January 15, 2025

CÁC NHÀ VÔ ĐỊCH ẨN DANH CỦA THẾ KỈ XXI (10)

 CÁC NHÀ VÔ ĐCH N DANH CA TH K XXI

CHIN LƯỢC DN TI THÀNH CÔNG CA NHNG CÔNG TI
 
N DANH HÀNG ĐU TH GII

HERMANN SIMON
 

CÁC NHÀ VÔ ĐỊCH ẨN DANH CỦA THẾ KỈ XXI

CHIẾN LƯỢC DẪN TỚI THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG CÔNG TI
 ẨN DANH HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI
 


Chương 10

Tài chính, tổ chức và môi trường kinh doanh

Tài chính và tổ chức là những cột trụ của chiến lược công ti. Môi trường kinh doanh hay bối cảnh là một tác nhân quan trọng khác, tạo ra nguồn gốc và sự phát triển của các nhà vô địch ẩn danh. Do phát triển nhanh, nhu cầu về khả năng tài chính của các nhà vô địch ẩn danh bao giờ cũng cao. Các nhà vô địch ẩn danh giải quyết tình hình này như thế nào? Họ coi tài chính là điểm mạnh hay điểm yếu của họ trong cạnh tranh? Tài chính cản trở sự bành trướng hay ở đây có đủ tự do cho hoạt động nhằm thực thi tốc độ phát triển đầy tham vọng và những mục tiêu của công ti dẫn đầu thị trường? Sự dịch chuyển những hình thức cấp vốn trong tương lai có vai trò như thế nào? Họ nghĩ gì về cổ phần hóa? Chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề đó trong chương này.

Nhà vô địch ẩn danh điển hình là công ti một sản phẩm, một thị trường với tổ chức không quá phức tạp. Tổ chức theo chức năng là tự nhiên nhất và thường gặp nhất. Nhưng, như chúng ta đã thấy trong các chương trước, các nhà vô địch ẩn danh đã mở rộng lĩnh vực kinh doanh của họ. Những công ti này phản ứng như thế nào trước sự phức tạp về mặt tổ chức do quá trình đa dạng hóa mềm tạo ra? Họ tiến hành phân cấp vào lúc nào và kiên trì đến mức nào? Những khía cạnh nào quyết định việc tổ chức theo phòng ban? Chúng ta sẽ thấy rằng không có câu trả lời đơn giản cho những vấn đề này. Tổ chức bao gồm liên kết theo chiều dọc. Các nhà vô địch ẩn danh có những cách tiếp cận nào? Họ có quan niệm như thế nào về gia công và các liên minh chiến lược? Chúng tôi nhận thấy người ta rất thích tự biên tự diễn và tự làm lấy. Thái độ dè dặt trong nghiên cứu và phát triển là biểu hiện đặc biệt rõ ràng. Nhưng đồng tiền bao giờ cũng có hai mặt. Cởi mở hơn khi bước vào lĩnh vực kiến thức mới là việc nên làm và một số nhà vô địch ẩn danh ngày càng làm theo cách ấy.

Theo báo chí thì các cụm công nghiệp có vai trò quan trọng cho sự phát triển của các công ti. Không thể nói như thế về các nhà vô địch ẩn danh. Cuộc khảo sát của chúng tôi cho thấy rằng trong 7 công ti thì chỉ có 1 công ti coi mình là thành phần của cụm công nghiệp và chỉ 50% trong số đó công nhận đấy là lợi thế. Thay vì các cụm công nghiệp điển hình, việc các nhà vô địch ẩn danh không cùng một ngành tập trung tại một khu vực dường như là nguồn động viên quan trọng đối với các doanh nhân trẻ, khuyến khích họ đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng và cố gắng nhằm xác định vị trí hàng đầu trên thị trường quốc tế. Đáng chú ý là có nhiều địa điểm tập trung một số nhà vô địch ẩn danh với những ngành nghề khác nhau.

Tài chính

Tài chính được coi là trở ngại nghiêm trọng đối với các công ti quy mô vừa. Các nhà vô địch ẩn danh không lâm vào tình trạng như thế. Vốn chủ sở hữu bình quân của nhà vô địch ẩn danh là khá cao, cụ thể là 41,9%. Hơn một phần ba các công ti hàng đầu trên thị trường của chúng tôi (chính xác là 35,1%) có tỉ lệ vốn là 50% hoặc nhiều hơn. Một số thậm chí còn đi xa hơn. Reinhard Zinkann, giám đốc điều hành của Miele, cho biết: "Chúng tôi hoàn toàn sử dụng vốn chủ sở hữu." Mười sáu công ti mới có một công ti (chính xác là 6,3%) nói rằng sử dụng chưa tới 20% vốn chủ sở hữu. Ngay cả những cuộc khủng hoảng hồi năm 2008/2009 cũng không ảnh hưởng nghiêm trọng tới vốn chủ sở hữu của phần lớn các nhà vô địch danh.

Những quy định mới của Basel II có nghĩa là ưu thế này đang trở thành quan trọng hơn, bởi vì việc đánh giá về sự đáng tin cậy của khả năng trả nợ sẽ được phản ánh mạnh mẽ hơn trong lãi suất - so với trước đây. Như vậy là, các nhà vô địch ẩn danh có lợi thế đáng kể khi nói đến chi phí vốn. Tuy nhiên, liên quan đến tốc độ phát triển và nhu cầu đầy tham vọng của toàn cầu hóa, lợi thế về chi phí như thế có thể không phải là ảnh hưởng quan trọng nhất. Quan trọng hơn là ảnh hưởng của tài chính đối với sự tự do mang tính chiến lược của các nhà vô địch ẩn danh. Họ có cảm thấy bị hạn chế bởi nguồn tài chính có hạn hay không?

Trong thời kì tăng trưởng mạnh mẽ, tài chính có thể dễ dàng trở thành một nút cổ chai. Nhiều doanh nhân - đặc biệt là các doanh nhân trẻ - coi tài chính như là nguồn lực có khả năng ngăn chặn tăng trưởng. Bành trướng sang các nước khác, thành lập một mạng lưới bán hàng trên toàn cầu, nghiên cứu và phát triển, cũng như đầu tư vào cơ sở sản xuất tạo ra nhu cầu cao về năng lực tài chính. Trong tình hình như vậy, sức mạnh tài chính có thể trở thành một yếu tố quyết định trong việc thực hiện chiến lược kinh doanh. Điều này liên quan đến câu hỏi liệu có thể thiết lập được và làm thế nào thiết lập được vị trí dẫn đầu thị trường, liệu có thể bảo vệ được và làm thế nào bảo vệ được vị trí dẫn đầu thị trường - khía cạnh quan trọng nhất đối với các nhà vô địch ẩn danh. Mối quan tâm trong dài hạn không phải là chi phí vốn, mà là tự do hành động mang tính chiến lược của công ti. Câu trả lời cho câu hỏi liệu các nhà vô địch ẩn danh có ít hoặc có nhiều tự do hoạt động trong lĩnh vực này được thể hiện trên hình 10.1.

Hình 10.1: Tự do về mặt tài chính cho những vụ đầu tư chiến lược



Nếu cộng số phần trăm nằm bên phải của hình 10.1 (sau cột số 4) ta sẽ được 69,4%. Điều này có nghĩa là 70% của các nhà vô địch ẩn danh không coi tài chính là một hạn chế đối với chiến lược kinh doanh của họ. Về khía cạnh này, các nhà vô địch ẩn danh có vị trí tích cực khác hẳn so với các công ti bình thường và khác với hình ảnh của các doanh nghiệp quy mô trung bình mà báo chí thường xuyên vẽ ra.

Hình 10.2 là đáp án cho câu hỏi về những nguồn tài chính quan trọng nhất trong quá khứ và trong tương lai


Cho đến nay vốn tự có vẫn là nguồn đầu tư tài chính quan trọng nhất và sẽ vẫn như thế trong tương lai. Theo quan điểm về lợi nhuận của nhà vô địch ẩn danh và tình hình luân chuyển tiền tệ cũng như lợi nhuận trên đồng vốn được sử dụng là 13,6% thì đấy là điều không đáng ngạc nhiên.[1] Tầm quan trọng của các khoản vay ngân hàng truyền thống sẽ giảm đáng kể, mặc dù khoản vay này vẫn giữ vị trí thứ hai. Nguồn tài chính trên thị trường vốn, ví dụ bán cổ phần, trái phiếu, cho đến nay vẫn là nguồn tài chính tương đối nhỏ đối với các công ti vừa và nhỏ, sẽ tăng đáng kể trong tương lai. Sự suy giảm được dự kiến ​​trong cổ phần tư nhân là điều đáng ngạc nhiên. Quan hệ căng thẳng giữa các doanh nghiệp gia đình và các nhà đầu tư tư nhân có thể là lời giải thích. Khả năng xung đột được thể hiện chính xác trong các bình luận như sau: "Các nhà đầu tư vốn cổ phần tư nhân thường có chiến lược thoát ra khỏi doanh nghiệp trong vòng năm năm. Điều này mâu thuẫn với tầm nhìn dài hạn của các doanh nghiệp gia đình. Quan điểm triều đại trong doanh nghiệp gia đình không tương thích với kì vọng lợi nhuận trong ngắn hạn của các quỹ cổ phần tư nhân.”[2]

Bán cổ phần vẫn là đối tượng tranh luận trong các nhà vô địch ẩn danh, mặc dù từ năm 1990 tình đã thay đổi một cách đáng kể. Lúc đó chỉ có 2,4% những công ti này được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hiện nay, con số là 9,5% (hình 12.1). Những cuộc thảo luận của tôi đã làm rõ được vấn đề là các nhà vô địch ẩn danh thường dè dặt khi nói về việc bán cổ phần. Lí do chính là vì báo cáo và công khai hóa trách nhiệm đi kèm với việc niêm yết làm người ta hoảng sợ. Những đòi hỏi như thế có phần trái ngược với ước muốn được tự do quyết định, được trình bày trong Chương 1. Lời nhận xét sau đây của giám đốc điều hành một công ti đã được niêm yết trong lĩnh vực điện tử thể hiện quan điểm của nhiều người: “Khi đến thăm các khách hàng lớn, tôi thấy báo cáo hằng năm của chúng tôi đang nằm trên bàn. Cái đầu tiên tôi thấy là lợi nhuận cao của chúng tôi. Chính điều này làm cho việc đòi giá phù hợp thành khó khăn.” Nhưng cũng có người nói khác. Liên quan đến việc IPO của Krones, đứng hàng đầu thị trường thế giới về hệ thống đóng chai, ông Hermann Kronseder nói rằng IPO đã tăng cường địa vị trong quan hệ với khách hàng của mình. Khả năng sinh lời cao cho thấy Krones không tìm mọi cách giành từng đơn hàng. Lợi nhuận cao còn làm cho tương lai của khách hàng được bảo đảm hơn.

