CỐT LÕI TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ
Karen A. Mingst và
Ivan M. Arrenguin-Toft
Phạm Nguyên Trường dịch
Lưu ý: Tôi không thể đưa các bản đồ và hình minh hoạ lên Blog, bạn nào muốn nghiên cứu sâu có thể dowload link này để xem xét thêm và đối chiếu: https://oceanofpdf.com/?s=Karen+A.+Mingst+
Chương
6
Cá
nhân
Chú thích ảnh:
Các quan chức Bắc Triều Tiên ngồi trước bức chân dung của các cựu lãnh đạo Kim
Il-Sung và Kim Jong-Il trong buổi duyệt binh kỉ niệm sinh nhật lần thứ 100 người
sáng lập quốc gia Kim Il-Sung. Các học giả về quan hệ quốc tế nghiên cứu vai
trò, tính cách và hành động của các nhà lãnh đạo như Kim nhằm giải thích rõ hơn
về chính sách đối ngoại của họ.
Vladimir
Putin cũng như Adolf Hitler ở Đức, Saddam
Hussein ở Iraq, Fidel Castro ở Cuba, Hugo Chavez ở Venezuela, và Kim ở Bắc Triều
Tiên, và một số người khác tiếp tục thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu chính trị quốc tế và làm cho họ bối rối. Các cuốn tiểu sử đầy những
chi tiết về thời thơ ấu, những kinh nghiệm chính trị giúp định hình phong cách
chính trị, đặc điểm và tính các cá nhân. Những cuộc tìm kiếm như thế có giúp
chúng ta giải thích các chính sách mà những nhà lãnh đạo này theo đuổi hay
không? Hay việc chú ý
vào một nhà lãnh đạo có phải chỉ là con đường tắt
nhằm giải thích các sự kiện phức tạp? Những người đại diện cho nhà nước có hoạt
động vì lợi ích quốc gia? Những người không có vị trí chính thức có tạo nên sự
khác biệt trong nền chính trị quốc tế? Các cá nhân có thể có vai trò quan trọng
đến mức có thể được coi là cấp phân tích thứ ba, bên cạnh hệ thống quốc gia và
quốc tế?
Nhớ
lại những lời giải thích được đưa ra trong
Chương 3 về cuộc xâm lăng Iraq do Mĩ tiến hành năm 2003. Một trong những giải
thích nhấn mạnh niềm tin của Tổng thống George W. Bush và các cố vấn an ninh của
ông và nhấn mạnh phản ứng của họ đối với Saddam Hussein, đặc điểm cá nhân của
Hussein, và các
cố vấn của ông này. Rõ ràng là, các nhà lãnh đạo là nhóm người tạo ra sự khác
biệt trong quan hệ quốc tế. Nhưng các cá nhân giữ vai trò không chính thức bằng
cũng có thể có ảnh hưởng đáng kể đến các sự kiện quốc tế, trong đó có chiến
tranh và hòa bình, cũng như chính sách quốc tế. Ví dụ, Srdja Popovic, nhà hoạt
động người Serb và là người sáng lập tổ chức gọi là Trung tâm Ứng dụng Chính
sách và Hành động Bất bạo động (Center for Applied Nonviolent Action and
Strategies - Canvas), đã huấn luyện các nhà cách mạng từ 46 nước, trong đó có
Georgia, Ukraine, Moldova và Ai-Cập. Wangati Maathai, nhà hoạt động môi trường
đã quá cố người Kenia, đã thành lập tổ chức gọi là Vành Đai Xanh (Green Belt
Movement). Trong chương này, chúng ta sẽ khảo sát những vai trò khác nhau mà những
người của công chúng và những người bình thường thể hiện trong quan hệ quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu - Mô tả những người
quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế. - Phân tích những
yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến quá trình ban hành chính sách đối ngoại tinh hoa. - Mô tả vai trò do
những người bình thường thể hiện trong quan hệ quốc tế. - Giải thích vai
trò của công chúng trong chính sách đối ngoại. - Phân tích - theo các quan điểm lý thuyết khác nhau - cá nhân quan trọng
đến mức nào. |
Giới
tinh hoa trong chính sách đối ngoại: những người quan trọng
Những
người nắm các vị trí trong chính quyền có tạo khác biệt trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại? Mỗi người tạo
ra bao nhiêu khác biệt? Tầm quan trọng của các cá nhân trong các lí thuyết về
quan hệ quốc tế khác nhau đến mức nào. Phái tự do công nhận rằng các nhà lãnh đạo
tạo ra sự khác biệt và các cá nhân có thể là cấp phân tích thích đáng. Mỗi khi
có thay đổi lãnh đạo trong các cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, hay Nga, người
ta luôn luôn bàn tán về những thay đổi có thể xảy trong chính sách đối ngoại của
nước đó. Việc bàn tán như thế phản ánh một niềm tin phổ biến
rằng cá nhân các nhà lãnh đạo và tính cách của họ chắc chắn sẽ tạo ra khác biệt
trong chính sách đối ngoại, và do đó, tạo ra khác biệt trong quan hệ quốc tế.
Nhiều bằng chứng thực tế chứng minh cho quan điểm này.
Trường hợp của nhà lãnh đạo Liên Xô, Mikhail
Gorbachev, minh họa cho sự kiện là cá nhân các nhà lãnh đạo có thể tạo ra thay
đổi thực sự. Sau khi lên nắm quyền, năm 1985, ông bắt đầu nhìn những thách thức mà Liên Xô đang đối
mặt khác với trước đây, coi vấn đề an ninh của Liên Xô như là một phần của vấn
đề lớn hơn: Sự trì trệ, yếu kém trong nền kinh tế Liên Xô. Thông qua quá trình
thử và sai, trải nghiệm rồi nghiên cứu các thất bại, Gorbachev nhận thức được rằng
muốn cải thiện an ninh quốc gia thì phải cải cách hệ thống kinh tế. Rồi ông có
những hành động nhằm thực hiện các cuộc cải cách lớn. Mặc dù cuối cùng ông đã mất
quyền lực, ông là người khởi xướng những thay đổi to lớn trong chính sách đối
ngoại về kinh tế, trong đó có việc đưa Liên Xô ra khỏi cuộc chiến ở
Afghanistan. Những người theo phái kiến tạo chẳng những công nhận vai trò quan
trọng của cá nhân mà còn gán những thay đổi không chỉ cho Gorbachev, như một cá
nhân, mà còn gán cho một nhóm những người lập chính sách ngả sang Tây phương, tức
là những người quảng bá những tư tưởng mới, mà sau này được đem ra áp dụng[1].
