên. 

Tầm quan trọng của việc tập trung vào cá nhân 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng cách tiếp cận này là hoàn toàn sai. Họ khẳng định rằng không bao giờ có bất kì quy luật hay hệ số tỉ lệ phổ quát nào giữa những con số thống kê vừa nói, đấy chỉ là tổng của nhiều thứ, khác nhau và thậm chí là mâu thuẫn với nhau, đang diễn ra trên thực tế mà thôi. Ví dụ, con số thống kê là chỉ số giá tiêu dùng, mà các chính phủ công bố mỗi tháng. Mục đích của nó là chỉ cho người ta thấy mức giá và mức độ thay đổi của nó. Nhưng Mises và các nhà kinh tế học Trường phái Áo khác nói rằng không có cái gọi là “mức giá”. Có hàng triệu giá cụ thể, tất cả đều thay đổi, cái này thay đổi thì cái khác cũng thay đổi theo (Ví dụ, xin nhìn vào những biến động bất thường đang diễn ra hằng ngày của giá cả trên thị trường chứng khoán). Những người khác nhau phản ứng với sự biến động của giá cả theo những cách khác nhau - giá tăng có thể thuyết phục một số người rằng đây là thời điểm cần mua, trong khi những người khác có thể nghĩ rằng đây là thời điểm cần bán và thu tiền mặt. 

Vậy, hiện tượng thực sự xảy ra là hàng triệu cá nhân đang lựa chọn - dù mua hay bán, dù tăng chi tiêu hay tăng tiết kiệm, dù đấy là đầu tư để mua máy mới hay thuê thêm nhân viên thì cũng thế. Sự lựa chọn sẽ phụ thuộc vào quan điểm và hoàn cảnh của từng người, và những người khác nhau có thể quyết định hoàn toàn khác nhau. Số liệu gộp trong kinh tế chỉ đơn giản che giấu tất cả sự đa dạng vô cùng to lớn này bằng một con số thống kê duy nhất. Chúng cho chúng ta rất ít thông tin và làm cho chúng ta hiểu sai rất nhiều - và đấy là nền tảng rất không vững của “khoa học” kinh tế dòng chính. 

Cái mà kinh tế học cần làm là tìm hiểu những lựa chọn của con người. Đó là, như Menger nói, khoa học về sự lựa chọn. Hành động “kinh tế” bao gồm xem xét những lựa chọn khác nhau, tìm ra những thứ chúng ta phải từ bỏ để thực hiện mỗi lựa chọn, rồi sau đó quyết định dựa trên cân nhắc về được và mất, phù hợp nhất với mục đích của chúng ta. Và đấy là lựa chọn chỉ xảy ra trên bình diện cá nhân. Tập thể - xã hội hay quốc gia hoặc chủng tộc, ví dụ thế - không có trí tuệ riêng của mình: Tập thể không có mục đích. Chỉ có những cá nhân tạo ra tập thể mới có trí tuệ và mục đích. Tập thể không hành động: Tập thể không tiết kiệm hay tiêu thụ hoặc thuê mướn người. Chỉ có các cá nhân tạo ra tập thể mới làm những việc đó. Các “lực lượng” xã hội phi cá tính không tạo ra các sự kiện kinh tế. Sự kiện kinh tế là kết quả của các quyết định kinh tế và hành động của các cá nhân. 

Vì vậy, chỉ có thể hiểu được các sự kiện kinh tế khi phân tích hành động tạo ra chúng, mà cụ thể là những lựa chọn của các cá nhân. Joseph Schumpeter đặt cho cách tiếp cận này một tên gọi hữu ích (mặc dù hơi lủng củng): Cá nhân phương pháp luận.

Phương pháp tiếp cận này không phải là cuộc tranh luận về bản chất của xã hội. Nó không nói “Không có cái gọi là xã hội” hay “Cái toàn thể cũng chỉ là tổng của các bộ phận của nó mà thôi”. Cũng không phải là nói về việc thích chủ nghĩa cá nhân hơn chủ nghĩa xã hội. Mà nó nói về phương pháp của khoa học kinh tế - biện pháp tốt nhất để giải thích các sự kiện kinh tế. 

Tại sao các nhà kinh tế học sai 

Do đó, các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi môn kinh tế vĩ mô về cơ bản là sai và làm cho người ta lầm lẫn. Thứ nhất, môn học này tìm cách cộng những hành động cá nhân chẳng liên quan gì với nhau và dự đoán kết quả, mà đấy đơn giản là công việc bất khả thi. Đó là giả khoa học. Và nỗ lực nhằm áp dụng toán học để xác định “hệ số tỉ lệ” giữa những số liệu gộp trong kinh tế cũng là giả khoa học nốt. Đó là áp dụng số học cho những thứ không thể cộng lại với nhau và cho những ảnh hưởng giả định nhưng không có thật. Vì lí do đó, các nhà kinh tế học Trường phái Áo thường tỏ ra nghi ngờ việc sử dụng toán học và kĩ thuật thống kê, nhưng đấy lại là đặc điểm của kinh tế học dòng chính. 

Thứ hai, kinh tế học phải nói về quá trình tìm hiểu bản chất của sự lựa chọn, chứ không phải nói về việc tìm cách dự đoán những lựa chọn sẽ diễn ra trên thực tế. Cá nhân là những người khác nhau và phức tạp, và đa số thường không biết chính xác họ sẽ chọn cái gì cho đến khi họ thực sự đứng trước lựa chọn - bất cứ người nào đã đi qua một cửa hàng để tìm một món hàng nào đó và ra về với một món hàng khác hẳn đều sẽ đánh giá cao quan điểm này. Nhưng nếu chúng ta có thể hiểu cách thức mọi người lựa chọn thì đấy là khoa học kinh tế thực sự. 

Các nhà kinh tế học dòng chính cho rằng, trên thực tế, họ có phương pháp cá nhân chủ nghĩa của mình. Họ cho rằng “các tác nhân kinh tế” (nghĩa là, các cá nhân) là những người “duy lí” và “tìm cách tối đa hóa thoả dụng” (Có nghĩa là, họ lựa chọn trên cơ sở lợi ích ròng mà họ thu được). Và mô hình về loài người như thế, trên thực tế, giải thích nhiều điều về cơ cấu và hoạt động của các thiết chế kinh tế của chúng ta. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản đối lập luận này, chính vì các cá nhân là những con người khác nhau, chúng ta không bao giờ có thể thâm nhập vào đầu mỗi người và quan sát được những ý nghĩ của riêng họ. Vì vậy, nói về các cá nhân “duy lí” và “tối đa hóa” là không đúng chỗ. Và thậm chí nếu họ có là những người duy lí và tối đa hóa thì chúng ta cũng không bao giờ dự đoán được một cách chắc chắn rằng người ta sẽ chọn cái gì. 

Tuy nhiên, chúng ta có một số kiến thức sâu sắc có thể giúp giải thích quá trình ra quyết định kinh tế vì chúng ta cũng là người và chúng ta cũng có những lựa chọn, có mục đích và theo đuổi đường lối hành động phù hợp. Và quan trọng không kém hiểu biết chủ quan mang tính cá nhân này là chúng ta có thể nghiên cứu cách thức thế giới khách quan tạo ra ảnh hưởng đối với lựa chọn - ví dụ, những biện pháp mà cá nhân dùng để tìm kiếm thông tin định hình các quyết định của họ, chẳng hạn như những sự kiện nào làm cho họ tin rằng xã hội đang thiếu một loại khoáng sản cụ thể nào đó hay một sản phẩm cụ thể nào đó có thể được nhiều người mua. Điều này, một lần nữa, là lĩnh vực nghiên cứu kinh tế phù hợp hơn là môn giả khoa học trong những cuốn sách giáo khoa về kinh tế vĩ mô. 