Tóm lại, các nhà vô địch ẩn danh có tỷ lệ vốn chủ sở hữu rất vững chắc; trong mười năm vừa qua, đối với tuyệt đại đa số các nhà vô địch ẩn danh tỉ lệ này thậm chí còn tăng. Vì vậy mà họ giành được đánh giá cao về khả năng trả nợ và chi phí vốn thấp. Trong quá trình tăng trưởng và toàn cầu hóa, tài chính không phải là một trở ngại nghiêm trọng cho sự phát triển của các nhà vô địch ẩn danh. Gần 70% các nhà vô địch ẩn danh coi sức mạnh tài chính của họ là một lợi thế cạnh tranh. Tài chính hầu như không cản trở sự tự do hành động của họ đối với những khoản đầu tư chiến lược. Thái độ trước việc bán cổ phần ra thị trường không rõ ràng. Nhiều nhà vô địch ẩn danh sợ những đòi hỏi công khai.

Tổ chức

Không nghi ngờ gì rằng tổ chức đúng là một yếu tố thành công mang tính chiến lược. Chúng ta đã thấy trong các chương trước rằng nhà vô địch ẩn danh điển hình chú tâm vào một sản phẩm và một thị trường và do đó là công ti một sản phẩm, một thị trường.[3] Trung bình, các nhà vô địch ẩn danh nhận được 80% doanh thu trên thị trường chính của họ. Gần một phần ba nhận được hơn 90% và hơn một phần tư thậm chí còn nhận được 100% doanh thu từ một thị trường chính. Xin đưa ra một số ví dụ: Brasseler (máy khoan nha khoa), Doppelmayr (cáp treo), Bruns-Pflanzen-Export (cây con), GfK (dịch vụ nghiên cứu thị trường), LEMO (máy hàn phim), Omicron (kính hiển vi xuyên hầm dùng trong công nghệ nano), SkySails (hệ thống động cơ gió cho tàu) và nhiều, nhiều hơn nữa. Sự chú tâm như thế là lợi thế lớn vì hạn chế được sự phức tạp của tổ chức.

Tổ chức theo chức năng

Gần như tất cả các nhà vô địch ẩn danh một sản phẩm, một thị trường đều có tổ chức theo chức năng kinh điển, nó có đặc điểm là đơn giản và phân công trách nhiệm rõ ràng.

Cách đây mấy năm, ông Hans Peter Stihl, giám đốc điều hành công ti Stihl, dẫn đầu thị trường thế giới về máy cưa xích, đề nghị tôi nghiên cứu tổ chức của công ti ông. Mục đích là tái phân công trách nhiệm của ban giám đốc trong tương lai để thực hiện việc bàn giao thế hệ sắp diễn ra. Nhiệm vụ không phải là khó. Sau một loạt cuộc phỏng vấn và phân tích, chúng tôi đề nghị tổ chức theo chức năng với ban giám đốc gồm 5 thành viên và những phòng ban chức năng thường thấy. Đề nghị này đã được thực hiện. Tại công ti Stihl, một nhà vô địch ẩn danh tương đối lớn với doanh thu hơn 3 tỉ USD và 11.000 nhân viên, việc phân công lao động theo chức năng được thiết lập ở cấp quản lí cao nhất. Ở những nhà vô địch ẩn danh nhỏ hơn, việc phân công chức năng không phải lúc nào cũng được thực hiện ở cấp quản lí cao nhất vì cấp cao nhất thường chỉ có một hoặc hai người. 21,2% các nhà vô địch ẩn danh chỉ có một người ở cấp C (C-level hay C-Level executives) hay cấp quản lí cao nhất. Tại những công ti này, việc phân công lao động chỉ bắt đầu ở cấp quản lí thứ hai. Rõ ràng là tổ chức theo chức năng là hình thức tổ chức tương đối tự nhiên đối với các công ti một sản phẩm, một thị trường. Sự đơn giản của tổ chức phản ánh những quá trình không phức tạp, tốc độ và năng lực tổ chức của các nhà vô địch ẩn danh.

Tổ chức theo phòng ban

Từ Chương 5, chúng ta đã biết rằng quá trình xác định thị trường của các nhà vô địch ẩn danh trước hết hướng tới việc ứng dụng sản phẩm và các nhóm khách hàng mà công ti nhắm vào. Khi chuyển từ tổ chức theo chức năng sang tổ chức theo phòng ban nghĩa là các nhà vô địch ẩn danh đã theo đuổi chính những tiêu chí này: các đơn vị tổ chức mới hướng chú ý trước hết vào các nhóm khách hàng và ứng dụng sản phẩm. Sản phẩm hay công nghệ - như tiêu chí tổ chức - có vai trò không đáng kể. Dĩ nhiên là hai khía cạnh này thường đi kèm với nhau vì các nhóm khách hàng đòi hỏi những sản phẩm đã được cải biến. Tổ chức hướng tới các nhóm khách hàng của công ti Westfalia Separator - đứng hàng đầu thế giới về công nghệ li tâm và tách - là trường hợp đáng lưu ý. Hình 10.3 cho thấy Westfalia Separator đã chuyên môn hóa công ti cho từng phân khúc thị trường.

Hình 10.3: Westfalia Separator - tổ chức theo phòng ban nhắm tới các nhóm đối tượng


Tất cả bốn đơn vị của Westfalia đều là những đơn vị độc lập về mặt pháp lí, có ban lãnh đạo riêng của mình. Tổ chức luôn hướng tới các nhóm khách hàng có thể là tổ chức rất mạnh. Sự kiện: các đơn vị kinh doanh là những công ti độc lập về mặt pháp lí không chỉ quan trọng khi xem xét trách nhiệm mang tính hình thức mà còn làm thay đổi chất lượng của mối tương tác với khách hàng. Người đứng đầu đơn vị có chức danh chính thức là giám đốc điều hành công ti của ông ta. Điều này giúp tạo cho họ vị thế của một đối tác có thẩm quyền cao, có đủ quyền lực trong việc ra quyết định trong mắt khách hàng.

Trong mười năm gần dây, nhiều nhà vô địch ẩn danh, tương tự như Westfalia Separator, đã áp dụng hình thức tổ chức hướng vào các nhóm khách hàng. Các công ti như Plansee (vật liệu chất lượng cao), Hoerbiger (động cơ và công nghệ máy nén khí), IBG (công nghệ hàn), và nhiều công ti khác là những ví dụ. Công ti Kern-Liebers đã thực hiện một cách kiên trì quá trình phân cấp và là công ti hàng đầu thế giới với sản phẩm chính là lò xo cho thắt lưng an toàn. Nhưng sản phẩm thứ hai của Kern-Liebers - mạch in điện tử cho máy dệt và máy dệt kim với chương trình sản xuất lớn nhất thế giới hay cho dụng cụ phẫu thuật - cũng có vị trí vững chắc trên thị trường. Công ti Kern-Liebers có hơn 50 chi nhánh được tổ chức tại 15 trung tâm với đầy đủ thẩm quyền. Được như thế là vì doanh thu của công ti này lên tới 658 triệu US, trung bình một trung tâm có doanh thu 44 triệu USD một năm. Quá trình phân cấp quyết liệt như thế cho thấy rằng sự gần gũi với khách hàng và sự kết hợp giữa thị trường và công nghệ được thảo luận trong các chương trước đã được bảo đảm. Trường hợp tiếp theo là tập đoàn Heitkamp & Thumann. Tập đoàn này có 25 công ti, với 1.900 nhân viên và doanh thu 417 triệu USD vào năm 2010, tức là một nhà vô địch ẩn danh điển hình. Trung bình mỗi công ti của tập đoàn có doanh thu là 17 triệu USD và khoảng 80 nhân viên. Heitkamp & Thumann là công ti hàng đầu thế giới về vỏ pin, bình xịt và sơn bên trong. Việc kinh doanh được điều hành từ Waterburg, bang Connecticut (Mỹ), và họ có nhà máy trên khắp thế giới. Nhưng trụ sở của tập đoàn lại nằm ở Đức.

Tính năng động của tổ chức

Nhưng tổ chức hướng về ứng dụng hay hướng về nhóm khách hàng không phải lúc nào cũng đúng. Toàn cầu hóa mang đến những sự phức tạp đòi hỏi những giải pháp mới về tổ chức. Công ti Würth, đứng hàng đầu thế giới về sản phẩm lắp ráp, bắt đầu tổ chức phòng ban nhắm tới nhóm khách hàng ngay từ những năm 1980. Ở những nước lớn, các phòng ban riêng biệt được thành lập cho những ngành thủ công trong các lĩnh vực như đồ gỗ, đồ kim loại, xây dựng, ô tô, và cho các khách hàng trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi làm như thế, Würth đã định hướng tốt hơn tới nhu cầu của khách hàng, có năng lực cao hơn trong những lĩnh vực khác nhau, catalog hay sổ tay có tính đặc thù hơn và nhiều lợi thế khác nữa. Tổ chức theo phòng ban tạo cho Würth động lực phát triển to lớn và khả năng xâm nhập vào những phân khúc thị trường đặc biệt.

Nhưng toàn cầu hóa đang gia tăng cũng làm cho tổ chức rắc rối thêm. Từ quan điểm phân chia theo phòng ban, từ bỏ việc thành lập các đơn vị kinh doanh mới trên toàn cầu và dành công việc cho các phòng ban chức năng là hợp lí. Nhưng điều đó sẽ làm cho một số địa điểm hay thậm chí là các công ti trong từng nước làm những việc trùng nhau và dẫn tới bất lợi về chi phí. Würth đã có lí khi thành lập các công ti quốc gia, hiện nay những công ti này có chi nhánh tại 86 quốc gia khác nhau trên thế giới. Giám đốc điều hành của họ không chỉ là những người đứng đầu mà còn là những người thực sự điều phối các hoạt động kinh doanh ở nước mình. Điều này đã dẫn đến một tổ chức phức tạp và những nhược điểm liên quan như báo cáo trùng lặp, quá trình tham vấn kéo dài, tốn thời gian, v.v. Công việc xem xét lại tổ chức mà Würthyêu cầu chúng tôi thực hiện vào cuối những năm 1990 đã dẫn đến kết quả đáng ngạc nhiên là nhóm khách hàng là thợ thủ công trong một nước từ trước đến nay là tương đối giống nhau, nhưng giữa những nước khác nhau thì rất khác nhau. Một người thợ mộc Tây Ban Nha có nhiều điểm chung với một người thợ khóa Tây Ban Nha hơn là với một người thợ mộc Đức. Điều này tạo ra khó khăn cho trưởng phòng tại trụ sở chính trong việc đưa ra đánh giá đúng đắn về vấn đề phát sinh trong một đất nước xa xôi và tìm giải pháp cho vấn đề. Người đứng đầu công ti quốc gia của Würth gần gũi hơn với những vấn đề này, ông ta có hiểu biết tốt hơn về nhân viên và khách hàng, và vì vậy, có thể phản ứng hiệu quả hơn ở cấp địa phương.