Đối
với những người theo phái hiện thực, cá nhân chẳng có tầm quan trọng là bao.
Quan điểm này xuất phát từ giả định của phái hiện thực về tác nhân đơn nhất. Do
đó, các quốc gia khác nhau không phải vì kiểu chính phủ hoặc tính cách hay
phong cách của các nhà lãnh đạo đang có chức có quyền mà vì tương quan lực lượng
của họ trong hệ thống quốc tế. Hans J. Morgenthau giải thích như sau:
Khái niệm
lợi ích quốc gia được định nghĩa là quyền lực, áp đặt kỉ luật trí tuệ lên
người quan sát, truyền trật tự duy lí vào chủ đề chính trị, và do đó, làm cho
nhận thức mang tính lí thuyết về chính trị trở thành khả thi. Về phía tác nhân,
nó cung cấp cho người ta kỉ luật duy lí trong hành động và tạo ra sự liên tục
đáng kinh ngạc trong chính sách đối ngoại, khiến chính sách đối ngoại của Mỹ,
Anh hoặc Nga dường như là quá trình liên tục, mang tính duy lí và dể hiểu, và
nói chung là ổn định,
không phụ thuộc vào động cơ, sở thích, phẩm chất trí tuệ và đạo đức khác nhau của những chính khách kế tục nhau[2].
Những
người theo phái hiện thực cho rằng cá nhân bị cưỡng ép bởi nhà nước của mình,
còn những người theo phái tân hiện thực thì cho rằng cá nhân bị hệ thống quốc tế
cưỡng ép. Nhà nước và hệ thống quốc tế mới là cấp phân tích thích đáng nhất. Những
người theo phái cấp tiến cho rằng cá nhân bị cưỡng ép bởi hệ thống quốc tế, mà
cụ thể là chủ nghĩa tư bản quốc tế, và, đối với họ, chỉ có hệ thống quốc tế mới
thực sự là cấp phân tích thích đáng. Tuy nhiên, đôi khi, các động cơ và sở
thích cá nhân dường như cũng tạo ra khác biệt.
Gorbachev
đã đưa glasnost (công khai) và perestroika (cải tổ) vào Liên Xô ngay từ
năm 1986. Sau năm 1976, Nhà lãnh đạo Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, tự phong mình
thành kiến trúc sư của Trung Quốc. Trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, nhà nước cho phép cạnh tranh tư nhân có giới hạn và mở cửa một cách từ từ
về mặt kinh tế ra thế giới bên ngoài. Liệu những người này có thực sự có trách
nhiệm trước những thay đổi to lớn này, hay cá nhân các nhà lãnh đạo chỉ là những
người phù hợp (hay không phù hợp) tại thời điểm đó? Trong tình huống tương tự,
những cá nhân khác có đưa ra các quyết định khác hay
không, và do đó, sẽ có hướng đi khác trong quan hệ quốc tế?
Liên
quan tới giới tinh hoa, đây là hai câu hỏi thích hợp nhất trong việc xác định
vai trò của cá nhân: Khi nào hành động của các cá nhân có khả năng gây ảnh hưởng
nhiều hay ít lên tiến trình của các sự kiện? Các đặc điểm cá nhân khác nhau của
các tác nhân có thể làm cho họ hành xử khác đi trong những hoàn cảnh nào?
Tác
động của giới tinh hoa: Điều kiện bên ngoài
Hành
động của cá nhân ảnh hưởng tới tiến trình của các sự kiện khi có ít nhất một
trong một số yếu tố sau đây (xem Hình 6.1). Khi các thiết chế chính trị không ổn
định, còn non trẻ, rơi vào khủng hoảng, hoặc sụp đổ, các nhà lãnh đạo tạo được ảnh
hưởng mạnh mẽ. Những nhà
lập quốc, dù là George Washington của Mỹ, Mohandas Gandhi của Ấn Độ, Vladimir
Lenin của Nga, hay Nelson Mandela của Nam Phi, có ảnh hưởng to lớn vì họ lãnh đạo
trong những năm đầu, khi quốc gia mới thành lập, khi các thiết chế và luật lệ
đang được thiết lập. Do đó, phong cách tự nhiên của Mandela và ảnh hưởng to lớn
của ông đối với quá trình hoà giải đã làm cho quá trình chuyển đổi sang chế độ
đa sắc tộc trở thành dễ dàng hơn. Adolf Hitler, Franklin Roosevelt, Mikhail
Gorbachev, và Vladimir Putin tạo được nhiều ảnh hưởng hơn vì các quốc gia của họ
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế khi họ giành được quyền lực.
Cá
nhân cũng gây được ảnh hưởng lên tiến trình của các sự kiện khi họ ít bị hiến
pháp trói chân trói tay. Trong các chế độ độc tài hay tập quyền hóa chặt chẽ,
các nhà lãnh đạo hàng đầu tương đối ít bị những rào cản ở trong nước – lực lượng chính trị đối lập hay các góp ý của xã hội – trói chân trói tay và do đó
có thể định hướng và thực hiện chính sách đối ngoại không gặp nhiều cản trở,
như Liên Xô và Trung Quốc đã cho thấy. Trong các chế độ dân chủ non trẻ và đang
phải vật lộn để sống còn, các thiết chế có thể chưa được vững chắc. Thật vậy,
Hamid Karzai của Afghanistan công nhận rằng ông dựa vào “cực kì ít” vào các thiết
chế của chính phủ của chính ông, mà dựa nhiều vào các mạng lưới không chính thức
và quản trị phi hình thức[3].
Chú thích ảnh: Mohandas
Gandhi kiên trì dẫn dắt phong trào phi bạo lực của quần chúng trong cuộc đấu
tranh với chính quyền thực dân Anh để giành độc lập cho Ấn Độ. Việc làm của ông
đã giúp thành lập nhà nước Ấn Độ độc lập, tạo được ảnh hưởng lớn trên trường quốc
tế. Đây là ảnh chụp Gandhi khi ông tới thăm dinh thự của thủ tướng Anh ở
London, năm 1931.