Chương 4

Vai trò quan trọng của giá trị 

           Giá trị không phải là tính chất của đồ vật, tương tự kích thước hay trọng lượng của chúng. Những người khác nhau đánh giá các món hàng hoá ở những thời điểm và địa điểm khác nhau một cách khác nhau. Giá trị chỉ tồn tại trong tâm trí của những người liên quan mà thôi. 

           Chúng ta không thể biết được người ta nghĩ gì, nhưng chúng ta có thể có một số ý niệm về thước đo các giá trị của họ bằng cách nhìn vào những thứ họ lựa chọn trên thực tế. 

           Lựa chọn và giá trị không phải là giá trị toán học: Người bị đau đầu không cho rằng 100 viên aspirin thì giá trị gấp 50 lần 2 viên. 

Phương pháp tiếp cận kinh tế học của Trường phái Áo hoàn toàn khác với phương pháp tiếp cận của khoa học tự nhiên - mặc dù các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng đấy là phương pháp rất khoa học. Nó có thể được sử dụng để dự đoán, nhưng đây là những dự đoán theo kiểu khác, chứ không như những dự đoán được đưa ra - hoặc tuyên bố - bởi các nhà khoa học tự nhiên. 

Kinh tế học chắc chắn là phải khác, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, vì kinh tế học liên quan đến các cá nhân; và - khác với các vật thể vô tri vô giác mà các nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu - các cá nhân có động cơ và mục đích riêng của mình, đấy cũng là những thứ làm cho họ có sức sống. Nhà vật lí học khó mà dự đoán được rằng không khí sẽ dãn nở nếu các phân tử trong chất khí đó có cuộc sống của riêng chúng và một số phân tử bắt đầu phàn nàn về cuộc thí nghiệm, trong khi số khác lại hoan nghênh. Tương tự, thật khó dự đoán các số liệu thống kê kinh tế khi động cơ và hành động của cá nhân rất đa dạng, luôn luôn thay đổi và mâu thuẫn với nhau như ta đang thấy. 

Như vậy, “sự kiện” của khoa học kinh tế không phải là những con số thống kê gộp như giá cả, đầu tư, hay tiết kiệm. Thậm chí đấy cũng không phải là kế hoạch tiết kiệm, đầu tư hay giá cả của cá nhân. Những con số này chỉ quan trọng đối với các cá nhân, và sự lựa chọn mà các cá nhân làm. Các “sự kiện” của kinh tế học không phải là đồ vật mà là cái mà người ta nghĩ và tin vào thế giới, cái mà họ kì vọng là sẽ xảy ra và cái gì là quan trọng nhất đối với họ và thúc đẩy họ hành động. Phương pháp tiếp cận này được gọi là chủ nghĩa chủ quan, bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của ý kiến cá nhân, có tính chủ quan so với những thứ khách quan có thể đo đếm được. Theo quan điểm này, kinh tế học là nói về những thứ mà người ta đánh giá cao, và những việc mà họ làm, sau khi đã đưa ra đánh giá. 

Giá trị là ở trong đầu óc người ta chứ không phải trong đồ vật 

Người ta rất hay nhầm lẫn về giá trị, và đã như vậy cả ngàn năm rồi. Nhiều người quan niệm rằng giá trị là các món hàng khác nhau thì có giá trị khác nhau - tức là phẩm chất có thể đo lường được, tương tự khối lượng hay trọng lượng của chúng. Nhưng giá trị không phải là một phẩm chất khách quan nằm trong chính sự vật. Giá trị nằm trong đầu óc của người chứng kiến. Cùng một đồ vật, nhưng những người khác nhau lại đánh giá khác nhau - tương tự những người mua bán trên thị trường chứng khoán, có người nghĩ rằng đó là lúc nên mua, trong khi người khác lại nghĩ rằng đó là lúc nên bán. Giá trị mà chúng ta gán cho nó một cái gì đó là vấn đề đánh giá cá nhân, cảm tính. Nó phản ánh những lợi ích mà chúng ta tin rằng cái đó sẽ mang lại cho chúng ta. Phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và tâm lí của chúng ta - chúng ta có thể đánh giá rất cao một chiếc áo ấm, khi đang có bão tuyết, nhưng khi ở trong sa mạc thì không. Và nó phụ thuộc vào việc niềm tin của chúng ta dựa trên cơ sở kiến thức vững chắc đến mức nào - chúng ta thường đánh giá một cái gì đó quá cao, nhưng lại thất vọng khi đã nắm được nó trong tay. 

Những thứ chúng ta coi là có giá trị cũng thay đổi vì sản phẩm mới và quy trình được cải tiến và công nghệ thay đổi, chuyển ước muốn của chúng ta sang những thứ tốt hơn hoặc rẻ hơn. Kết quả không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được: Mises nói, sản xuất hàng loạt của một món quần áo nào đó có thể làm cho nó trở thành hấp dẫn vì hợp túi tiền đối với những khách hàng nghèo hơn, nhưng lại làm cho những người giàu, có ý thức về thời trang, bỏ loại trang phục này và đi tìm một cái gì đó độc đáo hơn. 

Mặc dù kinh tế học bắt nguồn từ các giá trị của con người, nhưng nó không phải là một nhánh của tâm lí học. Nó không quan tâm tới lí do vì sao người ta đánh giá cao những thứ khác nhau - ví dụ, vì sao họ lại uống rượu - mà chỉ quan tâm tới kết quả những giá trị của những thứ mà họ lựa chọn trên thương trường - như ở nồng độ cồn cần phải có ở mỗi mức giá khác nhau. Kinh tế học phải coi đánh giá và mục đích của các cá nhân là những số liệu “cho trước” vì nó không bao giờ có thể thâm nhập được vào đầu óc của người ta. Thay vào đó, nó chú ý vào hành động của họ - những việc họ làm, như là kết quả của các đánh giá và mục đích của họ. Như Mises mô tả, kinh tế học là một phần của khoa học có tính khái quát hơn về hành vi của con người (mà ông gọi là khoca học về hành vi của con người (nhân hành học) - praxeology). 

Tuy nhiên, nó khác với khoa học tự nhiên, tức là những môn khoa học bắt nguồn từ việc quan sát các sự vật và hiện tượng để đưa ra những lí thuyết có tính dự đoán và kiểm tra những lí thuyết này. Thứ nhất, chúng ta không thể quan sát đánh giá của người ta một cách chính xác vì chúng ta không thể thâm nhập vào đầu óc của họ. Thứ hai, chúng ta không thể kiểm tra các lí thuyết về những việc người ta làm, vì những hoàn cảnh chính xác như thế có thể không bao giờ lặp lại. Thế giới thay đổi liên tục và những giá trị mà người ta coi trọng cũng như động cơ của họ cũng thay đổi. 

