Chương 6
Phối hợp thông qua thị trường
• Giá cả phối hợp hoạt động của vô số người trên khắp thế giới. Giá cao cho thấy món hàng đó đang khan hiếm, nhưng còn thúc đẩy người ta cung cấp nó và làm cho nó không còn khan hiếm nữa.
• Có nhiều cách khác nhau để sản xuất cùng một sản phẩm. Giá cả khuyến khích người ta sử dụng hỗn hợp đầu vào rẻ nhất. Đến lượt mình, các quyết định của họ lại gây ra ảnh hưởng đối với giá đầu vào trên những thị trường khác, khởi động một loạt vụ điều chỉnh uyển chuyển.
• Thông tin về cung, cầu và giá cả là cực kì cần thiết khi tiến hành các lựa chọn kinh tế. Bằng cách sử dụng thông tin không đầy đủ, luôn luôn thay đổi, có tính khu vực và cá nhân, thị trường có thể đưa ra những lựa chọn nhanh hơn và tốt hơn hẳn so với các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
• Thị trường đưa giá trị của những món hàng mà mỗi người làm ra cho những người khác - không phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của người sản xuất và giá trị gia tăng là do làm việc chăm chỉ, phán đoán chính xác hay chỉ là may mắn.
Mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong các cuốn sách giáo khoa phải chịu trách nhiệm về rất nhiều chính sách sai lầm. Nó làm cho người ta mường tượng rằng thị trường trong thế giới thực là “không hoàn hảo” và phải có những biện pháp nhằm khắc phục những hiện tượng không hoàn hảo đó. Nó giả định rằng các nhà cung cấp là những người hoàn toàn giống nhau, rằng các nhà cung cấp mới không gặp bất cứ rào cản nào khi tham gia thị trường và cạnh tranh sẽ làm cho lợi nhuận giảm xuống một mức nào đó chung cho tất cả các ngành nghề. Vì vậy, khi người ta thấy rằng trong thế giới thực, những người mới bước vào thương trường gặp khá nhiều rào cản, các nhà cung cấp không phải là những người giống hệt nhau và một số doanh nhân lãi to, họ liền coi đấy là những “thất bại của thị trường”, cần phải được điều chỉnh.
Nhiều người còn đi xa hơn, họ nói rằng hệ thống thị trường - vì không được lập kế hoạch và không có chỉ đạo từ trung ương - không bao giờ có thể cung cấp được lợi ích kinh tế một cách hợp lí hoặc hiệu quả. Vì vậy, họ kêu gọi kế hoạch hóa cả quá trình sản xuất lẫn phân phối.
Thị trường hóa giải những khác biệt của chúng ta
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản bác rằng, trên thực tế, thị trường là hệ thống cực kì hiệu quả; nó hướng các nguồn lực, trong đó có thời gian và kĩ năng, cũng như hàng hoá vật chất, tới những nơi mà chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Nhưng, thị trường giải quyết được vấn đề này vì nó khác hẳn với mô tả trong các cuốn sách giáo khoa. Thị trường không hoạt động vì mọi người đều giống nhau, mà vì họ là những người khác nhau. Nó phối hợp những sự khác biệt của họ và tạo điều kiện để họ sử dụng những tài năng khác nhau của mình sao cho mọi người cùng có lợi.
Trên thực tế, thị trường liên kết được rất nhiều người và là những người khác nhau trên thế giới, và tạo điều kiện để họ hợp tác một cách hòa bình. Với sự khác biệt chính trị giữa các nước như hiện nay, đấy là thành quả rất lớn và khó có thiết chế nào khác có thể làm được như vậy. Đúng là, tôi liên kết với người dân trên khắp địa cầu. Giày của tôi được sản xuất ở Italy, áo sơ mi của tôi được sản xuất ở Trung Quốc. Tôi uống rượu vang được sản xuất ở Chile và tôi xem phim Mĩ. Người dân những nước này đang sản xuất những món hàng mà tôi mua, và đổi lại tôi gửi cho họ tiền. Cả hai bên đều nghĩ rằng chúng tôi trao đổi một cách bình đẳng. Cả hai bên đều được lợi.
Tất nhiên là, tôi không biết cái gì thúc đẩy người dân ở Italy, ở Trung Quốc, ở Chile hay ở Mĩ. Tất cả những người đó đều có những niềm tin, giá trị và tham vọng khác nhau. Điều mà thị trường làm được là tạo điều kiện hóa giải những mục tiêu của chúng ta, bởi vì những giao dịch về kinh tế như thế làm cho cả hai bên đều được lợi. Họ được tiền để chi tiêu cho mình và cho gia đình, tôi có quần áo mặc hay được giải trí khi xem phim. Tham vọng khác nhau của chúng ta là gì không quan trọng. Thật vậy, chúng ta càng đánh giá khác nhau thì trao đổi càng mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích hơn. Thị trường giúp tất cả chúng ta đạt được mục đích của mình, dù mục đích có là gì thì cũng thế. Vai trò thích hợp của chính sách công là phải để cho thị trường thúc đẩy sự hợp tác tự do giữa chúng ta, chứ không tìm cách ép chúng ta chấp nhận khái niệm có sẵn về việc chúng ta phải coi cái gì là có giá trị.