Hình 6.1 Ảnh
hưởng của giới tinh hoa |
||
Cá nhân người lãnh đạo gây ảnh hưởng tới tiến trình của
các sự kiện |
||
Khi các thiết chế chính trị: Không ổn định Còn non trẻ Lâm vào khủng hoảng Sụp đổ |
Ít bị hiến pháp trói chân trói tay |
Khi các vấn đề hay tình huống: Không quan trọng Ít gặp Không rõ ràng |
Trong
các chế độ dân chủ, những nhà hoạch định chính sách hàng đầu cũng có thể thay đổi
chính sách một cách đầy ấn tượng. Ví dụ, năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon
có thể thiết lập chính sách đối ngoại trái ngược hoàn toàn với chính sách trước
đây trong quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bằng cách bí mật gửi cố vấn
chính sách đối ngoại hàng đầu của ông, Henry Kissinger, tới gặp thủ tướng Trung
Quốc Chu Ân Lai và các cố vấn của ông này. Những động thái này là thay đổi
không ai ngờ tới, nếu biết rằng Nixon thuộc Đảng Cộng hòa và thành tích chống cộng
sản trước đây của ông này. Năm 2015, Tổng thống Barack Obama cũng tuyên bố
chính sách không ai ngờ tới, ngược hẳn với trước đây: Đối thoại với Cuba sau gần
5 thập kỷ bất tương giao, và chính quyền của ông đã đàm phán khuôn khổ thỏa thuận
hạt nhân với Iran sau gần 4 thập kỷ hai bên hầu như không liên lạc với nhau.
Nhưng những chính sách ngược hẳn với trước có thể là ngoại lệ, vì nhiều nhà
lãnh đạo dân chủ bị bộ máy quản lí hành chính và các nhóm xã hội trói chân trói
tay, thể hiện qua phong trào phản đối mạnh mẽ ở Mỹ đối với cả việc “mở cửa” với Cuba lẫn thỏa thuận hạt nhân với
Iran.
Những đặc điểm cụ thể của một tình
huống cũng quyết định mức độ quan trọng của những cá
nhân quan trọng. Đặc điểm cá nhân của những người ra quyết định có ảnh hưởng nhiều, tới những vấn đề không quan trọng chứ
không phải là những vấn đề quan trọng nhất, khi chúng là những vấn đề rất ít gặp - nghĩa là không có
sẵn quy trình vận hành - hoặc khi tình hình là không rõ ràng và thông tin cũng
không rõ ràng. Khi xảy ra khủng hoảng, đặc biệt, khi không đủ thông tin và
không thể áp dụng các quy trình vận hành chuẩn, là lúc đặc điểm cá nhân của người
ra quyết định có vai trò quan trọng nhất.
Những kịch bản như thế đã xuất hiện trong cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba, thái độ cởi mở của cá nhân Tổng thống John F. Kennedy
trước những lựa chọn khác nhau và sự quan tâm đến phương thức vận hành của nhóm có vai trò
trong quá trình giải quyết cuộc khủng hoảng này.
Ảnh
hưởng của giới tinh hoa: Cá tính và quyền lợi cá nhân
Ngay
cả trong số các nhà lãnh đạo thuộc tầng lớp tinh
hoa làm việc trong điều kiện bên ngoài
tương tự nhau,
một số người dường như có ảnh hưởng lớn hơn lên chính sách đối ngoại so với những
người khác. Điều này đưa
chúng ta tới việc
khảo sát cả những đặc điểm cá nhân có vai trò quan trọng và quy trình tư duy của
con người.
Nhà
tâm lý học chuyên về lĩnh vực chính trị Margaret Hermann đã phát hiện được một
số đặc điểm cá nhân có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại. Vì các nhà lãnh đạo
hàng đầu thường không làm các bài kiểm tra tính cách, Hermann sử dụng chiến lược
nghiên cứu khác. Trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1968, bà đã thu thập một
cách có hệ thống các cuộc phỏng vấn trong khung cảnh tự nhiên và các cuộc họp
báo với 80 người lãnh đạo của 38 quốc gia. Từ những dữ liệu này, bà đã tìm được
những đặc điểm cá nhân quan trọng nhất, mà bà cảm thấy có ảnh hưởng tới xu hướng
của nhà lãnh đạo đối với chính sách đối ngoại[4].
Những đặc điểm này được liệt kê trong phần trên Hình 6.2.
Những
đặc điểm cá nhân này định hướng quan điểm của một người về các vấn đề đối ngoại.
Từ đặc điểm của cá nhân, xuất hiện hai khuynh hướng. Một nhóm, là các nhà lãnh đạo có tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở mức cao,
tin tưởng mạnh mẽ vào khả năng của mình trong việc kiểm soát các sự kiện, nhu cầu
cao về quyền lực, không có tư duy phức tạp về mặt khái niệm và hay nghi ngờ người
khác, thường có khuynh hướng độc lập về các vấn đề đối ngoại. Nhóm
kia, là các nhà lãnh đạo với tinh thần dân tộc không cao, ít tin vào khả năng của
mình trong việc kiểm soát các sự kiện, nhu cầu cao về liên kết, tư duy phức tạp
về mặt khái niệm và ít nghi ngờ người khác, thường tạo điều kiện cho người khác
tham gia vào các vấn đề đối ngoại. (phần dưới Hình 6.2 minh họa các xu hướng
này). Sau đó Hermann đã kiểm tra xem các đặc tính cá nhân và khuynh hướng tương ứng của những đặc tính
này có liên quan đến đặc điểm của chính sách đối ngoại và hành vi của các nhà
lãnh đạo hay không.
Cả
Hermann lẫn các nhà nghiên cứu sau đó đều sử dụng cùng lược đồ như thế, đã phát
hiện ra rằng những đặc điểm và khuynh
hướng đó có giá trị quan trọng. Ví dụ, một công trình nghiên cứu đã phân tích đặc
điểm cá nhân của cựu thủ tướng Anh, Tony Blair, bằng cách sử dụng các phạm trù
của Hermann nhằm sắp xếp lại những câu trả lời của Blair cho những câu hỏi về
chính sách đối ngoại do Viện Thứ Dân đưa ra[5].
Nhà nghiên cứu này phát hiện được rằng Blair tin tưởng vững chắc rằng mình có
khả năng kiểm soát các sự kiện và rất cần quyền lực, trong khi không có tư duy
phức tạp về mặt khái niệm. Những phát hiện về tính cách như thế có giá trị rất lớn trong
việc giải thích chính sách đối ngoại của Anh đối với cuộc Chiến tranh Iraq, năm
2003, chính sách mà nhiều người trong chính phủ và công chúng Anh phản đối. Như
vậy, ngay cả trong các chế độ dân chủ, nơi những hạn chế mang tính hiến định là
khá cao, đặc điểm cá nhân cũng ảnh hưởng đến định hướng và hành động trong
chính sách đối ngoại.