Mises gọi kết quả thực sự của tất cả những hành động và tương tác “loạn xà ngầu” này là hành vi kinh tế của con người (catallaxy), vì sợ rằng thuật ngữ thông thường “nền kinh tế” ám chỉ một cái gì đó quá cơ khí, cố ý và được kế hoạch hóa. Và việc nghiên cứu về kinh tế của những kết quả này được ông gọi là catallactics*. (catallactics - bộ môn nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, cũng tức là nghiên cứu việc hình thành giá cả từ những hoạt động trao đổi của con người - ND) 

Bản chất của khoa học kinh tế 

Nhưng, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng kinh tế học là môn khoa học có thể khám phá các sự kiện và thậm chí đưa ra được những dự đoán - không phải trên cơ sở quan sát, lập thuyết và kiểm nghiệm, mà thông qua diễn dịch. Hệt như hình học hay toán học là những môn học xuất phát từ một vài tiên đề đơn giản về đường thẳng hoặc con số, do đó, kinh tế học có thể được diễn dịch từ một vài tiên đề đơn giản về hành vi của con người. Chúng ta biết một số thứ về cách thức người ta chọn để làm cái này hay cái kia, vì chúng ta cũng là những con người. Và từ đó, chúng ta có thể suy ra khá nhiều kiến thức về kinh tế học. Ví dụ, chúng ta có thể phân tích các nguyên tắc của cầu hay giá cả được quyết định như thế nào, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể biết vì sao những người khác nhau lại muốn mua những món hàng hóa khác nhau. 

Tương tự, mặc dù chúng ta không thể biết những thứ mà một người đánh giá cao nhưng từ những lựa chọn của họ trên thực tế chúng ta có thể xây dựng được bức tranh về những đánh giá đó. Khi người ta chọn một đường lối hành động này chứ không chọn đường lối khác, chúng ta có thể có lí do để giả định rằng đó là đường lối mà họ ưa thích hơn, đường lối được họ đánh giá cao hơn. Đối với họ, những việc họ quyết định làm quan trọng hơn là những việc họ quyết định không làm. Khi quan sát người ta tiến hành một loạt lựa chọn, chúng ta có thể xây dựng được một bức tranh về các giá trị mà họ đánh giá cao thông qua những sở thích mà họ tiết lộ ra bằng hành động - đấy là cái mà Mises gọi là sở thích được bộc lộ (). Chúng ta không thể tiếp cận với những đánh giá của họ, nhưng từ những thứ mà người ta lựa chọn trên thực tế, chúng ta có thể suy ra chúng. Và đây là biện pháp mà chúng ta sử dụng để đưa ra các nguyên tắc của kinh tế học, tức là các nguyên tắc của lựa chọn. 

Cách suy nghĩ như thế đã tạo điều kiện cho Carl Menger phát minh ra môn khoa học mới về giá trị và hành động, môn khoa học này có tính cách mạng và hữu ích đến mức hiện nay vẫn còn được sử dụng (và bị lạm dụng) trong những sách giáo khoa về kinh tế học dòng chính - Phân tích lợi ích biên. 

Tính toán để lựa chọn 

Một thứ luôn luôn làm cho các nhà kinh tế học bối rối là vì sao nước - quan trọng như thế với đời sống - lại rất rẻ, trong khi viên kim cương - không cần thiết đối với đời sống - lại quá đắt. Menger có câu trả lời. Các cá nhân không bao giờ phải lựa chọn là sở hữu toàn bộ nước trên thế giới, hay sở hữu tất cả kim cương trên thế giới. Họ chỉ đứng trước những lựa chọn là cần mỗi thứ một ít mà thôi - ví dụ, một cốc nước hay một viên kim cương. Hầu hết mọi người đã có đủ nước để thỏa mãn cơn khát của mình, và do đó họ không đánh giá cao cốc nước mà họ được nhận thêm. Nhưng, ít người tin rằng họ có đủ kim cương, vì vậy, họ sẵn sàng trả nhiều tiền để mua thêm một viên nữa. Họ không nghĩ rằng thêm một cốc nước thì sẽ được thêm nhiều lợi ích, nhưng họ tưởng tượng rằng có thêm một viên kim cương thì sẽ có nhiều cái lợi. Đó là vấn đề được gọi là lợi ích biên - lợi ích mà người ta kì vọng sẽ nhận được khi kho hàng của họ có thêm một ít hàng hóa nữa. 

Tất nhiên, lựa chọn của người ta sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của mình lúc đó. Một người đang chết khát trên sa mạc có thể đánh giá rất cao một cốc nước và sẵn sàng dùng mấy viên kim cương để đổi lấy cốc nước. Một người sống ở đất nước nhiều mưa sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Lợi ích là cái lợi mà một người nào đó kì vọng món hàng nào đó sẽ mang lại cho mình, và như vậy đây là vấn đề đánh giá cá nhân tại địa điểm và thời điểm đó. Một người đang bị đau đầu có thể thích vài viên aspirin, nhưng có thêm một trăm viên nữa cũng chẳng để làm gì. Một người cần mười thanh gỗ để dựng một cái lều (trong ví dụ của Mises) có thể đổi một chiếc áo mưa lấy mười thanh gỗ trở lên, nhưng sẽ không đổi lấy chín thanh, vì không thể dựng được lều để che mưa che nắng. Lợi ích không phải là chất lượng của các đồ vật có thể xếp chồng lên nhau và so sánh như những đống gạch - như những cuốn sách giáo khoa kinh tế học dòng chính thường nói. 

Đây là lí do vì sao các đường bàng quan (indifference curves) cũng làm người ta hiểu sai. Những đường cong này có mục đích là chỉ ra số hàng hóa mà người ta sẵn sàng từ bỏ để đổi lấy món hàng hóa khác. Nhưng tất cả những trao đổi như thế phụ thuộc vào tình cảm của những người liên quan chứ không phải là công thức toán học đơn giản có thể giúp vẽ thành đồ thị trơn tru - như ví dụ về gỗ và áo mưa cho thấy. 

Xin lấy một gia đình nông dân với năm bao tải thóc làm ví dụ - một bao cho người ăn, một bao nuôi gia súc, một bao làm giống, một bao đem bán để mua nhu yếu phẩm, còn một bao thì để nuôi đàn vẹt cảnh. Không may là họ còn phải dùng một bao để trả nợ. Họ có giảm tất cả các khoản xuống một phần năm, như các nhà toán học đề xuất hay không? Không, họ sẽ ăn, sẽ cho gia súc ăn, sẽ làm giống và bán đúng như trước đây và để cho lũ vẹt chết đói, vì nó có giá trị biên thấp nhất đối với họ. 

Lợi ích biên chính là cơ sở để người ta lựa chọn giữa những đường lối hành động khác nhau. Khi đứng trước các lựa chọn kinh tế - bỏ một cái gì đó để được một cái gì khác mà người ta đánh giá cao hơn, họ sẽ bỏ cái gì? Rõ ràng là họ bắt đầu với thứ mà họ coi là ít quan trọng nhất, tức là bỏ thứ mang lại cho họ ít lợi ích nhất, bỏ thứ có lợi ích biên thấp nhất. Họ sẽ chỉ trao đổi khi lợi ích biên của thứ mà họ nhận được lớn hơn lợi ích biên của thứ mà họ từ bỏ. Công nhận sự kiện này là chìa khóa để hiểu cách thức hoạt động của thị trường.