Giá cả là thông tin liên lạc
Nhưng làm sao thị trường có thể phối hợp hoạt động của hàng triệu người trên hành tinh và tạo điều kiện để họ hợp tác vì lợi ích chung, mặc dù họ không bao giờ gặp nhau và coi trọng những thứ rất khác nhau? Theo Hayek, câu trả lời là hệ thống giá cả, hoạt động như một hệ thống thông tin liên lạc cực kì rộng lớn.
Giá cả có thể chỉ là tỉ lệ trao đổi mà mọi người sẵn sàng trao đổi món hàng này lấy món hàng khác. Nhưng giá cả cũng bao hàm quan niệm về giá trị của tất cả những người tham gia thương trường. Nếu món hàng được mọi người đánh giá cao thêm, họ sẽ sẵn sàng đánh đổi bằng nhiều thứ khác - ví dụ như tiền - để lấy nó. Giá cả tăng đưa ra tín hiệu cho các nhà cung cấp rằng họ sẽ được lợi nếu mang thêm món hàng này ra thị trường và họ sẽ làm đúng như thế. Nhưng, trong khi động cơ duy nhất của họ là kiếm lời thì hành động của họ lại chuyển các nguồn lực đến nơi mà chúng sẽ làm cho đồng bào của họ hài lòng hơn. Hệ thống giá cả đã và đang phối hợp những sở thích thường xuyên thay đổi của khách hàng và nhà cung cấp.
Hayek sử dụng ví dụ về sự gia tăng giá thiếc. Có thể người ta đã tìm được ứng dụng mới cho thiếc hay một số mỏ thiếc đã cạn kiệt. Trên thực tế, đấy không phải là điều quan trọng. Khách hàng bây giờ biết rằng nếu muốn tiết kiệm tiền thì họ phải sử dụng thiếc một cách thận trọng, chỉ sử dụng nó ở những chỗ thật cần thiết và tìm kiếm các chất thay thế rẻ hơn cho những mục đích khác. Đến lượt mình, nhu cầu về chất thay thế mới sẽ làm cho giá của nó tăng, thúc đẩy người dùng hành động theo cách nói trên. Đến lượt mình, những người sử dụng những chất thay thế đó sẽ được nhắc nhở là phải tiết kiệm và cứ thế tiếp tục. Như Mises nói, mỗi sự thay đổi trên thị trường đều kích hoạt một loạt những thay đổi khác, vì người ta điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với tình huống mới - và phù hợp với phản ứng của những người khác trước tình huống đó.
Bằng cách đó, toàn bộ thị trường điều chỉnh theo sự khan hiếm của thiếc. Trên thị trường, người ta không cần biết và không cần đánh giá tất cả những cách sử dụng thiếc và cũng không cần xác định sử dụng vào việc gì là quan trọng nhất - họ cũng không thể nào làm được. Thay vào đó, hệ thống giá cả cung cấp cho người ta tất cả thông tin cần thiết để họ phối hợp hành động của mình với hành động của tất cả những người khác. Và phản ứng của họ trước thông tin đó tự động lái các nguồn lực ra khỏi những nơi chúng có giá trị sử dụng thấp đến nơi chúng có giá trị sử dụng cao nhất.
Giá cả đảm bảo hỗn hợp đầu vào rẻ nhất
Có một số hoặc nhiều cách khác nhau để làm ra cùng một sản phẩm. Những người mua tấm bạt (một ví dụ khác của Hayek) có lẽ chẳng mấy quan tâm đến việc chúng được làm từ cây gai dầu, lanh, đay, bông hay nylon. Do đó, nhà sản xuất chọn loại vật liệu rẻ tiền nhất - nghĩa là, chọn loại vật liệu đòi hỏi hi sinh ít nhất những sản phẩm đáng mong muốn khác. Bằng cách tìm kiếm chi phí thấp nhất, nhà sản xuất giải phóng những nguồn tài nguyên, để đưa chúng tới những nơi mà chúng có thể được đánh giá cao hơn.