Nhà
chính trị học Betty Glad đã xây dựng một mô tả ngắn về tính cách của cựu tổng thống Jimmy Carter chứng
tỏ tính cách
của ông này có vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ
trong cuộc khủng hoảng con tin 1979-1981. Cuộc khủng hoảng bắt đầu khi các chiến
binh Iran bắt cóc hơn 60 người Mỹ và giam giữ họ hơn một năm. Carter coi vụ bắt
cóc này là nhằm vào cá nhân mình. Ông cảm thấy bị sỉ nhục, bị ám ảnh, và trên hết
là muốn quyết định của mình được chứng minh là đúng. Sau khi việc giải
cứu bằng máy bay trực thăng thất bại, ông giải thích đó là một “nỗ lực đáng đồng tiền bát gạo”, vì cảm
thấy rằng hành động dù sao cũng tốt hơn là không có hành động. Điểm son trong
tính cách của Carter: Việc ông khó thừa nhận rằng mình đã phạm sai lầm trong
tình huống này là do nhu cầu tổng quát hơn của ông muốn được là người có lí.
Trong trường hợp này, giá mà Mĩ phải trả vì sự bất lực của họ trong cuộc khủng
hoảng mà toàn thể nhân dân và chính phủ chú tâm vào trong suốt mấy tháng, cũng
như cái giá về mặt chính trị mà Carter phải trả cho việc giải quyết vụ này,
càng làm cho ông đặc biệt khó nhận ra mình sai ở đâu[6].
Năm 2015, khi nghĩ lại giai đoạn đó, công dân Carter than rằng chỉ cần ông đưa
thêm nhiều chiếc trực thăng hơn nữa thì cuộc giải cứu có thể thành công và ông
đã được bầu lại rồi.
Hình 6.2
Tính cách cá nhân của các nhà lãnh đạo |
Tính cách cá nhân
của các nhà lãnh đạo |
Chủ nghĩa dân tộc:
gắn bó mạnh mẽ về mặt tình cảm với dân tộc; nhấn mạnh vào danh dự và phẩm giá
quốc gia |
Nhận thức về kiểm
soát: tin vào khả năng kiểm soát các sự kiện; kiểm soát chặt các tình huống;
chính phủ có khả năng tạo ảnh hưởng lên nhà nước và dân tộc |
Nhu cầu quyền lực:
nhu cầu thiết lập, duy trì và phóng chiếu quyền lực hoặc ảnh hưởng lên những
người khác |
Nhu cầu liên kết:
quan tâm tới việc thiết lập và duy trì quan hệ thân thiện với những người
khác |
Tư duy phức tạp về
mặt khái niệm: khả năng thảo luận một cách sâu sắc với những người khác về vị
trí, chính sách, ý tưởng. |
Không tin người
khác: cảm giác hoài nghi, lo lắng về người khác; nghi ngờ về động cơ và hành
động của người khác |
Xu hướng trong
chính sách đối ngoại |
Nhà lãnh đạo độc lập: Chủ nghĩa dân tộc cao Ý thức
cao về kiểm soát Nhu
cầu cao về quyền lực
Không có tư duy phức tạp về mặt khái niệm Hay
nghi ngờ người khác |
Nhà lãnh đạo tạo cơ hội cho người khác tham gia: Chủ nghĩa dân tộc không cao
Ý thức không cao về kiểm soát
Nhu cầu cao về liên kết
Tư duy phức tạp về mặt khái niệm
Ít nghi ngờ người khác |
Nguồn: Margaret G. Hermann, “Explaining Foreign Policy Behavior Using the
Personal Characteristics of Political Leaders,” International Studies Quarterly 24:1 (March 1980): 7–46.
Tính
cách cá nhân dường như ảnh hưởng đến nghệ thuật lãnh đạo của các nhà độc tài
nhiều hơn là các nhà lãnh đạo dân chủ vì không có các biện pháp kiểm soát hiến
định có hiệu quả, Glad cũng nghiên cứu cả lĩnh vực này. Bà phân tích tính cách
của các bạo chúa - những người cai trị mà không thèm để ý tới luật pháp, những
kẻ lợi dụng việc tự biến mình thành thánh thần và các dự án vĩ đại, tìm kiếm mọi
lợi thế, và sử dụng các biện pháp cai trị tàn nhẫn, thường là quá tàn ác. Bằng
cách so sánh Hitler, Stalin, và Saddam Hussein, bà gọi họ là mắc hội chứng tự
yêu mình một cách bệnh hoạn (malignant narcissism syndrome). Glad giải thích
cách thức mà “dự án quá hoành tráng và việc tạo ra những kẻ thù mới dẫn đến tình trạng dễ bị tổn thương, gia tăng những biện
pháp phòng vệ theo lối hoang tưởng, và bất nhất trong hành vi”[7].
Nhà
lãnh đạo đã quá cố của Bắc Triều Tiên, Kim Jong Il (“Lãnh đạo Kính mến”) và cha
của ông, Kim Il Sung (“Lãnh đạo vĩ đại”), có một số đặc điểm tương tự như thế.
Trong 50 năm cầm quyền, Kim Il Sung (Kim Nhật Thành) đã xây dựng hơn 34.000 đài
kỉ niệm cho chính mình, và chân dung của ông ta được treo đầy trong các tòa nhà
và những nơi công cộng khác. Tương tự như vậy, Kim Jong Il thể hiện chứng hoang
tưởng bằng những bức chân dung khổng lồ, chi hàng triệu USD cho những vở kịch với
chủ đề lịch sử, trong khi hàng triệu người dân chết đói. Một cựu bác sĩ tâm thần
của CIA cho rằng Kim Jong Il là người chỉ quan tâm tới mình, không có khả năng
cảm thông và có khả năng “gây hấn vô giới hạn”[8].
Sau
khi Kim Jong Il chết, năm 2011, bộ máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên lại ngay lập
tức ca ngợi con trai của ông ta, Kim Jong Un, ngang với thần thành, ghi nhận
tài năng và hành động phi thường của ông ta - tất cả đều nhằm hợp pháp hóa việc
kế vị của ông này. Được vinh danh là “Người kế tục vĩ đại”, Kim Jong Un, tương
tự như cha và ông của ông ta, đã và đang củng cố quyền lực bằng tệ sùng bái cá
nhân. Ông ta được coi là “nhà lãnh đạo tài ba của đảng, quân đội và nhân dân”
và “một con người vĩ đại được sinh ra trên thiên đường” - các thuộc tính nhằm hợp
pháp hóa sự kế vị của ông ta.