October 24, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (1)

 


EAMONN BUTLER 

PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch

TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Lời nhà xuất bản 

Xin bạn đọc lưu ý, Nhà xuất bản Tri thức trân trọng giới thiệu cuốn sách Trường phái Kinh tế học Áo - Lược khảo (Austrian Economics - A Primertên sách gốc [Adam Smith Research Trust 2010] của Eamonn Butler, do dịch giả Phạm Nguyên Trường dịch một cách đầy đủ và mạch lạc. 

Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách.

Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng.

 Xin chân thành cảm ơn!

 

Lời giới thiệu 

Trường phái kinh tế học Áo thoạt nghe có vẻ đơn độc và nhỏ bé. Vì nhiều độc giả đương thời hẳn đang nghĩ tới nước Áo như một quốc gia nhỏ bé xinh đẹp giữa lòng châu Âu, và dường như không có tên tuổi của nhà kinh tế lớn nào hay một đại học kinh tế lớn nào gắn liền với nước Áo lúc này. Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng mới chỉ một thế kỷ trước đây thôi, nước Áo - với thủ đô Vienna, đang là trung tâm văn hóa-học thuật và quyền lực vĩ đại bậc nhất thế giới, là trái tim của Đế quốc Áo-Hung từng bá chủ châu Âu một thời gian dài.

Và chính tại nơi đây vào đầu thế kỷ XX, tri thức của loài người đã bùng nổ với những phát kiến quan trọng nhất trong triết học, khoa học, nghệ thuật… có ảnh hưởng đến văn minh loài người trong suốt thế kỷ XX và cho tới bây giờ. Trong bối cảnh đó, từ truyền thống trí tuệ rực rỡ này đã sản sinh ra những nhà kinh tế học lỗi lạc và độc đáo bậc nhất thời hiện đại: Carl Menger (1840-1921), Bohmvon Bawerk (1851-1914), Joseph Schumpeter (1883-1950), Ludwig von Mises (1881-1971), Fredrick von Hayek (1899-1992)… Những trí thức này đã tiến hành phê phán các trường phái kinh tế học đương thời, theo mọi chủ nghĩa, từ tất cả những khía cạnh khác nhau. Từ cuộc chiến tư tưởng đó đã cô đọng lại một hệ thống phương pháp tư duy, nhìn nhận về các vấn đề xã hội và nền kinh tế một cách tổng quát, sâu sắc và độc đáo. Tất cả những đặc điểm đó đã hình thành nên một trường phái kinh tế học đặc biệt, gọi là Trường phái Áo, theo tên gọi của mảnh đất đã nảy mầm và vươn lên những cây cổ thụ. Ảnh hưởng của trường phái này lên lí thuyết kinh tế học và chính sách kinh tế-xã hội là sâu đậm. Với sức sống mạnh mẽ của nó, trường phái Áo đã lan tỏa và sinh sôi ra khắp thế giới.

Bằng tài năng và tri thức uyên bác của mình, tác giả Eamonn Butler đã tóm lược một cách cô đọng và sắc bén những nội dung quan trọng nhất của hệ thống tư duy kinh tế này trong một cuốn sách nhỏ nhắn đến ngạc nhiên. Đây chính là sự ưu việt của tác phẩm này. Người đọc có thể lướt nhanh qua hết cuốn sách chỉ trong vài giờ đồng hồ, là đã “thấy” những điểm cốt tủy của Trường phái Kinh tế Áo. Nhưng bạn sẽ phải quay lại nhiều lần, nghiền ngẫm từng đoạn ngắn để có thể hiểu sâu sắc hơn cách nhìn về thực tại, và sẽ thấy chiều sâu không dễ lĩnh hội của những tư tưởng này. Nhưng nếu chấp nhận mất công cho cuộc vật lộn dài hơn của tư duy, bạn sẽ nhận ra có những cách nhìn mới trong những chiều kích sâu hơn xuyên qua thực tại đang hiển bày của thế giới.

Cuốn sách mỏng này nằm trong hệ thống một loạt sách giới thiệu về tự do kinh tế nói chung của cùng tác giả Eamonn Butler, và đều do dịch giả tài hoa Phạm Nguyên Trường thực hiện. Các tác phẩm đã xuất bản khác như: Khảo lược Adam Smith, Von Mises Lược khảo, Của cải của các quốc gia và lí thuyết về cảm nhận đạo đức rút gọn, đều đã được Nxb Tri thức xuất bản và đều đáng có trong bộ sưu tập của bạn.

Dù không muốn nhắc lại, nhưng tôi mong bạn sẽ đọc cuốn sách nhỏ bé này không chỉ một lần, vì càng về những lần đọc sau, bạn lại càng thấy thế giới khác lạ hơn những gì bạn đang thấy mỗi ngày. 

Hà Nội, ngày 10/10/2018

PGS. TS. Nguyễn Đức Thành

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)

Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

 

Chương 1 

Lịch sử và phương pháp tiếp cận của Trường phái kinh tế học Áo 

           Trường phái kinh tế học Áo là phương pháp tiếp cận với kinh tế học, bắt nguồn từ thành phố Vienna trong những năm 1870. Trường phái này có thái độ phê phán rất mạnh kinh tế học dòng chính hiện đại. 

           Các nhà kinh tế học trường phái Áo (như người ta gọi - mặc dù ngày nay họ có mặt ở khắp mọi nơi) quan niệm rằng tất cả các sự kiện kinh tế đều bắt nguồn từ đánh giá và lựa chọn của các cá nhân cụ thể có liên quan và hoàn cảnh lúc đó. 

           Vì vậy, các nhà kinh tế học trường phái Áo cho rằng các nhà kinh tế học dòng chính sai khi tìm kiếm sự liên kết mang tính thống kê giữa các hiện tượng kinh tế. 

           Các nhà kinh tế học trường phái Áo nói rằng phương pháp tiếp cận mang tính cá nhân và dựa trên đánh giá của các cá nhân cung cấp cho chúng ta lời giải thích tốt hơn về các sự kiện kinh tế như bùng nổ và đổ vỡ (boom and bust). 

Trường phái kinh tế học Áo không phải là trường đại học có trụ sở ở Vienna, cũng không phải nói về nền kinh tế của nước Áo. Thuật ngữ này ám chỉ phương pháp tiếp cận đặc biệt đối với kinh tế học, và ám chỉ các nhà kinh tế học trên thế giới tán thành phương pháp tiếp cận này. 

Các nhà kinh tế học phải làm việc như thế nào 

Tuy nhiên, Trường phái kinh tế học Áo bắt nguồn từ Đại học Vienna (Universityti of Vienna), cùng với việc xuất bản tác phẩm Những nguyên lí của kinh tế học (Principles of Economics) của Carl Menger. Tác phẩm này phê phán những tư tưởng trong kinh tế đang giữ thế thượng phong tại những nước nói tiếng Đức - gọi là Trường phái Lịch sử, do Wilhelm Roscher đứng đầu. Trường phái Lịch sử theo quan điểm cho rằng kinh tế, tương tự lịch sử, đối phó với các sự kiện độc nhất vô nhị, không bao giờ được lặp lại chính xác theo đúng một cách. Do đó, không thể lập ra được các định luật kinh tế chung - tức là những liên kết có thể được áp dụng ở bất kì địa điểm hay thời gian nào, tương tự định luật vật lí - như các nhà kinh tế học thuộc Trường phái Cổ điển Anh từng nghĩ. 