Tương tự, khi sản phẩm chứa nhiều thành phần, nhà sản xuất sẽ tìm kiếm sự kết hợp đầu vào với chi phí thấp nhất. Nếu một số đầu vào, ví dụ như thiếc, trở nên đắt đỏ hơn, thì đấy là tín hiệu nói rằng các nhà sản xuất khác đánh giá nó cao hơn, và các nhà sản xuất có thể giảm mức độ phụ thuộc của họ vào thiếc bằng cách đưa các chất thay thế rẻ hơn vào hỗn hợp đầu vào của mình. Bằng cách đó, hệ thống giá cả cho thấy tất cả các vật liệu đều được sử dụng với giá trị cao nhất, và khuyến khích chúng ta - trong khi theo đuổi những mục đích của mình - sử dụng chúng một cách tiết kiệm nhất.
Quá trình điều chỉnh trước những thay đổi trên thương trường, tương tự một loạt thay đổi về giá cả do giá thiếc tăng lên gây ra, không diễn ra ngay lập tức hay có tính cơ học, như mô hình trong sách giáo khoa đề xuất. Trên thị trường với hàng triệu sản phẩm đang được trao đổi, sẽ có một loạt thay đổi đến từ những hướng khác nhau, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng đều phải lèo lái để vượt qua những biến động đó. Nó cũng gần giống như khi ta tìm cách đi qua bến xe buýt đông người, khi có hàng ngàn người đang chạy theo những hướng khác nhau. Đấy là quá trình rất phức tạp, một quá trình xã hội, trong đó, những phán đoán đang thay đổi về cách đánh giá của người ta sẽ có ý nghĩa quyết định - chứ không phải là quá trình có thể được mô tả và dự đoán bằng toán học.
Đáng chú ý là hệ thống điều khiển nguồn lực đến nơi nó được đánh giá cao nhất lại là hệ thống hoàn toàn tự động. Đấy không phải là hệ thống do các chính phủ cố tình thiết kế và các quan chức phải làm việc này. Hệ thống giá cả phát sinh một cách tự nhiên và tiếp tục tồn tại vì nó hoạt động - tương tự cách ngôn ngữ xuất hiện và tồn tại, vì nó giúp người ta giao tiếp với nhau. Thật vậy, hệ thống giá cả là hệ thống cực kì hiệu quả trong việc thu thập, sử dụng, xử lí và phổ biến thông tin về những nguồn tài nguyên khan hiếm và giá trị mà mọi người gán cho chúng.
Thị trường sử dụng thông tin (cục bộ?) như thế nào
Trong mô hình sách giáo khoa kinh tế, thông tin là “hoàn hảo” và làm cho thị trường hoạt động hiệu quả. Nhưng trong thực tế, thông tin còn lâu mới hoàn hảo. Không ai có được thông tin hoàn hảo. Phần lớn thông tin chúng ta có là không đầy đủ, rời rạc, không chính xác, mâu thuẫn nhau, rối rắm, mang tính cá nhân, mất nhiều chi phí mới có và khó chuyển đi. Chính vì thông tin là không hoàn hảo mà thị trường hoạt động tốt hơn bất kì hình thức tổ chức kinh tế nào khác.
Người ta thường nghĩ rằng thông tin là minh bạch và có thể tiếp cận được, tương tự sách trong thư viện. Trên thực tế, nhiều “thông tin” thực ra lại là những lí thuyết đối nghịch nhau của các chuyên gia khác nhau. Và hầu hết thông tin nằm tản mác ở nhiều nơi, chỉ một số người đặc biệt mới biết và không thể dễ dàng ghi lại và truyền đi. Ví dụ, những người môi giới bất động sản nắm được những cơ hội nhất thời trên thị trường đang thay đổi rất nhanh này, họ phải gắn kết nhu cầu của nhiều người mua khác nhau với tài sản đang có mỗi ngày. Phần lớn kiến thức mà họ có chỉ đơn giản là “cảm giác” của người có nghề về thị trường khu vực, được hình thành nhờ kinh nghiệm. Họ có thể, thậm chí, không thể mô tả chứ chưa nói tới việc truyền đạt những kiến thức đó.