Như
vậy, tính cách
cá nhân góp phần quyết định cá nhân người lãnh đạo đưa ra những quyết định như
thế nào. Nhưng họ
cũng có sở thích cá nhân, và họ có thể có khả năng đưa ra định hướng chính sách
thể hiện những sở thích cá nhân đó.
Phần Quan điểm trên thế giới trang 190–91 minh họa những sở thích cá nhân của Đức Giáo
Hoàng Francis và cách thức Ngài định hình – hầu như tự mình - đường lối mới của
Giáo hội Công giáo.
Ban
hành quyết định mang tính cá nhân
Các
quyết định do một
cá nhân đưa ra
có thể phản ánh sự kiện là họ đứng trước nhiệm vụ đưa những thông tin mâu thuẫn
nhau vào một hình thức có tổ chức. Mô hình duy lí về quá trình ban hành quyết định
mà chúng ta thảo luận trong Chương 5 giả định rằng cá nhân nắm được tất cả các
thông tin có liên quan, quy định mục tiêu, cân nhắc các lựa chọn có liên quan
và đưa ra quyết định có thể đạt được mục tiêu đó một cách hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, trên thực tế, các cá nhân không phải lúc nào cũng là những người ban
hành quyết định theo kiểu duy
lí. Đứng trước thông tin vừa không hoàn hảo vừa không đầy đủ, và thường bị
choáng ngợp bởi quá nhiều thông tin và bị điều kiện hóa bởi kinh nghiệm cá
nhân, người ban hành quyết định lựa chọn, tổ chức và đánh giá thông tin mình nhận
được về thế giới xung quanh.
Cá
nhân sử dụng những kĩ thuật tâm lý khác nhau để xử lý và đánh giá thông tin.
Trong khi nhận thức và giải thích thông tin mới và thường đầy mâu thuẫn, các cá
nhân phải dựa vào nhận
thức hiện tại, thường là dựa trên kinh nghiệm sẵn
có. Nhận thức như vậy là “bộ lọc” tạo điều kiện cho các cá nhân xử lí thông tin
một cách có chọn lọc; những nhận thức như thế có chức năng tích hợp, tạo điều
kiện cho cá nhân tổng hợp và diễn giải thông tin. Nhận thức còn làm chức năng định
hướng, cung cấp hướng dẫn về những kì vọng trong tương lai và tiến hành lập kế
hoạch cho những việc có thể
xảy ra trong tương lai. Nếu những nhận thức đó tạo thành một tập hợp những hình ảnh được
tích hợp, thì được gọi là hệ thống niềm tin.
Các
học giả về quan hệ quốc tế đã nghĩ ra các phương pháp để kiểm tra xem có cái gọi
là nhận thức của giới tinh hoa hay là không, mặc dù chưa tiến hành nghiên cứu
trên nhiều cá nhân, vì không có đủ dữ liệu. Ole Holsti đã phân tích một cách hệ
thống 434 tuyên bố công khai của Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dulles về
Liên Xô, trong những năm 1953-1954. Công trình nghiên cứu của Ole Holsti chứng
tỏ một cách thuyết phục rằng Dulles giữ trong đầu hình ảnh không suy suyển về
Liên Xô, tập trung vào chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa cộng
sản. Đối với Dulles, người Liên Xô tốt, nhưng lãnh đạo của họ thì xấu; nhà nước
tốt, Đảng Cộng sản xấu. Hình ảnh không hề thay đổi, đặc điểm của Liên Xô không
thay đổi. Không thể nói một cách chắc chắn rằng nhận thức như thế - rút ra từ
những tuyên bố của Dulles – có ảnh hưởng tới các quyết định của Mỹ trong giai
đoạn này hay không. Nói cho cùng, Dulles chỉ là một người trong nhóm các nhà
lãnh đạo hàng đầu mà thôi. Tuy nhiên, một loạt quyết định được ban hành trong
thời gian đó nhất quán với nhận thức của Dulles[9].
Các
chính trị học Harvey Starr và Stephen Walker đều hoàn thành nghiên cứu mang
tính thực nghiệm tương tự về Henry Kissinger[10].
Bằng cách giải thích qui tắc hoạt động của Kissinger (các quy tắc mà ông tuân
theo) thông qua các bài viết của ông, Walker phát hiện ra rằng việc chỉ đạo cuộc
Chiến Việt Nam, trong giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973, có phần đóng góp to lớn
của Kissinger, phù hợp với những tiền đề của qui tắc hoạt động và quan niệm của
ông này về kết quả mà hai bên đều chấp nhận được. Ông muốn đàm phán việc cùng
rút các lực lượng bên ngoài và tránh đàm phán về cơ cấu nội bộ của Nam Việt
Nam. Ông sử dụng lực lượng đủ mạnh, kết hợp với các điều khoản hòa bình rộng
rãi, để Bắc Việt đứng trước lựa chọn là hiệp ước hòa bình đầy hấp dẫn hay giải
pháp thay thế khó chấp nhận – dẫm chân tại chỗ hoặc leo thang chiến tranh.