Những hiểu biết thấu đáo như thế đã thúc đẩy Würth thay tổ chức của công ti từ hình thức phòng ban sang tổ chức theo khu vực. Trong hệ thống này, các đơn vị chủ yếu có chức năng phối hợp chứ không có quyền tự giải quyết. Sức mạnh to lớn của Würth là bán hàng trực tiếp, mà cái đó, theo định nghĩa, lại được thực hiện tại địa phương. Rõ ràng là, trong trường hợp này, tổ chức theo khu vực là giải pháp tốt hơn. Cơ cấu tổ chức chỉ là một phần của tổ chức tổng thể của một công ti có nhiều đơn vị kinh doanh. Ở công ti Würth, quá trình tham vấn, các cuộc họp của ban lãnh đạo và hoạt động liên phòng ban là rất quan trọng. Lãnh đạo cao nhất dành rất nhiều thời gian và năng lượng cho các quá trình này, đó là một phần không thể thiếu của văn hóa của công ti Würth và đến lượt mình, hoạt động đó lại tạo ra nền văn hóa ấy. Bên cạnh trách nhiệm mà mình được phân công, các nhà quản lí còn làm nhiệm vụ liên quan đến nhiều phòng ban khác và trong khi làm như vậy, họ kết hợp được mọi thứ lại với nhau.

Phân cấp trong giai đoạn đầu

Các nhà vô địch ẩn danh áp dụng hình thức tổ chức phân cấp, hướng tới khách hàng của doanh nghiệp mới hay nhóm khách hàng ngay từ giai đoạn phát triển ban đầu. Công ti Herrenknecht là ví dụ điển hình cho những trường hợp như thế. Herrenknecht là công ti hàng đầu thế giới về công nghệ khoan đường hầm. Đường hầm thường khoan ngang hay khoan với độ nghiêng không lớn. Herrenknecht nhận thấy cơ hội chuyển năng lực khoan ngang sang khoan đứng. Thị trường khoan đứng lớn nhất là ngành dầu mỏ, nhưng trong lĩnh vực này đã có nhiều đối thủ mạnh. Khu vực mới là khoan sâu cho mục đích địa nhiệt, nghĩa là thu hồi nhiệt từ trong lòng đất, từ giếng khoan sâu 6.000 m (4 dặm), đây là thách thức lớn về mặt kĩ thuật. Người ta tin rằng nguồn năng lượng mới này sẽ có triển vọng vô cùng to lớn - so với năng lượng gió và năng lượng mặt trời - vì nguồn cung bao giờ cũng sẵn sàng và không phụ thuộc vào thời tiết. Nhằm phát triển ngành kinh doanh mới này, Herrenknecht thành lập công ti Herrenknecht Vertical. Công ti mới có thể tập trung toàn bộ sức lực vào ngành kinh doanh mới, nhắm tới những nhóm khách hàng khác nhau, trong đó có những thách thức mới về mặt công nghệ. Đấy không còn là một phòng ban của công ti Herrenknecht mẹ mà là một công ti riêng biệt. Công ti Doppelmayr, đứng hàng đầu thế giới về cáp treo, có cách tiếp cận tương tự. Các chi nhánh Doppelmayr Cable Cars và Doppelmayr Transport Technology, tập trung những lĩnh vực kinh doanh mới là chuyên chở trong nội bộ thành phố và vận tải nội địa trước khi thực hiện những dự án đầu tiên. Nhưng Doppelmayr lại sử dụng tổ chức bán hàng trên toàn cầu cho cả ba doanh nghiệp. Đây là một ví dụ nữa của việc phân cấp một cách chủ độmg ngay từ đầu.

Giám đốc điều hành của các nhà vô địch ẩn danh thường nhấn mạnh rằng doanh nghiệp mới được thành lập trong một tổ chức lớn hơn, có từ trước đó, thì chỉ là đứa trẻ mồ côi mà thôi. Nếu không được tách khỏi tổ chức này thì doanh nghiệp mới, theo định nghĩa, sẽ là nhỏ bé ngay từ đầu và có vị trí yếu hơn rất nhiều so với doanh nghiệp chính. Trong bối cảnh như thế, sự gần gũi với khách hàng là vấn đề quan trọng nhất. Trong những chương trước, chúng ta đã thấy rằng gần gũi với khách hàng là một trong những sức mạnh to lớn và lợi thế cạnh tranh của các nhà vô địch ẩn danh. Gần gũi với khách hàng dường như chỉ được coi là khía cạnh có liên quan mật thiết với hành vi của nhân viên. Tôi tin rằng đấy là sai lầm. Tổ chức cũng có vai trò trong việc gần gũi với khách hàng ít nhất là bằng, nếu không nói là hơn, hành vi của nhân viên. Chỉ có những đơn vị nhỏ mới bảo đảm được sự gần gũi tối ưu với khách hàng và trở thành nền tảng của chiến lược mang lại thành công của các nhà vô địch ẩn danh.

Tổ chức quy trình

Cho đến đây, chúng ta chủ yếu mới chỉ xem xét cơ cấu của tổ chức. Nhưng các nhà vô địch ẩn danh tiến hành tổ chức quy trình như thế nào? Những tổ chức có quy mô trung bình nhưng phức tạp này được quản lí như thế nào? Nói chung, chúng tôi thấy một bức tranh đa sắc màu trong việc chính thức hóa các quy trình. Ít người trả lời chọn thái cực 1 (mức độ chính thức hóa rất thấp) và 7 (mức độ chính thức hóa rất cao). Hai phẩn ba các câu trả lời nằm ở khoảng giữa, nghĩa là trung bình 3,76 trên thang 7 điểm. Sai lệch một chút với 4 (trung bình) có thể được lí giải là xu hướng bớt chính thức hóa hơn. Tổ chức quy trình là vấn đề rất đáng quan tâm vì ban lãnh đạo cấp cao nhất có rất ít người. Hơn một phần năm (chính xác là 21,2%) các nhà vô địch ẩn danh chỉ có một nhà quản lí ở cấp cao nhất. Không cần phải tái phát minh khái niệm về ban quản lí ít người, nhưng có thể học được điều này từ các nhà vô địch ẩn danh. Xin được minh họa bằng một vài ví dụ.

-    Một công ti bán hàng tiêu dùng có 25 chi nhánh ở nước ngoài, tất cả các chi nhánh đều do một người quản lí, người này còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nữa.

-    Phòng quảng cáo của một nhà vô địch ẩn danh với ngân sách khoảng 100 triệu USD chỉ có hai người quản lí và mấy trợ lí. Đại lí quảng cáo được coi là thừa.

-    Tôi đã tới thăm nhiều nhà vô địch ẩn danh rất sáng tạo. Đôi khi phòng nghiên cứu phát triển chỉ có một người. Như đã nói trong Chương 8, ngân sách nghiên cứu và phát triển và số người trong các phòng ban này là rất ít nếu so với số bằng sáng chế và công cuộc đổi mới của họ.

Ít người nghĩa là công việc nặng nề, nhưng lại giảm đáng kể nhu cầu/và mức độ phức tạp của trao đổi thông tin. Điều này là dễ hiểu bởi vì số lượng mối quan hệ song phương tăng theo bình phương số người tham gia.[4] Nếu có bốn người tham gia, ta có sáu mối quan hệ; mười người tham gia ta có 45 mối quan hệ, hai mươi người tham gia số mối quan hệ song phương là 190. Ít người trong nội bộ phòng ban của các nhà vô địch ẩn danh làm cho việc thông tin đơn giản đi rất nhiều.

Tuy nhiên, việc tổ chức theo phòng ban và quá trình toàn cầu hóa tạo ra nhiều phức tạp cần phải giải quyết. Các nhà vô địch ẩn danh áp dụng những giải pháp rất hiện đại và công nghệ thông tin mới. Tập đoàn IBG,[5] đứng hàng đầu thế giới về công nghệ hàn, có ba ban: công nghệ hàn, thiết bị và hóa chất. Doanh thu của IBG tăng từ 88 triệu USD năm 1995 lên hơn 250 triệu USD vào năm 2010. Cũng trong giai đoạn này, số nhân viên tăng từ 1.000 lên khoảng 2.000 người. Hiện nay, có 70 công ti đặt trụ sở tại hơn 40 nước dưới cái ô của IBG (ở Trung Quốc có 8 công ti). Hoạt động như một cơ quan quản lí năng động nhưng IBG chỉ có 12 nhân viên.

Ở đây, chúng tôi đưa ra mô tả ngắn gọn về tổ chức mạng lưới của IBG:

-   500 nhân viên quan trọng nhất (một phần tư toàn thể nhân viên) cùng với tay nghề của họ được đưa vào ngân hàng dữ liệu.

-    Tất cả những quyết định quan trọng đều được thông qua theo quy trình gọi là Quy trình ra quyết định khái quát (GDP) với những quy tắc rất đơn giản.

-    Người khởi xướng quyết định nhập vào từ khóa và hệ thống phần mềm, với sự trợ giúp của ngân hàng dữ liệu về tay nghề, giới thiệu nhóm cho GDP.

-    Nhóm này phải đạt được quyết định trước thời hạn đã định.

-    Một trọng tài trung lập sẽ theo dõi thủ tục, thủ tục sẽ được ghi lại một cách cẩn thận.

Muốn cho hệ thống mạng lưới này hoạt động thì công nghệ thông tin là quan trọng nhất. Tập đoàn IBG đã thành lập những phòng hội thảo từ xa chất lượng cao tại 25 địa điểm khác nhau. Chín trong số những phòng hội thảo này có thể kết nối với nhau cùng một lúc. Điều đó làm cho nhóm ra quyết định có thể gặp và hợp tác với nhau một cách hiệu quả, không phụ thuộc vào địa điểm và phòng ban mà họ là thành viên. Muốn cho mạng lưới này hoạt động một cách phù hợp thì tất cả các nhân viên phải đồng nhất với văn hóa và chiến lược của công ti. Đấy là lí do vì sao phải có một giai đoạn chuẩn bị lâu dài để làm quen với hệ thống cũng như hạ tầng công nghệ thông tin.