Menger cho rằng các nhà kinh tế học có thể đưa ra được những nguyên lí có thể được áp dụng mọi lúc và mọi nơi, nhưng các nhà kinh tế học người Anh sai vì họ tìm kiếm những liên kết giữa các số liệu thống kê của kinh doanh và thương mại. Menger tin rằng, thống kê chỉ đơn giản là che giấu những sự kiện đang xảy ra trên thực tế. Và những sự kiện đang xảy ra trong kinh tế học là hàng triệu người đang liên tục lựa chọn. Những lựa chọn đó là cơ sở của những hiện tượng kinh tế, ví dụ, cầu, cung, giá và thị trường. Những lựa chọn đó cũng phải là cơ sở của môn kinh tế học. Kinh tế học phải bắt đầu trên bình diện cá nhân - phương pháp tiếp cận được gọi là cá nhân phương pháp  luận (methodological individualism) - và tìm hiểu cách thức các cá nhân lựa chọn. 

Menger còn khẳng định rằng, những lựa chọn trên thực tế mà các cá nhân làm phụ thuộc vào đánh giá và sở thích cụ thể mà họ dành cho những thứ khác nhau. Nhưng đây là vấn đề tình cảm và cảm xúc cá nhân, một cái gì đó mà các nhà kinh tế học không thể tiếp cận trực tiếp được. Nhà vật lí học có thể đo trọng lượng hay khối lượng, nhưng các nhà kinh tế học không thể đánh giá những đồ vật mà những người khác coi trọng, cũng tương tự việc họ không thể đo lường nỗi đau, niềm vui hay tình yêu của một người nào đó. Chắc chắn là, kinh tế học không bàn về những hiện tượng tự nhiên và khách quan, mà bàn về những hiện tượng chủ quan, của con người. 

Dường như cho rằng như thế vẫn chưa đủ, Menger còn tiến hành (cùng với William Stanley Jevons và Leon Walras, mặc dù họ làm việc độc lập với nhau) cuộc cách mạng trong tư duy kinh tế, được gọi là phân tích lợi ích biên (marginal utilitiy analysis). Phân tích lợi ích biên hiện vẫn là thành tố quan trọng của kinh tế học dòng chính. Ý tưởng là, khi người ta tiến hành lựa chọn và buôn bán là người ta tìm cách thu được thứ đáp ứng trước hết những nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Sau đó họ mới chú ý tới những nhu cầu không cấp thiết bằng (hay ngày càng ở “biên” hơn). Tương tự, nếu người ta phải bỏ đi một cái gì đó thì trước hết họ sẽ bỏ cái mang lại cho họ ít thỏa mãn nhất, trước khi họ phải bỏ những thứ mà họ đánh giá cao hơn. Nói cách khác, người ta chọn trên cơ sở của lợi ích biên (marginal utilitiy) mà những món hàng khác nhau cung cấp cho họ. Nguyên tắc này giúp chúng ta hiểu rất nhiều về cách thức mọi người tiến hành các giao dịch kinh tế và cách thức hoạt động của thị trường. 

Làn sóng thứ nhất 

Phương pháp tiếp cận của Menger đã làm bùng lên một cuộc tranh cãi lớn - gọi là Methodenstreit hay là tranh luận về phương pháp - về việc khoa học xã hội, tương tự kinh tế học, trên thực tế, là nói về cái gì. Trong quá trình đó, Menger và những học trò của ông ở Đại học Vienna, Eugen von Böhm-Bawerk và Friedrich Von Wieser, được gọi là “Trường phái kinh tế học Áo”. 

Böhm-Bawerk phát triển phương pháp tiếp cận chủ quan của Menger bằng cách áp dụng vào lĩnh vực lợi tức và vốn. Ông chỉ ra rằng lãi suất phản ánh sở thích đặc biệt của con người, mà cụ thể là sở thích theo thời gian. Chúng ta thích có các món đồ ngay bây giờ hơn là trong tương lai và chúng ta sẵn sàng vay tiền, chịu lãi để mua những món đồ đó. Khi cho người khác vay trong một thời gian, chúng ta đòi họ trả lãi. Và từ nhận định như thế, Böhm-Bawerk rút ra được phần lớn lí thuyết về đầu tư, quá trình sản xuất và phương pháp sử dụng vốn. 

Về phần mình, Wieser đưa chính phương pháp tiếp cận đó vào phân tích chi phí. Ông chỉ ra rằng, chi phí không phải là thước đo khách quan, mà, một lần nữa, xuất phát từ đánh giá chủ quan và sở thích của những người liên quan. Sản xuất là bỏ một số thứ trong giai đoạn hiện tại để làm ra một số thức khác trong tương lai, và nó là vấn đề đánh giá cá nhân, chứ không phải là cân đong đo đếm chính xác, dù những lựa chọn được coi là đáng giá hay không. Wieser nhấn mạnh vai trò của doanh nhân trong việc tìm cho ra - dựa trên sự hiểu biết chuyên môn của họ về thị trường - những đánh giá đó. 

Menger, Böhm-Bawerk và Wieser là những người thuộc “làn sóng thứ nhất” của Trường phái kinh tế học Áo. “Làn sóng thứ hai” do Ludwig von Mises và Friedrich Hayek dẫn dắt, trong những năm 1930, hai ông này đã cộng tác với nhau để lí giải các chu kì kinh doanh - những vụ bùng nổ và đổ vỡ theo chu kì, dường như là đặc điểm thường trực của lĩnh vực thương mại. Họ khẳng định rằng các chu kì này bắt nguồn từ việc ngân hàng bơm tín dụng. Những khoản vay với lãi suất thấp hơn khuyến khích các doanh nhân đầu tư nhiều hơn vào sản xuất và người tiêu dùng mua nhiều hàng hơn. Nhưng khi tác nhân kích thích tín dụng suy giảm thì thực tế lại lại trở về như nó vốn là. Các doanh nhân phát hiện ra là họ mắc quá nhiều sai lầm, kinh doanh suy giảm và các khoản đầu tư với tham vọng quá cao phải bị xoá sổ. 

Sự đe dọa của Chủ nghĩa Quốc Xã ngày càng gia tăng, trong những năm 1930, Hayek và Mises đành phải rời bỏ nước Áo. Mises đến Mĩ, và tập trung vào khoa học về lựa chọn và hành vi của con người, mài sắc thêm những nguyên lí ban đầu của Menger và trình bày những hàm ý của các nguyên lí đó. Ban đầu Hayek tới Anh, rồi mới đến Mĩ, và tập trung nghiên cứu vai trò cực kì quan trọng của thông tin trong việc người ta lựa chọn và cách thức thị trường hoạt động trên thực tế. 

Những nhà kinh tế học Trường pháo Áo đương đại 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo “làn sóng thứ ba” chủ yếu là người Mĩ, trong các trường đại học như New York, Auburn và George Mason. Nhưng họ phản ánh phạm vi rộng lớn hơn của các truyền thống trí tuệ và trong khi nhiều người không ngần ngại tự gọi mình là thuộc “Trường phái Áo”, thì những người khác chỉ chấp nhận là bị ảnh hưởng, với mức độ nhiều ít khác nhau, bởi phương pháp tiếp cận của Trường phái kinh tế học Áo mà thôi. 