Cảm giác của họ có thể không phải lúc nào cũng chính xác. Thông tin của họ có thể không đầy đủ. Họ có thể đánh giá quá cao khả năng trả tiền của khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh, tức là người có quan điểm khác và đưa ra giá thấp hơn, cướp mất cơ hội bán hàng. Hoặc họ có thể bỏ qua việc một con đường mới hoặc sự phát triển của trường học và ảnh hưởng của chúng đến cầu về bất động sản. Nhưng có một điều chắc chắn: Họ sẽ nắm được thông tin về điều kiện của địa phương tốt hơn những người lập kế hoạch ở trung ương xa xôi. Trong khi các quan chức địa phương thu thập được những thông tin mà họ có thể thu thập được và gửi về trung ương thì đấy là thông tin vừa thiếu, vừa lạc hậu rồi. Trong khi trung ương đánh giá xong những quan điểm trái ngược nhau của những cơ quan khác nhau, thì các sự kiện ở địa phương đã thay đổi và đánh giá của trung ương trở thành vô dụng. Thị trường với hệ thống thông tin về giá cả của nó tuyệt vời ở chỗ nó tạo điều kiện cho người ta sử dụng thông tin mang tính cá nhân, tại chỗ và phân tán, và hành động một cách nhanh chóng và hiệu quả. Điều đó có nghĩa là nó có nhiều khả năng thành công trong việc điều phối kế hoạch của tất cả những người liên quan, và bằng cách đó làm gia tăng giá trị hơn bất kì hệ thống lập kế hoạch tập trung nào khác. Hệ thống lập kế hoạch tập trung không thể thu thập và xử lí nhiều thông tin đến như thế và nhanh đến như thế.
Chủ nghĩa tư bản không dẫn đến độc quyền
Người ta cũng thường phê phán cạnh tranh trên thương trường là nó dẫn tới chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ví dụ, Marx nói rằng vì cạnh tranh thường xuyên đẩy các doanh nghiệp kém thành công ra khỏi thương trường, các doanh nghiệp còn lại sẽ lớn mãi lên, cho đến khi trong mỗi ngành chỉ còn lại một nhà sản xuất độc quyền mà thôi.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng đấy là điều vô nghĩa: thực tế khác hẳn. Mặc dù dễ nhìn thấy sự tăng trưởng của các công ti lớn, những công ti thành công, nhưng chúng ta cũng thường bỏ qua sự xuống dốc của những công ti cũng lớn chẳng khác gì những công ti kia và được thay thế bằng những công ti đang lên hay những công ti vừa bước vào thương trường. Thị trường không phải là quá trình tập trung hóa không thể nào tránh được, mà là liên tục chao đảo và thay đổi.
Điều làm người ta lo ngại về độc quyền là các công ti giữ thế thượng phong thích đòi giá nào cũng được. Nhưng, ngay cả điều đó cũng không đúng. Họ luôn luôn bị những công ti có lẽ là nhỏ hơn, sáng tạo hơn đe dọa cạnh tranh. Tương tự, bao giờ cũng có những món hàng thay thế mà khách hàng có thể mua: ví dụ, thế thượng phong của các công ti đường sắt Mĩ đã bị các hãng hàng không phá vỡ.
Khác với các công ti thương mại - những công ti này chỉ tồn tại được nếu họ tiếp tục phục vụ người tiêu dùng - các chính phủ có thể đơn giản là tự bỏ phiếu cho các công ti độc quyền của mình - như họ đã từng làm trong quá khứ, trong các lĩnh vực như muối, điện thoại, radio, ti vi và nhiều thứ khác. Hay họ tạo ra các công ti độc quyền bằng cách hạn chế người gia nhập một số ngành nghề thông qua giấy môn bài. Họ có thể biện bạch là cần bảo đảm an toàn cho xã hội –- ví dụ như để người dân không bị gặp các bác sĩ hay lái xe taxi không đủ trình độ. Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng, thường thì tất cả những việc đó đều có động cơ chính trị. Môn bài là nguồn thu của chính quyền. Và môn bài sẽ giúp những người đã hành nghề trên thị trường - những người có nhiều của cải hơn và có thể có nhiều ảnh hưởng chính trị hơn - tránh được những đối thủ tiềm tàng. Rất ít tổng công ti (cartel) và công ti độc quyền từng xuất hiện, mà không được chính phủ hay những người có quyền lực chính trị giúp đỡ bằng cách bóp nghẹt cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản không có xu hướng dẫn tới độc quyền hay giá cả độc quyền; ngược lại, nó có xu hướng dẫn tới đa dạng và khác biệt, chất lượng tăng mà giá thì giảm. Các mô hình trong sách giáo khoa che giấu sự kiện này, nhưng đấy là điểm chính và là lợi ích lâu dài của cạnh tranh.
Công lí và thị trường
Hệ thống thị trường không phụ thuộc vào những người “làm việc tích cực” mà phụ thuộc vào việc họ tạo ra những món hàng mà người khác muốn - và theo những cách gây ra ít xung đột nhất với ước muốn của người khác. Phần thưởng của thị trường không phải là phần thưởng “công bằng” cho những cố gắng hay phẩm chất cá nhân, và thậm chí không phản ánh quy mô của khoản đầu tư đã được thực hiện - đôi khi người ta gặp được những sản phẩm với thành công lớn mà tốn rất ít thời gian và tiền bạc để phát triển. Thị trường chỉ tưởng thưởng cho giá trị mà mỗi người cung cấp được cho những người khác, dù đấy có là do may mắn, do đánh giá đúng hay làm việc chăm chỉ thì cũng thế.