Đồng nhất với công ti và những mục tiêu của nó là vấn đề cốt tử đối với hiệu quả hoạt động của các tổ chức đã được phân cấp. Nhân viên hăng hái đồng nhất mình với công ti là một trong những mặt mạnh của các nhà vô địch ẩn danh. Nếu người ta chia sẻ những giá trị và mục tiêu chung và vì vậy mà làm việc như một đội thì không cần nhiều công tác tổ chức như khi họ có những giá trị và mục tiêu khác nhau. Nhiều nhà vô địch ẩn danh ăn nên làm ra với rất ít “tổ chức”.

Tóm lại, các nhà vô địch ẩn danh điển hình là những công ti một sản phẩm, một thị trường; đối với những công ti như thế, tổ chức hiệu quả gần như là hình thức tự nhiên. Các nhà vô địch ẩn danh kiên trì phân cấp ngay từ giai đoạn đầu. Bằng cách đó, ngay cả những công ti lớn, đã tiến hành đa dạng hóa mềm, cũng tìm cách giữ được sức mạnh của sự chú tâm, gần gũi với khách hàng và tinh thần dám nghĩ dám làm. Một số nhà vô địch ẩn danh áp dụng tổ chức mạng lưới đầy sáng tạo với nguồn lực rất hạn chế. Các nhân viên đồng nhất mình một cách sâu sắc với công ti có nghĩa là các nhà vô địch ẩn danh cần tương đối ít tổ chức.

Tổ chức chuỗi giá trị

Các nhà vô địch ẩn danh tổ chức chuỗi giá trị của họ như thế nào? Liên kết theo chiều dọc của họ mạnh đến mức nào và họ thích tự làm hay thuê gia công bên ngoài? Về những vấn đề này, họ không đi theo cách thức quản lí hiện đại mà là những công ti rất bảo thủ. Nhưng đã có sự dịch chuyển nhất định, nếu so với mười năm trước đây.

Hình 10.4 cho thấy một số số liệu về tổ chức chuỗi giá trị.

Hình 10.4: Những số liệu chủ yếu về chuỗi giá trị


Chuỗi giá trị cho thấy công ti đã đưa thêm được gì vào giá trị của vật tư và dịch vụ mà họ đã mua. Như vậy là, nó tương đương với tổng số lương, thuế, tiền lãi và lợi nhuận. Con số then chốt này thường được thể hiện bằng phần trăm của doanh thu. Hiện nay, giá trị gia tăng của các nhà vô địch ẩn danh là 42%, một con số khá cao đối với các công ti công nghiệp hiện đại. Giá trị gia tăng trung bình của ngành công nghiệp Đức là 29,8%.[6] Các nhà vô địch ẩn danh có chuỗi giá trị gia tăng cao hơn hẳn công ti trung bình. Đấy là do họ thuê gia công ít hơn và các nhân viên tạo được nhiều giá trị hơn, nghĩa là họ là những người có năng suất làm việc cực kì cao - không nhất thiết thể hiện ở khối lượng công việc tuyệt đối mà thể hiện ở sản phẩm độc đáo, có giá trị cao, tức là thông qua lợi thế cạnh tranh (xem Chương 9). Sự thay đổi trong mười năm qua là rất đáng chú ý. Chuỗi giá trị đã giảm từ 48% xuống còn 42% doanh thu. Sự sụt giảm này có thể là do gia công có sự tăng nhẹ. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề này một cách kĩ lưỡng hơn.

Liên kết theo chiều dọc và gia công

Liên kết theo chiều dọc ở đây thể hiện phần công việc sản xuất được thực hiện trong công ti. Hiện nay, liên kết theo chiều dọc của các nhà vô địch ẩn danh là 50%. Mặc dù đã giảm 7 phần trăm so với mười năm trước, nhưng vẫn là cao đối với các công ti sản xuất hiện đại. Gần một phần tư có liên kết theo chiều dọc cao hơn 70%, có thể được mô tả một cách không chặt chẽ là: “họ tự làm mọi thứ.” Tỉ lệ các nhà vô địch ẩn danh có liên kết theo chiều dọc ít nhất là 40% giảm nhẹ, từ 75% xuống còn 68%. Thái độ chống đối hay không thích gia công được khẳng định bằng những câu trả lời cho câu hỏi: liệu liên kết theo chiều dọc có thấp hơn đối thủ hay không. Hơn một nửa (chính xác là 51,6%) dứt khoát phủ nhận điều này, chỉ có 13,4% trả lời “có”. Ngoài ra, 42,4% kiên quyết chống lại việc gia công thái quá, trong khi chỉ có 12,1% ủng hộ mạnh mẽ việc gia công. Các nhà vô địch ẩn danh thể hiện rõ ràng rằng họ muốn tự làm lấy và phản đối việc gia công. Khác hẳn với các công ti lớn, tôi thường nghe họ nói: “Chúng tôi đưa đi gia công càng nhiều càng tốt.”

Trong lí thuyết quản lí và sách báo, gia công thường được ca ngợi là liều thuốc trị bách bệnh. Nhiều công ti khoe khoang rằng họ không còn tự mình sản xuất bất cứ thứ gì nữa và như vậy là thoát được, một mặt là sự trói buộc về chi phí tiền lương và đòi hỏi của công đoàn và mặt khác là chi phí cố định. Quyết định thuê bên ngoài thường bị chi phối bởi khía cạnh chi phí. Nhà cung cấp rẻ nhất sẽ nhận được đơn hàng. Các nhà vô địch ẩn danh lại có quan điểm khác về những vấn đề này. Họ tin rằng tiêu chuẩn chất lượng cao của họ không cho phép thuê gia công bên ngoài những linh kiện quan trọng nhất. Gần như chắc chắn là tính độc đáo của họ sẽ bị đe dọa. Rủi ro tiếp theo của gia công là khả năng đánh mất trình độ chuyên môn. Điều này đúng đối với lĩnh vực sản xuất, và thậm chí còn đúng hơn đối với lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, các nhà vô địch ẩn danh là những người rất bảo thủ, họ cũng có thái độ bài xích hợp tác và thuê gia công bên ngoài. Vì tất cả những lí do đó, các nhà vô địch ẩn danh rất thích giữ những hoạt động chủ yếu trong nội bộ công ti, thậm chí nếu điều đó có dẫn tới một số bất lợi nhất định về chi phí. Mặc dù thái độ như thế đã không còn gay gắt như mười năm trước đây, nhưng cách tiếp cận cơ bản vẫn hầu như không thay đổi. Sự suy giảm nhẹ phần trăm của chuỗi giá trị và liên kết theo chiều dọc có thể là do sự gia tăng thuê gia công bên ngoài những công việc không thật sự quan trọng. Các nhà vô địch ẩn danh bao giờ cũng là những người thuê gia công cực kì nhiều, đấy là với những phần việc không thật sự quan trọng. Ví dụ, nhiều nhà vô địch ẩn danh không có phòng luật hay phòng thuế, mà ủy thác cho các chuyên gia bên ngoài giải quyết những nhiệm vụ đó, cũng như những nhiệm vụ không thật sự quan trọng khác.

Kết quả của một số công trình nghiên cứu chuyên đề cũng minh họa cho thái độ bài xích gia công. Lời bình luận sau đây của công ti Wanzl, dẫn đầu thị trường thế giới về xe đẩy trong siêu thị và xe chở hành lí trong sân bay, phản ánh thái độ điển hình đó: “Chúng tôi có liên kết theo chiều dọc rất cao, chúng tôi tự sản xuất hầu như tất cả các phần và các thiết bị. Thiết bị mạ điện của chúng tôi làm cho sản phẩm của chúng tôi có bề mặt tinh xảo không ai sánh được.” Công ti Hasenkamp, một trong những công ti hàng đầu thế giới chuyên vận chuyển các tác phẩm nghệ thuật, tự làm lấy tất cả mọi thứ. “Chúng tôi không thuê gia công bất cứ thứ gì và nhận toàn bộ trách nhiệm. Đấy là gốc rễ của sự vượt trội về chất lượng của chúng tôi so với những công ti vận tải coi vận chuyển các tác phẩm nghệ thuật như là nghề phụ và thuê gia công rất nhiều,” ông Hans Ewald Schneider, giám đốc điều hành của Hasenkamp, nói như thế.

Kaldewei là công ti hàng đầu châu Âu về bồn tắm bằng thép. Kaldewei sản xuất bồn tắm từ thép tấm dày 3,5 mm chứ không phải dày 1,5 mm như thường được dùng trong ngành này. Tất cả các nhà sản xuất bồn tắm bằng thép dày 1,5 mm đều phải rời bỏ thương trường. Lời tuyên bố: “Kaldewei tự làm mọi thứ” khá gần với sự thật; họ làm từ khuôn đúc bồn tắm đến sơn bóng để sơn bồn tắm. Thành phần sơn bóng quyết định bề mặt và cảm nhận về chất lượng của người sử dụng. Bí mật của Kaldewei nằm trong công thức của chính họ. Đây là nhà sản xuất bồn tắm duy nhất có chất “sơn ngọc”, chất bẩn gần như không thể bám được vào bề mặt của bồn. Khi tôi tới thăm nhà máy, ông Franz Kaldewei, vừa là chủ vừa là giám đốc điều hành, nói với tôi: “Dĩ nhiên là tôi có thể mua sơn bóng rẻ hơn. Nhưng sự độc đáo và vượt trội trong cạnh tranh của chúng tôi xuất phát từ việc tự mình làm lấy những thứ này. Không có đối thủ nào có thể tuyên bố như thế.” Không có lời nào chính xác hơn về tầm quan trọng của quyết tâm tự làm lấy nhằm tạo ra sự độc đáo trong cạnh tranh.

Công ti Enercon, dẫn đầu về công nghệ trong số các nhà sản xuất turnbine  máy điện gió, có liên kết theo chiều dọc hơn 75%. Trong khi các đối thủ mua phần lớn linh kiện và lắp ráp các bộ phận thì Enercon tự sản xuất hầu như tất cả mọi thứ: tháp, cánh quạt, thậm chí tự vận chuyển các thiết bị bằng tàu của mình. Chất lượng vượt trội của Enercon có phần đóng góp cực kì quan trọng của việc kiểm soát toàn diện tất cả các bước trong quá trình sản xuất.