Murray Rothbard phải được coi là một trong số những nhà kinh tế học Trường phái Áo nổi bật nhất. Ông này cho rằng để xảy ra các chu kì kinh doanh là do lỗi của các ngân hàng trung ương, và nghiêm khắc phê phán nhà nước từ quan điểm của chủ nghĩa tự do cá nhân. Một yếu nhân khác của Trường phái Áo là Israel Kirzner, người đã chỉ ra tầm quan trọng sống còn của kinh doanh trong việc thúc đẩy tiến bộ kinh tế. Một nhân vật quan trọng nữa là Lawrence White, người đã chỉ ra những biện pháp để ngân hàng hoạt động tốt hơn mà không cần những biện pháp kiểm soát và quy định của chính phủ. Nhưng nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng khác, trong đó có một số người được trao Giải Nobel về kinh tế học, chỉ chấp nhận một số ý tưởng của Trường phái Áo và thừa nhận là mắc nợ Trường phái này. 

Năm 1975, Hayek được trao Giải Nobel cho những công trình về chu kì kinh doanh mà ông thực hiện trong những năm 1930, và sự kiện này đã làm gia tăng mức độ quan tâm trên toàn thế giới đối với những tư tưởng của Trường phái Áo. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học Trường phái Áo vẫn chiếm thiểu số quá nhỏ, nằm bên ngoài và đối lập với quan điểm của kinh tế học dòng chính, với những cuốn sách giáo khoa dạy về kinh tế học. Một phần là do phương pháp tiếp cận của họ khá tinh tế và phức tạp và không dễ giải thích cho sinh viên. Hoặc là vì họ bác bỏ phần lớn những thứ được coi là “kinh tế học” và vì vậy mà bị kinh tế học dòng chính coi là “phi khoa học”. Hoặc do họ bị coi là một phái, không muốn dính dáng với những lời chỉ trích. 

Dù lí do có là gì đi nữa thì sự kiện vẫn là phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo có nhiều thứ để dạy chúng ta về cách người ta lựa chọn - hay “tiết kiệm”, như các chuyên gia thường nói. Và đấy rõ ràng là phần tinh túy nhất của kinh tế học. Do đó, cần phải trình bày các tư tưởng của Trường phái Áo một cách đơn giản, theo cách để nhiều người có thể tiếp cận hơn - ngay cả khi có nguy cơ là bị đơn giản hoá quá mức và bị bóp méo. 

Chương 2 

Những nguyên lí nền tảng của Trường phái kinh tế học Áo 

           Các quyết định kinh tế vốn là xuất phát điểm của tất cả các hiện tượng kinh tế là của các cá nhân và không thể nào dự đoán được. 

           Giá trị không nằm trong đồ vật, mà nằm trong đầu óc của những người coi món đồ đó là có giá trị. Buôn bán và giá cả xuất hiện chính là vì người ta đánh giá các món đồ đó một cách khác nhau. Thị trường đưa các món hàng hoá đến nơi chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Sở hữu tư nhân là yếu tố then chốt để có kết quả tốt nhất. 

           Những biện pháp can thiệp của chính phủ và những chính sách sai lầm như lạm phát, làm gián đoạn tiến trình thị trường rất phức tạp này và luôn luôn dẫn tới những kết quả ngược lại với ý định ban đầu. 

Một số nguyên tắc chính hay các điểm nhấn thể hiện sự khác biệt về quan điểm của Trường phái kinh tế học Áo với quan điểm của các nhà kinh tế học dòng chính. Xin bắt đầu với mười nguyên tắc. Các nguyên tắc này chứa đựng tất cả các lĩnh vực của đề tài, từ bản chất của những hiện tượng mà các nhà kinh tế học phải nghiên cứu, đến giá cả xuất hiện như thế nào (và tầm quan trọng của giá cả trong việc hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng), tới hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, đến các quy định của chính sách. 

Thứ nhất, những điểm mang tính phương pháp luận có thể rất khó hiểu đối với nhiều người. Nhưng quan niệm rõ ràng về điều mà khoa học có thể và không thể nói với chúng ta về đời sống kinh tế của chúng ta là cực kì cần thiết, nếu chúng ta muốn giải thích mọi thứ một cách chính xác, và do đó, đúng là phải bắt đầu từ đây. 

Những nền tảng của kinh tế học

Thứ nhất, kinh tế học là nói về cá nhân. Vì kinh tế học là nói về sự lựa chọn. Chúng ta không thể có tất cả mọi thứ, vì vậy, chúng ta phải chọn những thứ quan trọng nhất đối với chúng ta: Ví dụ, chúng ta thích chiếc xe mới hay kì nghỉ hè? Đi chơi với bạn bè hay nghỉ ở nhà? Bao giờ cũng thế, chúng ta phải từ bỏ một thứ gì đó (ví dụ, tiền, thời gian và công sức) để có được thứ khác (ví dụ, một đôi giày mới hay một khu vườn được dọn). Đây là những quyết định kinh tế - ngay cả khi không liên quan đến tiền. Đấy là những câu hỏi về cách thức chúng ta so sánh các nguồn lực khan hiếm (xe ô tô, ngày lễ, bạn bè, giải trí, tiền bạc, thời gian, công sức) nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của chúng ta. Đấy là những câu hỏi mà kinh tế học nói tới. 

Và chỉ có các cá nhân liên quan mới đưa ra được những quyết định như thế mà thôi. Xã hội không lựa chọn, tập thể không có đời sống hay suy nghĩ của riêng mình, nhà nước có thể quyết định các vấn đề bằng các cuộc bầu cử, nhưng các cá nhân lại chọn cách bỏ phiếu. Vai trò của kinh tế học là tìm hiểu sự lựa chọn và ảnh hưởng của nó, và chúng ta chỉ có thể hiểu điều đó nếu chúng ta tập trung vào cách thức các cá nhân đưa ra quyết định. 

Thứ hai, kinh tế học khác khoa học tự nhiên. Vì nó nghiên cứu những đối tượng khác hẳn. Vật lí học nghiên cứu các đối tượng tự nhiên, có thể quan sát và đo lường được. Có thể biết được bản chất và hành vi của những đối tượng đó và các nhà khoa học có thể dựa vào đó mà đưa ra các dự đoán. Kinh tế học là nói về cách người ta lựa chọn, có nghĩa là nói về những thứ người ta thích và đánh giá cao, dự định và niềm tin của họ về thế giới. Đấy là những cảm xúc cá nhân, cảm xúc của mỗi người mà chúng ta không thể quan sát và đo lường - cũng như không thể dự đoán được. 

Điều chúng ta có thể làm là giải thích những lựa chọn của con người. Chúng ta có thể làm được việc này vì chúng ta cũng là những con người và chúng ta biết cách thức tư duy của chúng ta. Chúng ta có thể hiểu những sở thích, những giá trị, những dự định và niềm tin về thế giới bởi vì chúng ta trải nghiệm tất cả những tình cảm đó. Và chúng ta có thể gia tăng được hiểu biết bằng cách tìm cho ra logic của địa điểm mà những thứ này va chạm tới chúng ta - ví dụ, trên thực tế, thị trường và trao đổi diễn ra như thế nào. Nhưng nhà khoa học tự nhiên lại coi chúng ta như là đối tượng, đang bị các lực lượng bên ngoài xô đẩy, vì vậy mà họ bỏ lỡ mọi thứ bên trong chúng ta, tức là bỏ lỡ những thứ tạo động lực cho chúng ta và giải thích cách sống của chúng ta. 