Quan điểm trên thế
giới Giáo hoàng: Quan
điểm của Vatican Lên ngôi Giáo hoàng năm 2013, Giáo hoàng Francis đại diện
cho nhiều “cái đầu tiên”, Giáo hoàng đầu tiên thuộc dòng Tên, Giáo hoàng đầu
tiên từ Nam Mỹ (Argentina), Giáo hoàng đầu tiên từ Nam Bán Cầu, và Giáo hoàng
đầu tiên không phải người châu Âu (kể từ năm 741). Lấy tên Francis, theo tên
Thánh Francis of Assisi, vị Giáo hoàng này làm theo tấm gương của người trùng
tên với mình. Và Ngài đã chứng tỏ sự quan tâm của Ngài đối với người nghèo,
người yếu đuối, và thái độ kinh tởm của Ngài đối với hệ thống quốc tế, trong
đó, chủ nghĩa tư bản được tháo cũi xổ lồng đã dẫn đến việc phân chia của cải
một cách bất bình đẳng. Cách tiếp cận của Ngài là khiêm nhường và thân thiện
với tất cả mọi người, với người ốm, người bị tù đày, thậm chí với cả những
người mà phong cách sống không được học thuyết chính thống của Giáo hội chấp nhận. Mặc dù tán thành quan điểm truyền thống của Giáo
hội trong việc chống lại đồng tính, phá thai, thụ phong cho phụ nữ, Ngài đã
công khai tuyên bố rằng những người này phải được thương yêu và tôn trọng. Sử dụng cả các
thông điệp của giáo hội truyền thống lẫn các phương tiện truyền thông xã hội
đương đại, Đức Giáo Hoàng phát biểu một cách mạnh mẽ về các vấn đề chính
trong giai đoạn hiện nay, như Ngài đã làm trong chuyến thăm đầy hào hứng của
Ngài tới Mỹ, mùa thu năm 2015. Những vấn đề Ngài đặt ra gồm có chỉ trích tham
vọng quá mức về tiền bạc và ủng hộ kiểm soát tốt hơn thị trường tài chính và
công bằng hơn về mặt xã hội. Dùng uy tín và sự nổi tiếng cá nhân của mình,
Ngài kêu gọi tổ chức đối thoại và tham gia vào cuộc đối thoại giữa đại diện của
những niềm tin tôn giáo khác nhau. Trong chuyến đến
Jordan, năm 2014, Ngài đã làm việc để đưa người theo Do Thái giáo và người
theo Hồi giáo tham gia đối thoại và tìm kiếm những mối quan hệ gần gũi hơn với
Giáo hội Chính thống đã li khai ở phương đông. Năm 2015, sau 15 năm đàm phán
và đối thoại, Vatican đã ký hiệp ước với “nhà nước Palestine”. Hi vọng là quá
trình phát triển như thế sẽ dẫn đến quan hệ tốt hơn giữa Israel và người
Palestine và là ví dụ về hợp tác cho các quốc gia khác ở Trung Đông. Năm 2015, Đức Giáo
Hoàng đã đưa ra thông điệp dài 184 trang nhằm nêu bật những thách thức của biến
đổi khí hậu trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên Kinh Thánh, các thông điệp của
Giáo hoàng trong quá khứ, và những lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Chính thống
giáo phương Đông và Hồi giáo, Giáo hoàng phê phán phát triển thiếu trách nhiệm
và chi tiêu quá mức. Ngài mô tả quá trình phá hủy môi trường do con người sử
dụng nhiên liệu hóa thạch, Ngài cũng cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng đối
với môi trường, kinh tế, chính trị và xã hội - đặc biệt là đối với người
nghèo. Những lời kêu gọi xã hội hành động của Ngài trong thông điệp này mang
tới cho các nhà hoạch định chính sách lời biện hộ về mặt đạo đức khi tiến
hành những biện pháp nhằm giải quyết hiện tượng biến đổi khí hậu. Ngài còn
kêu gọi mỗi gia đình Công giáo đều tiếp nhận người tị nạn, đây là ví dụ khác
của lãnh đạo bằng cách cầu xin mọi người hành động một cách có đạo đức. Đức Giáo Hoàng,
tương tự như các Giáo hoàng trước đó,
đã tạo điều kiện cho các sáng kiến ngoại giao và tiến hành ngoại giao kênh
2 (Track Two diplomacy)a. Vatican đã đặt mục tiêu giúp Cuba trở lại
với cộng đồng của các quốc gia từ cách đây khá lâu. Hồng y O’Malley ở Boston,
một người bạn tâm giao của Giáo hoàng Francis, có vai trò quan trọng trong việc
đưa thêm vấn đề Cuba và quan hệ của Mỹ vào chương trình nghị sự của cuộc hội
đàm giữa Tổng thống Obama và Giáo hoàng Francis ở Rome, tháng 3 năm 2014. Hồng
y Jaime Ortega hoạt động vì Giáo hoàng Francis, Ngài đã giúp Giáo hoàng tiếp
cận với những vấn đề then chốt trong giai đoạn hiện nay. Cuộc hội đàm trên là tiếp tục các cuộc đàm phán bí mật giữa các quan chức Mỹ và Cuba, một
năm trước đó ở Canada. Thời điểm này thuận
lợi dù không được tính trước[VN1] - lúc đó đang có những áp lực đòi phải giải quyết ngay về tình hình sức khỏe của các tù nhân sẽ được trao đổi và có những xu hướng
dài hạn được công nhận: sự phản đối của thế hệ những người Mỹ gốc Cuba đối với
công cuộc hòa giải trước khi chủ nghĩa cộng sản ở Cuba cáo chung đang giảm dần.
Các nhà lãnh đạo cả hai quốc gia đều thừa nhận vai trò cá nhân Giáo hoàng
trong tiến trình hòa giải. Chú thích ảnh: Giáo Hoàng Francis nói về nạn nghèo
đói và biến đổi khí hậu trong bài phát biểu ở Nhà Trắng, tháng 9 năm 2015,
trong chuyến thăm đầy hào hứng của Ngài tới Mỹ. Cuối cùng, Đức
Giáo Hoàng phát ngôn trên cương vị Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo trên
toàn thế giới, với 1,1 tỷ tín hữu và là người đứng đầu thành phố Vatican, quốc
gia độc lập nhỏ nhất được quốc tế công nhận. Những ưu tiên của Ngài tạo được ảnh
hưởng mạnh mẽ lên chính sách của Giáo hội Công giáo và được sử dụng nhằm gây
áp lực, buộc các chính phủ phải chú ý đến các vấn đề đạo đức khi thiết lập
chính sách.
|
- Ngoại giao kênh 2 hay ngoại giao nhân dân (Track Two diplomacy) bao
gồm những cuộc đối thoại không chính thức giữa các tác nhân, ví dụ, các
nhà khoa học, các vị lãnh đạo tôn giáo, các quan chức cao cấp đã nghỉ hưu,
và những người lãnh đạo NGO, có thể mang tới những ý tưởng mới và quan hệ
mới cho ngoại giao chính thức- ND.