Ông Hans-Joachim Boekstegers, giám đốc điều hành công ti Multivac, một trong những công ti hàng đầu trong lĩnh vực hệ thống đóng gói chân không, xen vào: “Chúng tôi tự chế tạo khá nhiều máy móc. Vì vậy mà sản xuất phần lớn thiết bị tại chỗ sẽ rẻ hơn là đi mua.”[7] Công ti Miele, nhà sản xuất máy giặt và máy rửa bát hàng đầu thế giới, cũng cảm thấy như thế. “Chúng tôi cố gắng tự sản xuất càng nhiều bộ phận càng tốt, tốt nhất là trong một khu vực nhỏ với những con người chân thực,” Miele đã nói như thế. Ngay cả trong thế kỉ XXI, 95% thiết bị của Miele vẫn được chế tạo trong các nhà máy chỉ cách trụ sở công ti bốn mươi phút đi bằng ô tô.

Công ti Braun, đứng hàng đầu thế giới trong một vài lĩnh vực thiết bị điện loại nhỏ, nói: “Braun tự chế tạo hầu như mọi thứ, kể cả các máy móc sản xuất đặc biệt và tất cả những bộ phận chủ yếu trong các máy cạo râu của họ. Dù những điều kiện trên thương trường có tốt đến đâu cũng không thể thực hiện được những tiêu chuẩn chất lượng cao như thế.” Braun, một chi nhánh của Gillette, tức là chi nhánh gián tiếp của Procter & Gamble, đứng hàng đầu thế giới trong ba nhóm sản phẩm (dao cạo râu, thiết bị triệt lông và máy trộn cầm tay). Điều này làm ta phải suy nghĩ. Công ti Bobcat (Mỹ), đứng hàng đầu thế giới về loại xe xúc gọi là skid steer loaders, nói với tôi: “Bất cứ khi nào có điều kiện, chúng tôi đều giữ công việc lại cho công ti. Tôi tìm thấy giá của các bộ phận trên thị trường, sau đó tôi kêu gọi người của mình sản xuất với giá như thế hoặc rẻ hơn.Thường thì họ thành công. Và tôi biết mình sản xuất với chất lượng như thế nào. Cứ có điều kiện là chúng tôi tìm cách tránh gia công.” Mục tiêu của Bobcat là tránh để nhân viên dư thừa: gia công bên ngoài tăng lên có thể làm cho số người bị nghỉ việc cũng gia tăng.

Xưởng cơ khí riêng và tự chế tạo máy móc

Các nhà vô địch ẩn danh thích tự làm lấy thường đi xa hơn và đưa cả những bước đi ban đầu vào chuỗi giá trị. Như đã nhắc tới trong đoạn trích dẫn của Braun, nhiều công ti kiểu đó có xưởng cơ khí riêng. Tại công ti Hoppe, một trong những công ti hàng đầu về phụ tùng cho cửa sổ và cửa ra vào, người ta nói với tôi: “Gần 10% lực lượng lao động của chúng tôi chế tạo máy móc của riêng chúng tôi, máy móc của chúng tôi được giữ bí mật tuyệt đối. Chúng tôi phát triển và sản xuất lấy máy móc của mình và không bán cho người khác. Những chiếc máy này tạo ra năng lực của chúng tôi.” Tại công ti Brita, đứng hàng đầu thế giới về máy lọc nước sử dụng tại chỗ, tôi cũng thấy phòng chế tạo máy, còn ông giám đốc điều hành thì nhận xét: “Tại sao một công ti nào đó lại sản xuất những chiếc máy này giỏi hơn? Brita là công ti đứng đầu thị trường thế giới vì nó có sản phẩm độc đáo và sản phẩm này được chế tạo trên những chiếc máy độc đáo.” Tình hình cũng tương tự như ở công ti Gardena, đứng hàng đầu châu Âu về dụng cụ làm vườn. Máy móc được sản xuất ngay trong quá trình phát triển sản phẩm, kết quả là tiết kiệm được nhiều thời gian. Weidmüller, một trong những công ti hàng đầu về công nghệ giao diện điện tử, tự làm lấy dụng cụ của mình. Ông Ralf Hoppe, giám đốc điều hành nói: “Chúng tôi tự làm lấy dụng cụ. Chúng tôi chỉ có thể cho ra chất lượng cao nhất nếu dung sai bằng không bắt đầu từ những dụng cụ này.”[8] 200 trong số 3.000 nhân viên của Weidmüller tham gia vào việc chế tạo dụng cụ.

Đấy là những cách tiếp cận chung của các nhà vô địch ẩn danh trên toàn thế giới. Ông Seiichi Hirata, giám đốc điều hành công ti Brother Industries (Nhật Bản), giải thích nguyên nhân thành công của Brother: “Chúng tôi sản xuất dụng cụ cho sản phẩm của mình trong phòng dụng cụ của chúng tôi. Điều này đặc biệt có hiệu quả đối với thiết bị công nghệ cao, ví dụ như máy dệt kim của chúng tôi. Nó đòi hỏi nhiều công nghệ hơn là máy in. Trong tương lai, cơ điện tử sẽ là công nghệ bên trong máy móc của chúng tôi. Chúng tôi rất mạnh về cơ điện tử.” Nhà vô địch ẩn danh Chupa Chups (Tây Ban Nha), đứng hàng đầu thế giới về kẹo que, cũng đưa ra tuyên bố tương tự: “Hơn 80% máy móc mà Chupa Chups đang sử dụng được sản xuất ngay trong nội bộ công ti và được bảo vệ kĩ lưỡng, không cho đối thủ biết.” Công ti Lorenz Bahlsen Snack-World mua máy móc từ một nhà sản xuất bánh snacks mặn, nhưng các kĩ thuật viên của họ đã cải tạo lại những chiếc máy này và quy trình liên quan, và vì vậy mà có mức độ cải tiến đáng kể. Ông Lorenz Bahlsen, giám đốc điều hành, coi đấy là động cơ cực kì quan trọng của ưu thế cạnh tranh của họ: “Đấy là cách chúng tôi giành được lợi thế tạm thời và dùng nó để củng cố thương hiệu của chúng tôi. Phát triển và cải tiến những chiếc máy này tạo được lợi thế công nghệ và chúng tôi biến nó thành lợi thế trên thị trường. Lợi thế công nghệ chỉ là tạm thời, lợi thế trên thị trường nhờ công nghệ có tính bền vững hơn.”

Griesson - de Beukelaer, nhà sản xuất bánh quy hàng đầu, cũng làm tương tự. Theo giám đốc điều hành Andreas Land, máy móc và thiết bị mà Griesson mua là cơ sở cho những phát triển tiếp theo của công ti. Haribo, nhà sản xuất kẹo hình gấu hàng đầu thế giới; Ferrero, nhà sản xuất kẹo đầy sáng tạo và nhiều công ti hàng tiêu dùng khác, chuyên sản xuất những sản phẩm đơn giản, cũng có thái độ tương tự, mặc dù chúng ta có thể giả định rằng tất cả những sản phẩm này đều có thể được sản xuất trên những cỗ máy thông dụng được chế tạo từ trước. Trong một số trường hợp, những công ti mới hay thậm chí các nhà vô địch ẩn danh còn có nguồn gốc từ những xưởng cơ khí của chính mình. Boy, một trong những công ti hàng đầu về máy ép khuôn bằng nhiệt, phát triển từ xưởng cơ khí của nhà sản xuất bàn chải đánh răng M+C Schiffer.

Liên kết chặt chẽ theo chiều dọc hầu như tự động có nghĩa là ngăn chặn được đối thủ bắt chước. Ông Jürgen Nussbaum, thành viên ban giám đốc công ti Sachtler, đứng hàng đầu thế giới về chân máy quay phim chuyên nghiệp, nói: “Ở một số nước, đối thủ tìm cách bắt chước sản phẩm của chúng tôi. Nhưng họ thất bại vì không có dụng cụ của chúng tôi. Chúng tôi tự làm lấy dụng cụ, không thể mua trên thị trường những dụng cụ như thế. Đấy là cách chống xâm phạm bản quyền tốt nhất của chúng tôi.” Trong thời đại, khi mà nhiều công ti phàn nàn về những kẻ bắt chước, liên kết theo chiều dọc kiểu này ngày càng trở thành biện pháp chống bắt chước quan trọng. Chúng ta cần phải suy nghĩ thận trọng hơn về việc thuê gia công một cách vội vã hay ngừng các hoạt động chế tạo cơ khí của chính công ti.

Tự nghiên cứu và phát triển

Các nhà vô địch ẩn danh thể hiện rất rõ ước muốn tự lực tự cường trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Hơn bốn phần năm những người trả lời các câu hỏi của chúng tôi nói rằng mục tiêu trong lĩnh vực nghiên cứu của họ là mức độ liên kết theo chiều dọc cao hoặc rất cao. Hai lí do quan trọng là chuyên môn hóa và bảo vệ bí quyết (know-how). Chuyên môn hóa và chú tâm toàn bộ có nghĩa đơn giản là không thể tìm được người ngoài có đủ chuyên môn đóng góp được gì đó vào giá trị sản phẩm. Bên thứ ba có thể sẽ khó mà giỏi hơn Hauni trong việc chế biến thuốc lá hay Baader trong việc chế biến cá. Với thị phần thế giới lên tới 80% hoặc hơn, những nhà vô địch ẩn danh này có các chuyên gia giỏi nhất thế giới trong đội ngũ nghiên cứu và phát triển của mình, và thường có những bí quyết chuyên môn hơn tất cả các đối thủ khác cộng lại. Ở Nhật Bản, chúng tôi cũng thấy người ta rất thích tự làm công việc nghiên cứu và phát triển. Ông Seiichi Hirata, giám đốc điều hành công ti Brother Industries, tuyên bố một cách rõ ràng: “Chúng tôi tự phát triển mọi thứ.”

Về hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, các nhà vô địch ẩn danh là những người rất bảo thủ. Một giám đốc điều hành công ti hàng đầu trong ngành cung cấp phụ tùng ô tô chia sẻ kinh nghiệm với tôi: “Có lần chúng tôi đã hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển với một công ti khác. Chúng tôi hầu như chẳng học được gì. Nhưng người ta lại tiếp thu được nhiều kiến thức của chúng tôi. Từ đó chúng tôi trở thành rất bảo thủ về nghiên cứu và phát triển. Chúng tôi coi đấy là biện pháp an toàn nhất nhằm bảo vệ kiến thức vượt trội của chúng tôi.” Mặc dù thái độ thận trọng như thế vẫn giữ thế thượng phong, nhưng chúng tôi cũng nhận thấy sự cởi mở đang gia tăng khi các công ti xâm nhập vào những lĩnh vực kiến thức mà năng lực của họ còn hạn chế. Otto Bock, sản phẩm chỉnh hình của công ti này dựa trên ngành cơ khí và điện tử, nghiên cứu cùng với những đối tác có năng lực đặc biệt trong những lĩnh vực này. Trong phần bàn về các liên minh chiến lược, chúng ta sẽ nghiên cứu hình thức hợp tác này một cách kĩ lưỡng hơn.