Một số nhà tư tưởng, như Karl Marx, đã áp dụng “lí thuyết giá trị lao động”, nói rằng giá trị của sản phẩm được xác định bởi lao động bỏ ra để làm ra nó (Ông sử dụng lí thuyết này để giải thích việc bóc lột của các nhà tư bản, những người dường như không bỏ nhiều sức lao động vào những hàng hoá mà họ sản xuất ra). Böhm-Bawerk và các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng nói thế là hoàn toàn sai. Giá trị không phải là chất lượng tồn tại trong món hàng hay chất lượng mà nhà sản xuất đưa vào nó. Các nhà sản xuất có thể làm việc chăm chỉ, và đầu tư nhiều thời gian và công sức, và làm ra sản phẩm mà chẳng ai muốn mua. Giá trị là cái mà khách hàng hay người tiêu dùng nghĩ rằng có trong sản phẩm. Giá cả không phải là thước đo về thời gian và nỗ lực đã được đưa vào sản phẩm. Hoàn toàn ngược lại: Giá cả thông báo cho người sản xuất biết cần phải dùng bao nhiêu thời gian và sức lực để làm ra sản phẩm. Sản xuất không quyết định giá cả: Giá cả khuyến khích người sản xuất.
Hệ thống thị trường không phải quá trình đã được kế hoạch hóa nhằm đạt được kết quả cụ thể nào đó. Vì vậy, chúng ta không bao giờ có thể dự đoán được mỗi người hay mỗi nhóm người cụ thể nào đó sẽ được mấy phần của cái phần thưởng mà sản phẩm sẽ mang lại. Một số người làm việc chăm chỉ có thể được tưởng thưởng rất ít, trong khi những người khác gặp may có thể kiếm được nhiều tiền. Nhưng trong hệ thống thị trường, quan trọng là phần của mỗi người sẽ là lớn nhất, có thể. Vì hệ thống thị trường chuyển một cách hiệu quả các nguồn lực đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất cho xã hội, phần của mỗi cá nhân trong toàn bộ phần thưởng sẽ được phân phát với chi phí thấp nhất có thể.
Chương 7
Cạnh tranh và tinh thần nghiệp chủ
• Cạnh tranh không phải là lặp lại một cách lãng phí. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà sản xuất tranh giành nhau cung cấp hàng hoá với giá cả và chất lượng khác nhau với hi vọng là sẽ khám phá được người mua đánh giá món hàng nào cao nhất. Đấy là động cơ của cải tiến và tiến bộ.
• Do đó, cạnh tranh xảy ra vì nó là không hoàn hảo - bởi vì các nhà sản xuất, các sản phẩm và người tiêu dùng là khác nhau, chứ không giống hệt nhau.
• Quá trình khám phá của cạnh tranh được thúc đẩy bởi các doanh nhân, những người luôn luôn tỉnh táo và có tài - được thúc đẩy bởi khả năng kiếm lời - chấp nhận rủi ro nhằm đổi mới sản phẩm mà họ hi vọng sẽ có sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng.
• Do đó, lợi nhuận có vai trò xã hội quan trọng, nó khuyến khích các doanh nhân tìm cách sản xuất những món hàng mà dân chúng ưa thích nhất.
Cơ hội kiếm lời bằng cách cung cấp món hàng mà một số người tiêu dùng mong muốn là động cơ thúc đẩy người sản xuất, nhưng đe dọa cạnh tranh càng làm nổi bật quá trình đưa các nguồn lực tới những nơi chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Cạnh tranh khuyến khích các nhà sản xuất hoạt động tích cực nhằm lấp đầy khoảng cách giữa ước muốn của người tiêu dùng và hàng hóa mà thị trường đang cung cấp. Nó còn thúc đẩy các nhà sản xuất tìm cách làm tốt hơn người khác nhằm đảm bảo rằng sẽ đáp ứng được mong muốn của người tiêu dùng. Cạnh tranh càng khốc liệt thì càng có các nhà sản xuất nhanh hơn và chính xác hơn tham gia phục vụ công chúng và dự đoán những nhu cầu của họ trong tương lai; và họ càng phải sáng tạo và giàu trí tưởng tượng hơn trong khi làm việc đó.
Cuộc trưng cầu dân ý của người tiêu dùng
Cạnh tranh là quá trình lựa chọn. Và trên thị trường, người tiêu dùng chính là người lựa chọn. Họ luôn luôn tìm kiếm những sản phẩm tốt nhất với giá rẻ nhất, đáp ứng được nhu cầu của mình. Và rất khó làm họ hài lòng: Nếu một người nào đó có thể sản xuất được sản phẩm tốt hơn hoặc rẻ hơn thì họ sẽ bỏ nhà cung cấp hiện có và đem tiền đi mua sản phẩm mới, chứ không mua sản phẩm cũ nữa.