Giá trị, giá cả và thị trường 

Thứ ba, mọi thứ trong kinh tế học đều dựa trên những giá trị mà con người coi trọng. Giá trị không phải là chất lượng nằm bên trong đối tượng và có thể đo đếm được, như kích thước hay trọng lượng của đối tượng. Cùng một món hàng, nhưng đối với những người khác nhau lại có giá trị khác nhau, tùy thuộc vào việc họ đánh giá giá trị sử dụng của nó. Một người ở đất nước có nhiều mưa có thể đánh giá thấp giá trị sử dụng của một cốc nước, nhưng một người nào đó đang đi trong sa mạc có thể đánh giá nó rất cao. Nhu cầu và đánh giá của con người luôn luôn thay đổi: Một người đang khát có thể đánh giá cao cốc nước, nhưng không đánh giá cao hơn khi họ không còn khát nữa. Do đó, hàng hoá không chứa một số lượng cố định tính hữu ích, hay “thoả dụng”. Tính hữu ích nằm trong tâm trí người sử dụng: Thoả dụng và giá trị là những giá trị chủ quan. 

Nhưng hàng hoá thì có hạn, cũng như thời gian và các nguồn lực khác của chúng ta. Chúng ta phải lựa chọn và cân nhắc ảnh hưởng của những lựa chọn đó. Để theo đuổi một đường lối hành động, chúng ta phải từ bỏ một số thứ nào đó. Và chúng ta gọi cái mà mình từ bỏ là chi phí. Đấy không hẳn là chi phí tài chính - đấy có thể chỉ là thời gian và công sức mà chúng ta bỏ ra để giành được một mục tiêu nào đó, hay bỏ qua những khả năng thay thế khác (đấy là cái mà các nhà kinh tế học gọi là chi phí cơ hội). Nhưng những chi phí này cũng là chủ quan. Điều chúng ta cân nhắc là giá trị của cái mà chúng ta thu được so với giá trị của cái mà chúng ta phải hi sinh. Đó là quyết định mang tính cá nhân: Người khác có thể có lựa chọn hoàn toàn ngược lại. Vì vậy, các nhà kinh tế học phải nhớ (Trường phái kinh tế học Áo nói) rằng tất cả các quyết định kinh tế - từ đầu tư vào sản xuất đến buôn bán và tiêu dùng - bản chất là chủ quan và phụ thuộc vào những giá trị mà các cá nhân có liên quan coi trọng. 

Thứ tư, giá cả giúp chúng ta tối đa hóa giá trị và giảm chi phí. Nguyên nhân là do món hàng mà người ta đem ra trao đổi trên thị trường được những người khác nhau đánh giá khác nhau. Mỗi người đều đánh giá cái mà người kia có cao hơn cái mà họ phải từ bỏ để có được món hàng của người kia. Chúng ta không được rơi vào bẫy khi giả định rằng bởi vì đôi giày (ví dụ thế) được bán với một số tiền cụ thể thì giá của đôi giày là giá trị nó. Giá trị mang tính cá nhân. Người bán giày cho rằng số tiền đó có giá trị hơn đôi giày, nhưng người mua lại cho rằng đôi giày đó có giá trị hơn khoản tiền mà mình vừa đưa cho người kia. 

Tuy nhiên, dù cuối cùng có là giá nào đi nữa thì đấy cũng là số hàng hóa (đôi giày) mà trên thương trường người ta sẵn sàng từ bỏ để nhận lại một thứ khác (tiền mặt). Giá là tỉ lệ trao đổi giữa các món hàng hoá khác nhau. Và giá cả đưa ra tín hiệu quan trọng cho những người tham gia trên thương trường. Nếu giá của một món hàng nào đó tăng - vì bất cứ lí do gì - thì nó cũng đều nhắc nhở người mua sử dụng ít đi và chuyển những khoản chi tiêu của họ sang những thứ được họ đánh giá cao hơn; và nó nhắc nhở người bán sản xuất nhiều hơn và thu được nhiều tiền hơn. Nhờ sự kiện là hệ thống giá cả phát ra thông tin quan trọng này mà cả người mua lẫn người bán đều tự động điều chỉnh lựa chọn của mình cho phù hợp với thực tế mới, và hoạt động của hàng triệu người được phối hợp ăn ý với nhau. 

Thứ năm, cạnh tranh là quá trình khám phá. Thị trường là không hoàn hảo. Thật vậy, chính sự không hoàn hảo lại dẫn dắt thị trường. Những cái không hoàn hảo có tác dụng là vì người ta tìm kiếm những cơ hội mới trên thương trường để trao đổi nhằm làm cho nhau đều được lợi. Có lẽ họ nhìn thấy cách làm một món hàng cụ thể nào đó rẻ hơn hay thị trường ngách  chưa có người cung cấp. Lấp đầy những khoảng trống này tạo điều kiện cho họ làm ra lợi nhuận, họ đưa nguồn lực đến những nơi có nhu cầu cao nhất và chuyển chúng ra khỏi những nơi chúng bị đánh giá thấp hơn. Và sức quyến rũ của lợi nhuận khuyến khích mọi người sẵn sàng hành động khi có cơ hội và sáng tạo để nắm bắt cơ hội - nghĩa là hành động như các doanh nhân. 

Nhu cầu mà doanh nhân đáp ứng càng lớn thì lợi nhuận mà họ có thể hi vọng cũng càng lớn - cho đến khi đối thủ cạnh tranh của họ làm theo. Cho nên thường xuyên có áp lực phát triển các sản phẩm và quy trình mới tốt hơn. Cạnh tranh là quá trình khám phá liên tục của doanh nhân, nhờ đó tất cả chúng ta đều được lợi, đấy là khi những biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của chúng ta một cách tốt hơn và rẻ hơn được phát hiện. 

Thứ sáu, sở hữu tư nhân là cực kì cần thiết. Những người theo mô hình xã hội chủ nghĩa tin rằng chúng ta có thể làm mà không cần sức quyến rũ của lợi nhuận bằng cách biến tài sản thành sở hữu tập thể. Rõ ràng là, không thể áp dụng quan niệm đó cho hàng tiêu dùng, ví dụ, giày dép hay kính, tức là những thứ không thể dùng chung được. Do đó họ tập trung vào sở hữu tập thể các phương tiện sản xuất. Nhưng nếu các nhà máy và máy móc không bao giờ được mua bán thì chúng là những thứ không có giá. Và ở đâu không có giá thì ở đó cũng không có thị trường mà nó có thể giúp chúng ta tìm ra cái gì là khan hiếm và hướng các nguồn tài nguyên tới những chỗ còn để trống. Kết quả là các nhà lập kế hoạch trong các chế độ toàn trị có thể không bao giờ biết liệu các phương tiện sản xuất có làm ra giá trị hay là bị lãng phí. 

Nền kinh tế rộng lớn hơn 

Thứ bảy, sản xuất là hành động cân bằng đầy khó khăn. Vì không có giá cả, những người xã hội chủ nghĩa có thể không đưa ra được quyết định về sản xuất, nhưng đối với các chủ sở hữu tư nhân đấy cũng không phải là việc dễ. Mục đích duy nhất của sản xuất là làm ra hàng hoá mà chúng ta tiêu dùng. Nhưng tất cả các quá trình sản xuất đều đòi hỏi thời gian và có thể cần những bước trung gian phức tạp được kết hợp lại với nhau theo đúng hướng. Bất kì lúc nào hay chỗ nào trong quy trình phức tạp này cũng có thể xảy ra thay đổi về giá cả (ví dụ, giá điện hay tiền lương tăng) hay thay đổi về cầu (ví dụ, đối thủ cạnh tranh sản xuất mặt hàng tốt hơn), thì cũng có thể làm cho sản xuất đi chệch hướng. 