Các
công trình nghiên cứu não trạng của tầng lớp ưu tú là khả thi, vì một số người
đặc biệt này để lại bút tích, được viết trước, trong và sau khi họ giữ các chức
vụ quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách. Tuy nhiên, vì ít nhà lãnh
đạo để lại bút tích như vậy, khả năng của chúng ta trong việc phác họa lại niềm
tin, nhận thức hoặc chuẩn mực đạo đức của giới tinh hoa thường bị hạn chế,
chúng ta cũng không có khả năng khẳng định một cách chắc chắn ảnh hưởng của họ
đối với quyết định cụ thể nào đó. Vì vậy, thông thường, cả các nhà chính trị học
lẫn các nhà sử học đều cho xuất bản những cuốn tiểu sử mang tính diễn giải, dựa
trên việc xem xét lại các tài liệu lịch sử, khi các tài liệu trước đây được coi
là mật được đưa ra công khai. Tiểu sử George F. Kennan - kiến trúc sư của học
thuyết ngăn chặn được thảo luận trong Chương 2 – do nhà sử học John Lewis
Gaddis – chấp bút và được Kennan đồng ý cho xuất bản, cho thấy tư duy chiến lược
của ông, có ảnh hưởng lớn như thế nào đối với chính sách đối ngoại của Mỹ,
trong khi Kennan và Costigliola - sử dụng nhật ký cá nhân chi tiết của Kennan –
lại cho thấy tính cách yếu ớt, thường tỏ ra tuyệt vọng, thể hiện quan điểm khác
về con người và cội nguồn tư tưởng của ông này[11].
Henry Kissinger, chiến lược gia và người lập chính sách trong thời gian Nixon
làm tổng thống, là đối tượng của cuốn tiểu sử mang tính giải thích vừa được xuất
bản của Niall Ferguson. Bác bỏ nhiều tài liệu coi Kissinger là người theo chủ
nghĩa hiện thực tinh túy, Ferguson, dựa trên tư liệu của chính Kissinger và các
tài liệu lưu trữ, phát hiện được rằng ông ta là người theo chủ nghĩa lí tưởng,
không phải theo truyền thống của Woodrow Wilson hay Immanuel Kant, mà là người
công nhận rằng chủ nghĩa hiện thực có thể làm người ta tê liệt và trống rỗng về
mặt đạo đức. Những nguyên tắc của tự do và lựa chọn quan trọng hơn chủ nghĩa thực
dụng[12].
Nhiều
nhà lãnh đạo, ví dụ Vladimir Putin, không có tiểu sử chính thức, và một số nhà
lãnh đạo có thể tìm cách tạo dựng hình ảnh cá nhân của mình cho những mục đích
chính trị. Do đó, dựa trên kiến thức mà chúng ta có vào lúc này, Putin là người
theo phái hiện thực? theo chủ nghĩa lí tưởng? hay chỉ là người thực dụng? (Xem Đằng
sau những tiêu đề báo chí trên trang 194–95)
Các cơ chế xử lí thông tin
Hình
ảnh và nhận thức của chúng ta về thế giới liên tục bị những thông tin mới, đôi
khi áp đảo và thường là trái ngược nhau công kích. Tuy nhiên, hình ảnh và hệ thống
niềm tin, nói chung, không thay đổi và hầu như không bao giờ thay đổi một cách
triệt để. Như vậy, những
người thuộc giới tinh hoa sử dụng, thường là vô thức, một số cơ chế tâm lý để xử
lí thông tin mà họ gặp trong đời. Bảng 6.1, trang 196, tóm tắt những cơ chế
này.
Trước
hết, người ta cố gắng để có sự nhất quán về mặt nhận thức, đảm bảo rằng các niềm
tin của họ liên kết với nhau thành một tổng thể chặt chẽ. Ví dụ, người ta muốn
tin rằng kẻ thù của kẻ thù là bạn và kẻ thù của bạn là kẻ thù. Do xu hướng muốn
trở thành người có nhận thức nhất quán, người ta lựa chọn hoặc khuếch đại những
thông tin góp phần củng cố những niềm tin sẵn có và lờ đi hoặc bỏ qua thông tin
mâu thuẫn với niềm tin của mình. Ví dụ, trước khi gây chiến với nhau để tranh
giành quần đảo Falkland/Malvinas, năm 1982, vì cả Anh và Argentina đều là bạn của
Mỹ, nên các nhà hoạch định chính sách của Mỹ cho rằng cuộc xung đột là không
nghiêm trọng. Họ không nghĩ rằng nước đồng minh với mình sẽ gây chiến với
Argentina để tranh giành mấy hòn đảo trơ trụi cách bờ biển nước Anh hàng ngàn dặm.
Tuy nhiên, Mỹ đã đánh giá thấp sự ủng hộ hành động quân sự của nhân dân Anh và
đánh giá sai địa vị bấp bênh ở trong nước của các tướng lãnh Argentina, những
người đang tìm cách củng cố quyền lực của mình bằng cách hướng sự chú ý của quần
chúng vào cuộc xung đột bên ngoài.
Người
ta cũng lĩnh hội và đánh giá thế giới theo những kinh nghiệm mà họ đã học được
từ những sự kiện trong quá khứ. Người ta tìm kiếm những chi tiết của sự kiện hiện
nay tương tự như chi tiết của sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, và có thể bỏ qua
những khác biệt quan trọng. Những chi tiết tương tự như thế thường được gọi là
tập hợp nằm trong kí ức. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez, năm 1956,
thủ tướng Anh Anthony Eden coi tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser là Hitler
thứ hai. Eden nhớ lại nỗ lực bất thành của thủ tướng Neville Chamberlain nhằm
nhượng bộ Hitler bằng thỏa thuận (Munich
Munich agreement), kí năm 1938; và do đó, tin rằng không thể nhượng bộ
Nasser. Suy nghĩ tương tự như vậy làm cho một số người Mỹ tinh hoa mô tả Iraq
như là Việt Nam thứ hai hoặc coi thất bại của Liên Xô ở Afghanistan cũng tương
tự như thất bại của Mỹ ở Việt Nam, mặc dù có những khác biệt quan trọng
Nhận
thức cá nhân thường được định hình dưới dạng hình ảnh tương phản: Trong khi người
ta coi hành động của mình là tốt, là đạo đức và công bằng, thì hành động của kẻ
thù bị tự động coi là xấu xa, vô đạo đức và bất công. Xây dựng hình ảnh tương
phản thường làm trầm trọng thêm xung đột, làm cho việc giải quyết vấn đề đang gây tranh cãi thậm chí còn khó khăn hơn.
Các
cơ chế tâm lý mà chúng ta đã thảo luận cho đến lúc này ảnh hưởng đến hoạt động
của cả cá nhân lẫn các nhóm nhỏ. Nhưng các nhóm nhỏ cũng có cơ chế tâm lí làm suy yếu mô hình duy lí. Nhà tâm lý học Irving
Janis gọi cơ chế tâm lí này là tư duy tập thể năng động
(dynamic groupthink). Theo Janis, tư duy tập thể là “cách tư duy mà người
ta vận dụng khi họ tham gia sâu vào một nhóm cố kết, khi các thành viên phấn đấu
để có sự nhất trí đến mức không đếm xỉa tới ước muốn đánh giá một cách thực tế
những đường lối hành động có thể lựa chọn”[13].