Đánh giá chiến lược

Đánh giá một cách toàn diện mức độ liên kết tối ưu theo chiều dọc là việc khó. Đằng sau ý thích tự làm lấy của các nhà vô địch ẩn danh là sự thật sâu sắc hơn sau đây: Tính độc đáo và sự vượt trội trong cạnh tranh chỉ có thể được tạo ra trong nội bộ công ti. Tất cả những thứ mua trên thị trường cũng có thể được người khác mua và như vậy là không thể tạo ra được vị trí độc đáo. Sự kiện này là lời giải thích vì sao các nhà vô địch ẩn danh không chỉ tự giới hạn ở giai đoạn cuối cùng của chuỗi giá trị mà còn tham gia một cách sâu sắc vào một hoặc thậm chí một vài giai đoạn sản xuất. Đấy là nơi họ tạo ra những quá trình sản xuất, máy móc, dụng cụ hay thiết bị độc đáo, để cuối cùng tạo ra sự vượt trội trong sản phẩm ở đầu ra. Nhiều nhà vô địch ẩn danh nói với tôi rằng họ không thể đạt được sự vượt trội như thế nếu chỉ giới hạn hoạt động trong việc sản xuất những sản phẩm cuối cùng. Đấy là sự thật sâu sắc hơn đằng sau những nhận xét của chúng ta về liên kết theo chiều dọc. Dường như nó trái ngược với quan điểm tiếp thị hiện đại đang được nhiều người chia sẻ.

Nhưng mặt trái của sự thật này lại liên quan đến cả lĩnh vực sản xuất lẫn nghiên cứu và phát triển. Trong lĩnh vực sản xuất, triết lí tự cấp quá mức có thể tạo ra bất lợi chết người về chi phí. Đây là luận cứ ủng hộ cho việc khảo sát một cách khách quan vấn đề gia công, ít nhất là khi nói về những thiết bị không thật sự quan trọng. Trên thực tế, nhiều nhà vô địch ẩn danh đã thuê gia công nhiều việc không thuộc thành phần năng lực cốt lõi của họ. Nhưng khía cạnh độc đáo thì phải là thành phần tối quan trọng của năng lực cốt lõi. Tác nhân quyết định là sự vượt trội về chất lượng chứ không phải lợi thế về chi phí.

Nghiên cứu và phát triển là nền tảng quan trọng nhất của tính độc đáo của công ti. Những phát hiện của chúng tôi về đổi mới, được thảo luận trong Chương 8, cho thấy nhiều nhà vô địch ẩn danh là những công ti có hiệu quả cao trong nghiên cứu và phát triển và làm chủ được những thách thức. Như một quy luật, những kĩ năng này, cùng với mức độ chuyên môn hóa cao và mong muốn bảo vệ bí quyết, thúc đẩy việc tự làm lấy. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ủng hộ cho một ý thức hệ giải thoát khỏi cố chấp. Nếu một công ti lao vào một lĩnh vực mới và đã tiến tới ranh giới năng lực tự có của mình, thì nguy cơ là cơ hội có thể bị bỏ qua sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu công nghệ mới mà một công ti không làm chủ được, đe dọa ngành kinh doanh cốt lõi hiện hữu thì công ti phải chú ý tới tín hiệu cảnh báo này. Nhưng thật khó nói liệu trong trường hợp như thế tự lực có tốt hơn là hợp tác hay không, nhưng khi vấn đề xuất hiện thì phải xử lí một cách cởi mở. Ý thức hệ và định kiến không có chỗ ở đây.

Chúng ta có thể tóm tắt những nhận xét này như sau. Nói chung, các nhà vô địch ẩn danh thể hiện rõ ràng ý muốn tự làm lấy mọi việc, cả trong sản xuất lẫn trong nghiên cứu và phát triển. Họ tìm cách tránh gia công bên ngoài những thứ thuộc về năng lực cốt lõi của họ, trong khi việc gia công những thứ không thuộc về năng lực cốt lõi là khá phổ biến. Trong lĩnh vực nghiên cứu, người ta dễ nhận thấy thái độ dè dặt. Trong mười năm qua, thái độ căn bản đó đã có sự chuyển biến, nhưng vẫn chưa có thay đổi đáng kể nào. Những nguyên tắc này là nền tảng tạo ra sự độc đáo và vượt trội của các nhà vô địch ẩn danh. Hiện nay người ta đã nhận thức rõ hơn trước đây rằng, việc áp dụng một cách thái quá những nguyên tắc đó có thể tạo ra những tình thế bất lợi. Kết quả là chúng ta đã thấy có sự cởi mở hơn đối với vấn đề gia công và liên minh chiến lược. Nhưng quan điểm của các nhà vô địch ẩn danh về vấn đề này còn khác xa với những gì được quảng bá trên sách báo và thực tiễn trong những tập đoàn lớn.

Liên minh chiến lược

Các nhà vô địch ẩn danh không ủng hộ các liên minh chiến lược. Ví dụ, 77,1% trong số họ tự mình thâm nhập thị trường nước ngoài và chỉ có 16,8% giao cho các liên minh thực hiện mục tiêu này. Phần lớn các liên minh này cũng chỉ được coi là phương tiện tạm thời để thâm nhập thị trường. Nói chung, các nhà vô địch ẩn danh ít khi thành lập các liên minh chiến lược.

Mặc cho thái độ như thế, trong mười năm vừa qua tầm quan trọng và số lượng các liên minh chiến lược đã gia tăng. Có hai nguyên nhân cụ thể: chuỗi cung ứng có cấu hình mới, hướng tới hệ thống theo thứ bậc và sự mở rộng các hoạt động kinh doanh. Những tác động mạnh nhất của quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng được thể hiện trong lĩnh vực ô tô. Toàn bộ các module hoặc các tiểu hệ thống đều vượt quá năng lực của một nhà cung cấp duy nhất, các công ti này bị buộc phải hợp tác với những người khác để giữ vững danh hiệu nhà cung cấp cấp một. Một số liên minh chiến lược do nhà cung cấp Behr lập ra là dựa trên những lí do đó. HBPO, là liên minh chiến lược quốc tế giữa các công ti Hella, Behr và Plastic Omnium, cung cấp một module giao diện hoàn chỉnh, tích hợp chiếu sáng, làm mát, khí động học, bảo vệ cho người đi bộ và quản lí các vụ va chạm. Không doanh nghiệp nào trong ba doanh nghiệp đó đủ sức tự mình phát triển được giải pháp toàn diện như vậy. Liên minh chiến lược thứ hai là Behr-Hella Thermocontrol (BHTC). Công ti liên doanh này hiện giữ vị trí hàng đầu trong lĩnh vực điều hòa không khí.

Công ti Plansee (Áo), đứng hàng đầu thế giới về lĩnh vực vật tư trong ngành luyện kim bột, quản lí ba đơn vị dưới hình thức liên minh chiến lược, trong đó Plansee Holding giữ 50% cổ phần. Công ti Ceratizit, đơn vị được thành lập năm 2002, bằng cách liên kết với công ti Cerametal (Luxembourg), giữ vị trí hàng đầu trên thị trường trong lĩnh vực kim loại và dụng cụ cứng. Công ti PMG, chú tâm vào công nghiệp ô tô, bán khuôn đúc đã được thiêu kết và được quản lí cùng với Mitsubishi từ Nhật Bản. Các liên minh chiến lược này đã củng cố vị trí nhà cung cấp cho các công ti ô tô và công ti cơ khí và đã tạo ra động lực tăng trưởng mạnh mẽ. Theo ông Michael Schwarzkopf, giám đốc điều hành của Plansee, việc hợp tác với các công ti liên doanh diễn ra suôn sẻ. Sự chú tâm vào luyện kim bột không bị đe dọa, còn các đơn vị kinh doanh thì kiên trì hướng tới các khu vực nằm trong tầm ngắm. Tôi cho rằng điều này là quan trọng: nếu các liên minh chiến lược giữ được hoặc - thậm chí tốt hơn - củng cố được các nguyên tắc chiến lược của các nhà vô địch ẩn danh như chú tâm, đổi mới liên tục và toàn cầu hóa, như trong trường hợp công ti Plansee, thì liên minh chiến lược có thể là rất hữu ích. Tuy nhiên, đối với nhiều giám đốc điều hành của các nhà vô địch ẩn danh, chia sẻ quyền lực là việc chẳng dễ dàng gì.

Trong lĩnh vực bán hàng, chúng tôi cũng thấy một sự gia tăng các liên minh chiến lược, chủ yếu là dưới hình thức hợp tác, liên doanh thì ít gặp hơn. Động lực ở đây là đa dạng hóa mềm, nhắm tới các nhóm khách hàng hoặc kênh bán hàng mới. Công ti Gelita, dẫn đầu thị trường thế giới về gelatines, vốn là nhà cung cấp công nghiệp và vì vậy mà không có khả năng bán hàng cho thị trường tiêu dùng hay dược phẩm. Vì vậy, hợp tác với một tổ chức bán dược phẩm có uy tín để bán sản phẩm bảo vệ "ch-Alpha" là việc làm hợp lí. Otto Bock vốn không tiếp xúc được với các bác sĩ chuyên chữa các bệnh nhân đột quỵ. Đây là lí do vì sao công ti này bắt đầu hợp tác với Krauth & Timmermann, một công ti chuyên về kích hoạt bằng dòng điện, có quan hệ với nhóm bác sĩ nói trên, để bán các sản phẩm dành cho bệnh nhân bị đột quỵ.

Khi bán tại các thị trường nước ngoài, các nhà vô địch ẩn danh nhỏ hơn sẵn sàng hợp tác với các công ti uy tín có các nhóm khách hàng tương tự. Brainlab, dẫn đầu thị trường thế giới về phần mềm định vị trong y tế, sử dụng cách tiếp cận này. Ở những quốc gia mà công ti không có các chi nhánh, Brainlab hợp tác với các nhà cung cấp thiết bị y tế có quan hệ với các bác sĩ phẫu thuật và có năng lực tương tự như chính Brainlab. Brainlab có khá nhiều đối tác trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và tiếp thị. Nhiều đối tác cũng là các nhà vô địch ẩn danh, ví dụ như các công ti Mỹ: Biomet, DePuy và Zimmer chuyên về cấy ghép chỉnh hình; Aesculap, dẫn đầu thị trường thế giới về dụng cụ phẫu thuật; Gyrus trong công nghệ nội soi, hoặc Varian, nhà sản xuất các hệ thống điều trị ung thư tích hợp hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, ông Stefan Vilsmeier, giám đốc điều hành của Brainlab, nhấn mạnh rằng những liên minh này cần được quan tâm thường xuyên, "như một cuộc hôn nhân vậy".