Nếu tư liệu sản xuất được sử dụng trong sản xuất có thể được tái sử dụng cho mục đích nào khác thì doanh nhân có thể phục hồi được. Nhưng nhiều loại tư liệu sản xuất (ví dụ, nhà máy sản xuất thép hay máy in báo) chỉ dùng cho một mục đích cụ thể. Lúc đó, sản xuất là một hoạt động kinh doanh đầy mạo hiểm và có nguy cơ mất mát thật sự. 

Thứ tám, lạm phát là rất tai hại. Nguy cơ mất mát lan tràn khi chính phủ thực hiện chính sách tài chính sai lầm. Đối với Trường phái kinh tế học Áo, tiền cũng là hàng hóa như bất kì món hàng hóa nào khác: Nó có nguồn cung (thường do các cơ quan của chính phủ xác định) và cầu (người ta đánh giá nó như là một phương tiện thuận tiện để trao đổi). Nếu chính phủ tăng nguồn cung thì giá trị của nó giảm. Người bán đòi nhiều tiền hơn thì họ mới bán - vì vậy, giá cả tính bằng tiền gia tăng. Đây là lạm phát. 

Lạm phát là tin tốt cho các con nợ, những người này trả nợ bằng số tiền không còn giá trị như trước và tin xấu cho những người tiết kiệm. Lạm phát làm cho thị trường cho vay và các quá trình sản xuất phụ thuộc vào thị trường này bị mất cân bằng. Nhưng tình hình còn tồi tệ hơn, giá cả trong giai đoạn lạm phát không tăng ngay lập tức và không tăng đồng đều. Giá tăng trước hết ở những nơi mà những món tiền mới được in thêm này được tung vào (ví dụ, doanh nghiệp nhà nước) rồi sau đó lan dần sang các lĩnh vực khác, như giọt mật tràn trên mặt bàn vậy. Vì thế, nguồn lực ban đầu được đưa vào một khu vực, rồi sau đó được đưa vào khu vực khác, tạo ra vụ bùng nổ tạm thời. Nhưng khi tiền đã lan sang tất cả các khu vực thì bùng nổ bắt đầu xẹp dần, các doanh nghiệp thấy rằng các khoản đầu tư của họ bị lãng phí, và kết quả là sẽ có một vụ sụp đổ lan tràn và không thể nào tránh khỏi được. 

Xã hội và chính phủ 

Thứ chín, hành động gây ra những hậu quả không lường trước được - cả tốt lẫn xấu. Về mặt tốt, không phải lúc nào cũng cần lập kế hoạch hay thiết kế một cách có ý thức thì con người mới tạo ra một cái gì đó có giá trị. Thường thì họ làm một cách không chủ ý, như một sản phẩm phụ của hành động mà họ vừa thực hiện. Những người đi từ làng nọ sang làng kia chỉ nghĩ đến việc tìm con đường dễ nhất, nhưng dần dần họ đã tạo ra con đường mòn hữu ích cho tất cả mọi người. Người mua và người bán chỉ nghĩ đến việc tìm kiếm giá trị cho chính mình, nhưng hàng triệu vụ trao đổi như thế lại tạo ra hệ thống giá cả, giúp đưa sức lực và nguồn tài nguyên đến những nơi mà chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Tiền xuất hiện đơn giản là vì mọi người đều muốn có một phương tiện trao đổi được chấp nhận. Do nhu cầu giao tiếp mà ngôn ngữ phát triển. Và thông luật phát triển khi người ta giải quyết những bất đồng, hết vụ nọ đến vụ kia. 

Đạo lí ở đây là chúng ta không nên coi các thiết chế là không có cơ cấu rõ ràng và thiếu hiệu quả chỉ vì các thiết chế này không được thiết kế và lập kế hoạch một cách có chủ ý. Về mặt xấu, nỗ lực của chúng ta nhằm “cải thiện” các thiết chế xã hội - ví dụ như nền kinh tế thị trường tự do - thường làm mất cân bằng những cơ chế phức tạp đã giúp cho thị trường hoạt động và dẫn tới những hậu quả thảm khốc mà chúng ta không hề muốn. 

Mười, sự can thiệp của chính phủ hầu như bao giờ cũng xấu. Các cá nhân chỉ có khả năng rất giới hạn trong việc làm nhiễu loạn tình trạng thăng bằng của các thiết chế xã hội phức tạp của chúng ta, nhưng sức mạnh khổng lồ và tập trung của chính phủ thì có thể làm việc này một cách dễ dàng. Ví dụ, các ngân hàng trung ương muốn giữ lãi suất thấp, nhằm khuyến khích các doanh nhân vay và thúc đẩy sản xuất. Nhưng khi vụ bùng nổ lan từ ngành này tới ngành khác rồi sau đó xẹp dần thì các nguồn lực sản xuất bị lãng phí và người dân trở nên nghèo hơn. 

Chính phủ có thể ủng hộ luật lương tối thiểu nhằm giúp đỡ những công nhân nghèo, nhưng người tuyển dụng lại cho rằng một số công nhân không xứng đáng được trả số tiền như thế, vì vậy, thất nghiệp gia tăng. Tương tự, kiểm soát tiền thuê nhà có thể được áp dụng nhằm giúp người nghèo, làm như thế không chỉ khuyến khích các chủ sở hữu không cho thuê nữa mà còn giúp sử dụng vào những việc khác có lợi hơn. Các nhà quản lí có thể áp đặt những tiêu chuẩn mới, cứng rắn hơn nhằm bảo vệ người dân, nhưng các chi phí phát sinh làm cho những người mới khó thâm nhập thị trường, cạnh tranh giảm đi và người dân rơi vào hoàn cảnh tệ hại hơn. 

Hành động của chính phủ còn thường bị đặt sai chỗ theo một khía cạnh quan trọng khác. Các quan chức không thể nào biết được, trên thực tế, các cá nhân đánh giá cao cái gì. Ví dụ, họ không thể nhìn thấu được tim gan của chúng ta và không thể biết liệu chúng ta có sẵn sàng đóng thêm thuế để có những trường học hay bệnh viện tốt hơn hay không. Giá thị trường có thể nói cho họ biết người dân sẵn sàng từ bỏ cái gì để được những thứ đó, nhưng lờ đi giá cả và tìm cách “cải thiện” thị trường thì chắc chắn là họ sẽ không thể tối đa hóa được những giá trị mà chúng ta coi trọng. Trên thương trường đầy sức sống, nơi mọi người thường xuyên điều chỉnh kế hoạch của mình trước những điều kiện đang thay đổi, các quan chức thậm chí không thể thu thập được các thông tin cần thiết trước khi chúng trở nên lỗi thời, và như thế có thể chắc chắn rằng họ không bao giờ biết người dân sẽ chọn cái gì. Có lẽ chính phủ có vai trò trong việc đảm bảo rằng thị trường hoạt động trôi chảy; nhưng, theo các nhà kinh tế học Trường phái Áo, chính phủ chẳng có việc gì để can thiệp hết.