Mises mô tả thị trường như là cuộc trưng cầu dân ý diễn ra hằng ngày về việc cần sản xuất cái gì và ai là người sản xuất sản phẩm đó. Mỗi đồng xu mà người tiêu dùng bỏ ra trong vô số cuộc giao dịch diễn ra hằng ngày là một lá phiếu trong cuộc bỏ phiếu diễn ra liên tục, nhằm xác định mỗi món hàng cần sản xuất bao nhiêu và đưa sản xuất đến những nơi mà nó được đánh giá cao nhất. Nó hiệu quả hơn hẳn việc ban hành quyết định thông qua các cuộc bầu cử chính trị, mấy năm mới có một lần và thậm chí lúc đó người ta cũng chỉ bỏ phiếu cho một gói các biện pháp khác nhau mà thôi. Trên thương trường, mỗi đồng xu đều được đo đếm và được đo đếm mỗi ngày.
Cạnh tranh và đa dạng
Nhiều người nghĩ rằng cạnh tranh nghĩa là làm lại công việc tương tự nhau và do đó là “lãng phí”. Đó là quan điểm xuất phát từ mô hình trong sách giáo khoa về “cạnh tranh hoàn hảo”, trong đó, tất cả các nhà sản xuất đều là những người giống hệt nhau. Nhưng trên thực tế, cạnh tranh chính là cái làm cho các nhà sản xuất trở thành những người khác nhau. Họ muốn làm tốt hơn các nhà sản xuất khác, để cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa tốt hơn hoặc rẻ hơn những người khác, món hàng nổi bật so với những món khác, thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng và làm cho người tiêu dùng chuyển sang mua sản phẩm mới.
Trên mô hình trong sách giáo khoa, người tiêu dùng không quan tâm tới các nhà cung cấp, vì tất cả các nhà cung cấp đều giống hệt nhau. Nhưng, vai trò của cạnh tranh chính là để phân biệt giữa các nhà sản xuất. Không có hai nha sĩ, hai cửa hàng tạp hóa, hoặc hai đại lí du lịch giống hệt nhau và không bao giờ có thể giống hệt nhau: Họ cạnh tranh rất mạnh với nhau. Các công ti khác nhau làm ra sản phẩm với giá cả khác nhau, chất lượng khác nhau, tính chất khác nhau, bao bì khác nhau và quảng cáo khác nhau. Thậm chí ngay cả các sản phẩm dường như đã trở thành tiêu chuẩn như xà bông hay nước cam cũng khác nhau và được bán theo những cách khác nhau, ở những nơi khác nhau. Chúng ta có thích tất cả nhà cửa, xe cộ hay quần áo giống hệt nhau nhằm tạo ra thị trường “hoàn hảo” hay không? Hay thích điều gì tương tự thế? Các nhà sản xuất không tìm cách cung cấp cho tất cả chúng ta sản phẩm giống hệt nhau với giá thấp nhất, mà cố gắng tìm cho ra những sản phẩm mà người tiêu dùng ưa thích.
Cạnh tranh là quá trình khám phá
Trong mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” của sách giáo khoa, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng giống hệt nhau, đã được biết trước và không thay đổi. Đấy là những sự kiện “cho trước”. Nhưng, trên thị trường, người tiêu dùng đánh giá cao những thứ khác nhau và không ai biết đấy là cái gì và không phải là sự kiện “cho truớc”. Chỉ có người tiêu dùng liên quan mới biết mà thôi - và thậm chí, người tiêu dùng có thể cũng không biết một cách đầy đủ cho đến khi họ phải lựa chọn. Nhiệm vụ của nhà sản xuất là tìm cho ra cái mà khách hàng của họ thực sự muốn và cung cấp cho họ món hàng đó. Nhà sản xuất không có “thông tin hoàn hảo” về sở thích của người tiêu dùng. Họ không thể biết chính xác khách hàng sẽ phản ứng như thế nào trước một sản phẩm mới hay trước sự thay đổi về chất lượng hoặc giá của sản phẩm.