Sự tích hợp của các lĩnh vực kiến thức khác nhau như: cơ khí và điện tử (cơ điện tử), hóa học/vật lí và công nghệ nano hoặc công nghệ trong lĩnh vực y tế, dược phẩm và sinh học/công nghệ sinh học có sức sáng tạo to lớn. Nhưng mạng lưới như vậy vừa là cơ hội vừa là các mối đe dọa. Những người thành công trong việc kết nối những khu vực chưa từng có liên hệ với nhau đã mở ra những thị trường mới với những cơ hội cực kì to lớn. Những công ti tiếp tục thu mình vào năng lực kĩ thuật có thể bị đẩy ra bên lề. Dù sao, những đòi hỏi về năng lực nghiên cứu và phát triển thường có phổ rộng mà một mình nhà vô địch ẩn danh không phải lúc nào cũng nắm được. Vì vậy, trong những năm gần đây, liên minh chiến lược trong nghiên cứu và phát triển đã trở nên quan trọng hơn và sẽ còn quan trọng hơn nữa trong tương lai. Công ti Otto Bock, đứng hàng đầu thế giới về các bộ phận giả, là ví dụ điển hình của sự phát triển như thế. Khác với những chiếc răng giả trước đây, Otto Bock xâm nhập vào “bên dưới da” với những cải tiến ​​mới nhất của mình. Điều này động chạm tới những khu vực mới như liên kết xương và kích hoạt thần kinh. Do đó, Otto Bock mua lại các công ti có năng lực tương đương, ví dụ như các công ti Neurosan (Đan Mạch), và ngoài ra, công ti này còn tham gia vào các liên minh nghiên cứu và phát triển như với công ti Med-El, chuyên về xử lí tín hiệu thần kinh. Những vụ hợp tác như thế sẽ được tăng cường trong tương lai.

Tóm lại, liên minh chiến lược của nhà vô địch ẩn danh vẫn còn là những trường hợp ngoại lệ, nhưng đang có vai trò ngày càng quan trọng hơn. Quá trình tích hợp hệ thống và vượt qua ranh giới thẩm quyền truyền thống trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển buộc họ phải hợp tác với những công ti khác. Mặc dù liên minh chiến lược chứa đựng khả năng xung đột với những chiến lược truyền thống của các nhà vô địch ẩn danh, nhưng những liên minh như thế cần phải được xem xét một cách cởi mở hơn. Tuy nhiên, đối với phần lớn các nhà vô địch ẩn danh những liên minh như thế vẫn chưa phải là lựa chọn cho tương lai, đó là do thái độ của những người liên quan.

Môi trường kinh doanh

Các doanh nhân và công ti xuất hiện và hoạt động trong môi trường đặc thù, vốn là kết quả của những hệ thống giá trị xã hội, các nguồn lực địa phương, các mạng lưới, các thiết chế giáo dục và những yếu tố khác. Môi trường có thể khuyến khích hoặc ngăn chặn sự phát triển của nhà vô địch ẩn danh. Tôi không có ý định đưa ra một lời giải thích toàn diện theo lối kinh tế học hoặc xã hội học về sự tập trung các nhà vô địch ẩn danh ở những khu vực nhất định. Tôi nhìn các nhà vô địch ẩn từ quan điểm kinh doanh và tìm hiểu về những hậu quả mang tính chiến lược của những nhân tố môi trường cụ thể. Trong một số trường hợp, câu trả lời vẫn còn chưa rõ ràng, ví dụ, chắc chắn là chúng tôi không thể trả lời được câu hỏi: nhà vô địch ẩn danh nằm trong cụm công nghiệp thì có tốt hơn hay không?

Cụm công nghiệp

Trong mấy năm gần đây, cái gọi là cụm công nghiệp đã trở nên thông dụng. Làn sóng đó được kích hoạt bởi việc xuất bản tác phẩm Ưu thế cạnh tranh của các nước (The Competitive Advantage of Nations[9]) do Michael Porter chấp bút vào năm 1990. Một số người cầm bút còn nói tới “một hệ hình mới của chính sách kinh doanh.”[10] Cụm công nghiệp nghe có vẻ rất hiện đại, nhưng trên thực tế, ý tưởng cụm đã có từ thời xa xưa. Nhưng trước đây cụm được gọi là tích tụ, còn các nhà kinh tế học thì nói về cái gọi là lợi thế của tích tụ (cả bất lợi của tích tụ nữa). Tích tụ được mô tả là “sự tập trung của các công ti có liên hệ với nhau theo chiều dọc của chuỗi giá trị hay cùng một ngành sản xuất. Những nhóm trên khu vực địa phương là những công ti tự chủ về pháp luật và kinh tế. Yếu tố của khu vực đặc biệt thường có vai trò quyết định đối với sự phát triển của các cụm.”[11] Cần phải nói thêm rằng cụm thường có các trường học, các viện nghiên cứu và các nhà cung cấp dịch vụ chuyên ngành. Rõ ràng là mọi người đều biết rằng các nền kinh tế quốc gia và các lĩnh vực kinh tế thường có các trung tâm tập trung theo khu vực. Hiện tượng này đáng được chúng ta quan tâm. Mật độ tập trung theo khu vực được thể hiện rõ trong hầu như tất cả các chỉ số kinh tế.

Đối với các nhà vô địch ẩn danh, các cụm công nghiệp đóng vai trò gì? Hình 9.11 cho thấy một số nhà vô địch ẩn danh có đối thủ cạnh tranh trực tiếp nằm ở khu vực bên cạnh và được cho là có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Nhưng, cạnh tranh trực tiếp theo chiều ngang chỉ là một khía cạnh của khái niệm cụm công nghiệp. Cụm rộng hơn nhiều. Một loạt bài báo viết về các cụm công nghiệp có thể làm chúng ta tin rằng phần lớn các nhà vô địch ẩn danh nằm trong các cụm công nghiệp, và nằm trong cụm công nghiệp là nguồn gốc cực kì quan trọng cho thành công của họ. Để xác minh giả định này, chúng tôi đặt ra một số câu hỏi liên quan đến ý tưởng về cụm công nghiệp. Cứ bảy nhà vô địch ẩn danh mới có một, chính xác là 14,3%, tự coi mình là thành phần của cụm công nghiệp. Họ nghĩ rằng nằm trong cụm công nghiệp là thế mạnh hay chỉ thêm rắc rối? Chỉ một nửa các nhà vô địch ẩn nằm trong cụm công nghiệp cho rằng đấy là sức mạnh, nửa kia cho rằng chẳng mạnh thêm cũng chẳng yếu hơn. 7% nhận thấy những bất lợi của sự tích tụ, ví dụ như tình trạng khan hiếm và nạn chèo kéo người lao động có tay nghề, thất thoát những người có trình độ cao hay bầu không khí căng thẳng giữa các đối thủ ở gần nhau. Kết quả như thế dẫn đến kết luận rằng các cụm công nghiệp chỉ có vai trò giới hạn đối với các nhà vô địch ẩn danh.

Nhưng, kết luận chung chung này không thể áp dụng cho từng lĩnh vực riêng biệt. Cụm công nghiệp xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau và các nhà vô địch ẩn danh trong các lĩnh vực này thuộc về các cụm như thế. Phát hiện này ngăn chặn việc đưa ra kết luận rõ ràng về chiến lược của các công ti riêng biệt. Nằm trong một cụm là nguyên nhân của nguồn gốc và sự thành công của một số nhà vô địch ẩn danh. Nhưng khái niệm cụm không thể áp dụng cho tuyệt đại đa số các nhà vô địch ẩn danh, vì họ không nằm trong cụm nào. Theo như những phát hiện này thì khái niệm cụm công nghiệp dường như đã bị người ta nói quá lên. Các nhà vô địch ẩn danh có thể xuất hiện ở bất kì đâu, cụm công nghiệp không phải là một điều kiện tiên quyết.

Cụm kinh doanh

Ngay cả nếu lĩnh vực hay cụm công nghiệp không có giá trị chiến lược đặc biệt nào đó đối với các nhà vô địch ẩn danh thì một nhân tố bên ngoài khác lại có thể có ý nghĩa quan trọng hơn. Dù sao, chúng ta thấy rằng các nhà vô địch ẩn danh phân bố rất không đồng đều trên các khu vực. Còn trên bình diện địa phương thì lại có sự tập trung một cách rõ rệt. Windhagen, một ngôi làng chỉ có 4.332 dân nhưng lại có tới ba nhà vô địch ẩn danh: Wirtgen chuyên về máy sửa chữa đường ô tô, Ergoline cung cấp ghế nằm phơi nắng chuyên nghiệp và Geutebrück chuyên về hệ thống kiểm tra. Ba công ti này không có điểm nào chung về công nghệ hay thị trường cho nên không tạo thành cụm công nghiệp. Neutraubling, một thị trấn nhỏ với 13.509 dân là nơi tọa lạc trụ sở của công ti Krones, đứng hàng đầu thế giới về hệ thống đóng nút chai và công ti Zippel, nhà sản xuất nhà máy bia mini và xây dựng các hệ thống làm sạch công nghiệp lớn nhất thế giới, và những sản phẩm khác nữa; và công ti Micron, đứng hàng đầu về bộ điều khiển điện tử trong bộ phận kích hoạt túi an toàn bằng khí.

Có sự tập trung cao độ các nhà vô địch ẩn danh trong thị trấn nhỏ có tên là Künzelsau và khu vực phụ cận. Hai công ti lớn nhất thế giới chuyên về các sản phẩm lắp ráp, Würth và Berner tọa lạc ở đây. Ở đây còn có các công ti hàng đầu châu Âu và hàng đầu thế giới khác nữa, trong đó có Ziehl-Abegg, nhà sản xuất quạt; R. Stahl dẫn đầu về thiết bị chống cháy nổ; Mustang, nhà sản xuất quần jean tiên phong ở Đức, và Veigel, một trong những nhà sản xuất hệ thống dạy lái xe và thiết bị cho người tàn tật dùng trong xe hơi hàng đầu thế giới. Công ti Sigloch, một trong những công ti đóng sách lớn nhất châu Âu, chuyên cung cấp cả dịch vụ cũng như máy đóng sách, cũng ra đời ở Künzelsau. Thị trấn này chỉ có 15.032 dân, nhưng tinh thần ở đây rõ ràng là có lợi cho việc hình thành các nhà vô địch ẩn danh - một cụm kinh doanh theo nghĩa hoàn hảo nhất của từ này. Chúng ta có thể tìm thấy một số công ti hàng đầu thế giới từ những lĩnh vực khác nhau ở Oberkochen (dân số 8.500, Carl Zeiss trong lĩnh vực quang điện tử, Leitz trong lĩnh vực dụng cụ chế biến gỗ), hay ở Laupheim (19.192 dân, Kässbohrer trong lĩnh vực xe xúc bánh xích chuyên dụng, Uhlmann trong hệ thống bao bì dược phẩm).

Cụm kinh doanh có thể được tìm thấy trong những tình huống rất khác nhau. Khác với cụm công nghiệp, yếu tố liên kết không phải là lĩnh vực hoạt động mà là các mạng xã hội tạo nguồn cảm hứng, khuyến khích người ta học theo tấm gương của một người thành công nào đó và tự mình trở thành một nhà vô địch ẩn danh. Tôi đã nhiều lần nghe nói về các mô hình tiêu biểu kiểu đó và ảnh hưởng của chúng. Sự gần gũi về không gian và xã hội càng làm gia tăng hiệu quả của sự động viên, cùng với quan niệm “hàng xóm làm được cái gì, tôi cũng làm được cái đó.” Như vậy, một nhà vô địch ẩn danh có thể trở thành một vườn ươm các công ti hàng đầu thế giới. Lĩnh vực hoạt động có thể đóng vai trò nhất định, nhưng sự lây lan có thể vượt qua ranh giới của ngành. Ảnh hưởng mạnh nhất là khi các nhà vô địch ẩn danh tập trung nhiều tại một khu vực, thậm chí ngay cả khi họ đang hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau. Tinh thần của nhà vô địch ẩn danh có tính lan truyền.

Tóm tắt

Tài chính, tổ chức và môi trường kinh doanh tạo ra những điều kiện cho các quy trình cốt lõi, nhờ đó các công ti mới cung cấp được giá trị cho khách hàng của mình. Các nhà vô địch ẩn danh thể hiện mức độ tự chủ khá cao trong việc hình thành những điều kiện đó, các công ti khác có thể học được những điều sau đây:

-   Mặc dù tăng trưởng nhanh, nguồn tài chính vẫn vững mạnh. Điều đó có ảnh hưởng tích cực đối với khả năng trả nợ và chi phí vốn và cuối cùng là khả năng sinh lời.

-   Vốn tự có là và tiếp tục là nguồn tài chính quan trọng nhất. Nó đòi hỏi phải có khả năng sinh lời phù hợp và là một ám chỉ khác về tầm quan trọng đặc biệt của lợi nhuận. Điều này làm cho công ti vươn tới giới tài chính có đạo đức.

-   Tài chính không phải là trở ngại đối với chiến lược tương lai của các nhà vô địch ẩn danh. Giá trị của các nguồn tài chính đang thay đổi. Các khoản vay ngân hàng không còn quan trọng như trước, nếu so với thị trường tài chính trực tiếp. Cổ phần hóa có bức tranh không rõ ràng. Đa số các nhà vô địch ẩn danh không nghĩ tới chuyện bán cổ phần ra thị trường (IPO). Nhưng chúng tôi dự đoán số công ti bán cổ phần cho công chúng sẽ gia tăng. Một bài học là những nhà vô địch ẩn danh muốn giữ nguyên cơ cấu tài chính của họ, nhưng họ không loại trừ các hình thức mới về nguồn vốn.

-   Cơ cấu công ti đơn giản làm cho tổ chức cũng đơn giản. Không thể đánh giá thấp ưu thế này. Tổ chức theo chức năng là phù hợp đối với công ti một sản phẩm, một thị trường - những đặc trưng điển hình của các nhà vô địch ẩn danh.

-   Các nhà vô địch ẩn danh mở rộng hoạt động kinh doanh ý thức được rằng tổ chức càng phức tạp thì càng đe dọa những sức mạnh truyền thống của họ. Phản ứng ngay từ đầu và nhất quán với mối đe dọa này là phân cấp. Họ tìm cách tránh các cấu trúc ma trận và hướng sự phân chia theo phòng ban theo nhóm khách hàng, những nhóm này có thể được xác định theo lĩnh vực hoạt động hoặc khu vực. Các nhà vô địch ẩn danh chỉ ra rằng có thể giữ được sức mạnh của sự chú tâm, mặc dù cơ cấu kinh doanh sẽ phức tạp hơn, với điều kiện là họ sẵn sàng phân cấp.

-   Ban quản lí cao nhất của các nhà vô địch ẩn danh có rất ít người. Các giám đốc điều hành hiện đại nhất quản lí công việc kinh doanh toàn cầu của họ với sự trợ giúp của mạng lưới tổ chức sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến nhất một cách rộng rãi nhất. Những hình thức tổ chức quy trình mới này có thể trở thành mô hình mẫu cho cả các công ti nhỏ hơn lẫn công ti lớn hơn.

-   Trong mười năm vừa qua, chuỗi giá trị và sự liên kết theo chiều dọc của nhà vô địch ẩn danh đã giảm dần. Xu hướng này cho thấy truyền thống thích tự làm lấy không phải là dựa trên một ý thức hệ, mà đang được điều chỉnh dần. So với ngành công nghiệp nói chung, chuỗi giá trị và sự liên kết theo chiều dọc ở đây vẫn tỏ ra vững chắc hơn. Cảm giác của chúng tôi là sự giảm thiểu liên kết theo chiều dọc chỉ liên quan đến lĩnh vực không thật sự quan trọng mà thôi.

-   Trong những lĩnh vực tối quan trọng, các nhà vô địch ẩn danh tiếp tục ưu ái liên kết sâu sắc theo chiều dọc và tìm cách tránh thuê gia công. Họ cho rằng đấy là do tiêu chuẩn chất lượng cao của họ. Họ còn tin rằng không thể mua được sự độc đáo trong cạnh tranh, mà chỉ có thể tạo ra nó trong nội bộ công ti. Đấy là lí do vì sao họ thường tự sản xuất máy móc hoặc tự làm ra sản phẩm chính. Đấy là thái độ trái ngược với xu hướng hiện nay và có tính kích thích tư duy.

-   Trong nghiên cứu và phát triển, các nhà vô địch ẩn danh rất say mê tính độc lập và bí mật. Bảo vệ các bí quyết và mong muốn giữ chân các nhân viên có tay nghề trong công ti là lí do nữa cho những công trình nghiên cứu và phát triển có mức độ tích hợp cao.

-   Các nhà vô địch ẩn danh tích cực thuê gia công bên ngoài những lĩnh vực không thực sự quan trọng. Đấy là do chi phí, nhưng cũng vì họ hi vọng sẽ nhận được những linh kiện chất lượng cao từ các nhà cung cấp chuyên ngành. Lĩnh vực không thật sự quan trọng của công ti này lại là lĩnh vực thật sự quan trọng của công ti kia.

-   Các nhà vô địch ẩn danh có thái độ ác cảm đối với các liên minh chiến lược. Họ cho rằng các công ti khác không thể giải quyết được vấn đề và thích tự làm lấy.

-   Nhưng thái độ có tính truyền thống đó đã giảm bớt phần nào, có hai lí do. Thứ nhất, tích hợp hệ thống làm cho sự hợp tác giữa các đối tác trở thành tất yếu. Thứ hai, khi cần đổi mới, cần phải tiếp xúc với những lĩnh vực kiến thức mà một công ti không thể nắm được. Trong những trường hợp như thế, liên minh chiến lược là giải pháp đắc lực. Không nên để cho thái độ ngờ vực đối với liên minh chiến lược trở thành rào cản có tính ý thức hệ.

-   Đối với các nhà vô địch ẩn danh, cụm công nghiệp có thể không quan trọng như những cuộc thảo luận trên báo chí đang tìm cách thuyết phục chúng ta. Bảy công ti mới có một công ti nằm trong cụm công nghiệp và chỉ có một nửa các công ti nằm trong cụm công nghiệp coi đây là lợi thế.

-   Chúng tôi thường thấy các nhà vô địch ẩn danh trong những lĩnh vực khác nhau tập trung vào một khu vực. Chúng tôi cho rằng các cụm kinh doanh như thế tạo ra môi trường xã hội khuyến khích sự hình thành các nhà vô địch ẩn danh mới.

Tóm lại, các nhà vô địch ẩn danh có thái độ bảo thủ và dè dặt trước nhiều khái niệm hiện đại. Điều này đúng với lĩnh vực tài chính và hình thức tổ chức phức tạp cũng như gia công và các liên minh chiến lược. Khi liên quan tới những lĩnh vực quan trọng nhất, các nhà vô địch ẩn danh thường rất dè dặt và thích tự mình làm lấy. Nhiều người tin rằng công ti mạnh nhất khi đứng một mình. Nhưng trong những lĩnh vực khác, họ lại là những công ti hiện đại đến mức làm người ta phải ngạc nhiên, ví dụ như phân cấp hay sử dụng công nghệ thông tin nhằm quản lí các nhóm của công ti đang nằm rải rác trên thế giới. Trái với những cuộc thảo luận đang diễn ra hiện nay, phần lớn các nhà vô địch ẩn danh ít quan tâm tới các cụm công nghiệp vì họ làm theo cách của mình.



[1] Lợi nhuận trên đồng vốn trước thuế /ROCE), xem thêm hình 3.3.

[2] BDI Forum Familienunternehmen “Familienunternehmen im Zeitalter der Globalisierung”, Berlin,

September 21/22, 2006.

[3] Một thị trường ở đây có nghĩa là thị trường được xác định bởi nội dung. Nếu một sản phẩm được bán cho cùng nhóm đối tượng trong những nước khác nhau thì đấy là “một” thị trường.

[4] Số mối quan hệ giữa các bên được tính the công thức n(n-1)/2.

[5] IBG là viết tắt của Industrie-Beteiligungs-Gesellschaft, tổng hành dinh nằm ở Cologne.

[6] Wertschöpfung am Bruttoproduktionsort 2004, Văn phòng thống kê Liên bang Đức.

[7]Bayerisch-Schwäbische Wirtschaft, 1/2008, p. 95.

[8] VDI News, April 13, 2007, p. 35.

[9] Xem Michael Porter, Ưu thế cạnh tranh của các dân tộc (The Competitive Advantage of Nations), London: Macmillan 1990.

[10] Xem, ví dụ B.G. Dybe and Hans Joachim Kujath, Hoffnungsträger Wirtschaftscluster. Unternehmensnetzwerke und regionale Innovationssysteme, Berlin: edition sigma 2000.

[11] Rainer Kämpf et al., Industrieparkkonzepte, Stuttgart: EBZ-Beratungszentrum 2003.

No comments:

Post a Comment