Như vậy là, đối với các nhà kinh tế học Trường phái Áo, cạnh tranh không phải tình trạng mua và bán mà là hoạt động. Cạnh tranh là quá trình khám phá. Đó là quá trình mà các nhà sản xuất sử dụng nhằm tìm cho ra sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng (ở đầu ra) và kết hợp các nguồn lực một cách tốt nhất và rẻ nhất (ở đầu vào) có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
Cạnh tranh thúc đẩy các nhà sản xuất đổi mới và thử nghiệm với những sản phẩm mới, và tìm cách thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà các nhà sản xuất đang cạnh tranh với họ không nhận ra. Tương tự, cạnh tranh khuyến khích các nhà sản xuất thử nghiệm với các hỗn hợp của đầu vào và quy trình sản xuất khác nhau nhằm tìm cho ra hỗn hợp để làm ra sản phẩm có giá trị cao nhất với chi phí thấp nhất.
Kinh doanh và lợi nhuận
Do đó, sản xuất không chỉ là đầu tư vốn liếng theo bất kì cách nào đó mà bạn chọn và ngồi đợi hưởng “lợi nhuận bình thường” mà nó tạo ra. Đầu tư không phải lúc nào cũng tạo ra những món hàng hóa mà khách hàng muốn mua, như một số nhà phê bình chủ nghĩa tư bản thường nói. Đầu tư là những lựa chọn, tính toán và dự đoán phức tạp. Những nguồn lực bổ sung như đất đai, lao động và thiết bị phải được kết hợp với nhau. Sản phẩm phải được thiết kế, chế tạo, đóng gói và bán. Phải dự đoán được nhu cầu của người tiêu dùng với mức độ chính xác nào đó. Và tất cả đều diễn ra trong thế giới của những sự kiện luôn luôn thay đổi và thông tin không hoàn hảo, không ai có thể tin tưởng chắc chắn đâu là kết hợp tốt nhất của đầu vào hay người tiêu dùng sẽ mua cái gì hoặc đối thủ cạnh tranh có thể đưa ra sản phẩm mới nào.
Do đó, sản xuất thành công bao gồm dự đoán tương lai của thị trường. Tất cả các quá trình sản xuất đều cần thời gian, đấy là quá trình tập kết nguyên liệu đầu vào, chế tạo sản phẩm và tiếp thị. Để có lợi ích về tài chính, người tiến hành dự án sản xuất - doanh nhân - phải bán được sản phẩm cuối cùng với giá cao hơn giá của các thứ khác nhau nằm ở đầu vào, được sử dụng để đưa sản phẩm ra thị trường. Nhưng vì sản xuất cần thời gian và mọi thứ có thể thay đổi trong khoảng thời gian đó, kết quả không bao giờ chắc chắn. Chi phí đầu vào có thể gia tăng, các đối thủ cạnh tranh khác có thể đưa ra thị trường sản phẩm tốt hơn hay rẻ hơn, thị hiếu có thể thay đổi, và người tiêu dùng có thể không sẵn sàng trả giá mà doanh nhân từng kì vọng.
Do đó, lợi nhuận không đơn giản là kết quả của việc đầu tư tiền của vào quá trình sản xuất và chờ đợi lợi nhuận. Sản xuất là một vụ đầu cơ. Có thể mắc những sai lầm rất lớn, mất thì giờ, tiền bạc và công sức mà chỉ tạo ra những sản phẩm không được công chúng chào đón. Quy trình sản xuất càng kéo dài và càng phức tạp - như đang diễn ra trong nền kinh tế hiện đại - thì khả năng mắc sai lầm càng lớn. Thành công của doanh nhân phụ thuộc vào kiến thức, kĩ năng và cả may mắn. Lợi nhuận chỉ có khi phán đoán chính xác món hàng nào sẽ mang lại giá trị cho những người khác. Đoán không chính xác thì lỗ. Theo đuổi lợi nhuận nghĩa là phải chấp nhận rủi ro.
Vai trò xã hội của lợi nhuận
Do đó, lợi nhuận có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích các cá nhân khám phá những nhu cầu mới và chưa được thỏa mãn và tìm cách dự đoán thị trường chính xác nhất có thể và thỏa mãn những nhu cầu đó một cách rẻ nhất và hiệu quả nhất có thể. Đấy không chỉ là lợi nhuận mà nhà sản xuất thu được, sức quyến rũ của lợi nhuận còn có mục đích xã hội quan trọng là giúp đưa các nguồn lực đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất. Trong thế giới không có lợi nhuận - ví dụ, trong xã hội mà các công ti độc quyền của nhà nước quản lí toàn bộ quá trình sản xuất - thì không có gì thúc đẩy người ta chấp nhận rủi ro, và do đó không khuyến khích người ta tìm ra những biện pháp mới nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng. Các nhà lập kế hoạch của nhà nước càng ít có khả năng đầu tư vào những ý tưởng mới.
Lợi nhuận không chỉ là lợi ích cá nhân. Nó phản ánh giá trị mà người sản xuất đã mang lại cho cuộc sống của những người khác. Lợi nhuận chỉ xuất hiện nhờ thói quen mua hàng của những người tiêu dùng đã được thỏa mãn - vì, nếu có cạnh tranh thì họ không bị bắt buộc phải trao đổi với những người mà họ không muốn trao đổi một cách tự nguyện. Thật vậy, doanh nhân càng thu được nhiều lợi nhuận thì chắc chắn là họ đang tạo ra thêm giá trị và xã hội sẽ ngày càng thịnh vượng hơn.
Kirzner khẳng định rằng ngay cả may mắn cũng phải được tưởng thưởng. Bởi vì thị trường là quá trình khám phá, mà người ta tìm ra những cơ hội và khả năng mà người khác không có, lợi nhuận của việc làm đó phải thuộc về người khám phá. Nói cho cùng, điều đó sẽ khuyến khích những người khác hành động như doanh nhân, chấp nhận rủi ro và khám phá thêm nhiều cơ hội và khả năng trong việc đem lại lợi ích cho những người khác.
Sự linh hoạt của doanh nhân
Khi các nhà kinh tế học Áo thảo luận về các doanh nhân hay người đầu cơ, họ không nghĩ tới hình ảnh những nhà tư bản giảo hoạt đỏm dáng. Bởi vì tương lai là không chắc chắn, cho nên họ coi tất cả hành động đều là đầu cơ. Ở mức độ nào đó, mọi người đều là doanh nhân, tức là người đang tìm cách sử dụng các kĩ năng và nguồn lực của mình nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Điều đó cũng đúng đối những người lao động đăng kí học một khóa đào tạo với hi vọng cải thiện được triển vọng nghề nghiệp của mình, cũng như đối với các nhà điều hành doanh nghiệp, những người xây dựng nhà máy hay những người môi giới đang bán chứng khoán.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại đã chuyên môn hóa của chúng ta, một số người là doanh nhân chuyên nghiệp thì cũng như những người khác là bác sĩ hay kĩ sư mà thôi. Theo Kirzner, các doanh nhân đưa vào tiến trình thị trường không chỉ đổi mới và kĩ năng tổ chức của họ mà còn đưa vào cả sự tỉnh táo của họ. Họ đang tìm cơ hội kiếm lời - ở đâu nhu cầu của người tiêu dùng chưa được đáp ứng hay có thể mang tới nơi nào những món hàng tốt hơn và rẻ hơn. Họ phải luôn luôn tỉnh táo thì mới phát hiện được những thay đổi trên thương trường và tìm cách dự đoán những thay đổi đó và kiếm lời từ những thay đổi đó trước khi những người kém tỉnh táo hơn phát hiện ra. Họ có thể nắm được thông tin chính xác hơn người khác, vì họ có hiểu biết sâu sắc hơn về những thị trường cụ thể mà họ coi là nghề chuyên môn của mình - tạo điều kiện cho họ phán đoán nhanh hơn và chính xác hơn về nhu cầu trong tương lai. Hoặc chỉ vì họ có thể suy nghĩ một cách sáng tạo và tìm ra những biện pháp mới để sản xuất rẻ hơn, cải tiến sản phẩm hay tìm ra những biện pháp hoàn toàn mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Sự kiện là họ thành công và có lời khuyến khích những người kém tỉnh táo hơn hay có ít thông tin hơn làm theo họ. Bằng cách đó, họ đã đóng góp sức lực của mình vào quá trình cải thiện liên tục mức sống của tất cả mọi người.
Một lần nữa, toàn bộ thị trường điều chỉnh, hướng các nguồn lực vào những kẽ hở mà các doanh nhân tỉnh táo nhất đã phát hiện ra. Với ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh đang tìm kiếm kẽ hở tương tự trên thương trường, người ta ngày càng khó kiếm lời hơn; và trong tiến trình tìm hiểu, đầu cơ và khám phá không ngừng như thế, các doanh nhân sử dụng kiến thức và kĩ năng đặc biệt của mình để tìm ra những nơi mới có thể có lời bằng cách cung cấp giá trị cho người tiêu dùng, và do đó thúc đẩy sự thịnh vượng của xã hội.
Vì vai trò quan trọng như thế của doanh nhân trong việc duy trì và nâng cao đời sống của chúng ta, cho nên Kirzner khẳng định rằng, quan trọng là không được bóp nghẹt nó. Ví dụ, các quy định của chính phủ có thể dập tắt một số cơ hội của các doanh nhân dẫn đến kết quả là làm lợi cho những người khác. Thuế khóa có thể làm một số cách tân mất hết giá trị, nó cũng làm giảm động cơ đổi mới vì “ăn” mất lợi nhuận trong tương lai - lợi nhuận, xin nhớ như thế, chỉ là triển vọng không chắc chắn và đầy rủi ro.