Động lực của nhóm, trong đó có ảo tưởng về tính không thể bị tổn thương và nhất trí, thái độ
lạc quan quá mức, niềm tin vào đạo đức của nhóm mình và những việc xấu xa của kẻ
thù, và áp lực lên những người có quan điểm khác, buộc họ phải thay đổi quan điểm
của mình, dẫn đến tư duy tập thể.
Ví
dụ, trong Chiến tranh Việt Nam, một nhóm các nhà hoạch định chính sách hàng đầu
của Mỹ, gắn bó với nhau bởi tình bằng hữu và lòng trung thành, đã tổ chức thành
nhóm gọi là nhóm ăn trưa thứ ba. Sau chiến thắng giòn giã của tổng thống Lyndon
Johnson trong cuộc bầu cử năm 1964, nhóm người này đắm mình trong thái độ tự
tin và lạc quan, bác bỏ mọi thông tin bi quan về việc tập kết lực lượng quân sự
của Bắc Việt Nam. Khi ngày càng có nhiều thông tin về số thương vong của cả
quân Nam Việt Nam cũng như quân Mỹ gia tăng và áp lực từ bên ngoài tăng lên,
nhóm này càng gắn bó thêm, các thành viên tìm an ủi trong tình trạng an toàn của nhóm. Những người không chia sẻ cách suy nghĩ
của nhóm đều bị đưa ra khỏi nhóm một cách không chính thức và chính thức vì dự
báo của họ rằng nỗ lực chiến tranh thất bại đã bị người ta lờ đi.
Đằng sau những tiêu đề báo chí Vladimir Putin:
Con người và chính sách của ông ta. “Putin là một nhà
lãnh đạo Liên Xô trong thế kỷ XXI”, Maxim Trudolubov, biên tập viên một tờ
báo độc lập của Nga, viết trên tờ The
Moscow Times như thế. Ông này viết tiếp rằng chế độ của Putin là “nỗ lực
nhằm củng cố cuộc thí nghiệm của Liên Xô và đưa nó đến kết thúc hợp logic…cải
tiến dựa trên thành tích của các cựu lãnh đạo
Liên Xô, như Vladimir Lenin, Josef Stalin, Nikita Khrushchev, Leonid
Brezhnev, Yury Andropov và Mikhail Gorbachev”. Ashton Carter, Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ, cho rằng Putin “nói điều ông ta nghĩ, không thể rõ ràng hơn. Ông ta
lấy làm tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô. Ông ta muốn người ta tôn trọng sự vĩ đại
của nước Nga. Ông ta muốn có tiếng nói trên thế giới. Và ông ta muốn có những
lân bang không có khả năng đe dọa”b. Nhưng đấy có phải là tất cả
những gì chúng ta cần biết? Trang web cá nhân
của Putin nói rằng ông chào đời năm 1952, bố mẹ thuộc tầng lớp bình dân, có
cuộc sống bình thường trong một chung cư ở Leningrad, hiện nay là St.
Petersburg. Ở trường trung học, ông là học trò không tích cực và không nổi trội,
nhưng sau đó bắt đầu tỏ ra nghiêm túc và nhìn về tương lai. Sau khi tốt nghiệp
Đại học quốc gia ở Leningrad, ông làm công tác tình báo trong lực lượng KGB
trong suốt 16 năm liền và được đào tạo về tình báo và phản gián. Từ năm 1985
đến năm 1990, ông là phái viên của KGB ở Đông Đức, cho đến ngày Đông Đức sụp
đổ. Sau khi rời KGB, ông làm việc trong chính quyền thành phố quê hương trong
suốt 6 nắm liền, rồi mới chuyển tới Moskva và nhanh chóng vươn lên trong bộ
máy quản lí hành chính của nước Nga. Putin là nhà lãnh
đạo đầu tiên ra đời sau Thế chiến II, ông đã cộng tác chặt chẽ với ban lãnh đạo
đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đó. Từ năm 2000 đến 2008, ông là Tổng
thống Liên bang Nga; rồi giữ chức thủ tướng từ năm 2008 đến năm 2012, rồi từ
năm 2012 lại giữ chức Tổng thống một lần nữa. Putin chăm chút tạo
dựng hình ảnh của mình như một con người đầy quyền lực – cao 1 mét 7, ngực trần,
cưỡi ngựa, võ sĩ Judo, tham gia đua xe, chơi khúc côn cầu. Đồng thời, ông được
coi là một người thẳng thắn, một người thực dụng sẵn sàng trả lời các câu hỏi
trong những cuộc phỏng vấn được truyền hình hàng năm. Ông được coi là người
chồng, người cha đức hạnh, nhưng hình ảnh này đã bị vụ li hôn gần đây làm cho
méo mó. Việc thông qua đạo luật cấm tuyên truyền về đồng tính đầy tranh cãi
vào năm 2013 và sự thất bại của chính phủ trong việc ngăn chặn bạo lực với
người đồng tính chứng tỏ Putin là người ủng hộ các giá trị truyền thống. Ông
đã thiết lập được quan hệ tốt đẹp với các nhóm tôn giáo khác nhau ở nước Nga
và hết lòng ủng hộ Nhà thờ Chính thống giáo, tổ chức luôn bảo vệ những giá trị
truyền thống của nước Nga. Ông ủng hộ dự án gây nhiều tranh cãi: Xây dựng ở
Moskva tượng đài Thánh Vladimir, thánh bổn mạng của nước Nga, người sáng lập
ra cả Nhà thờ Chính thống giáo Nga và nhà nước Nga hiện đại. Một thành viên nữ
trong câu lạc bộ những người trẻ tuổi hâm mộ ông hào hứng nói: “Putin đối với
tôi cũng như Chúa vậy. Tôi coi ông như là cha mình. Ông là một người đàn ông
hoàn hảo - một chính trị gia, một vận động viên, một người chủ gia đình. Tôi
muốn có người chồng giống ông ấy”. Phần lớn hình ảnh
cá nhân Putin tự nó đã thể hiện lập trường. Ông chống lại phương Tây, bằng
cách nói “không” với sự bành trướng của NATO. Nhận thấy sự yếu đuối ở các nhà
lãnh đạo cũ như Sa hoàng Nicholas II và Mikhail Gorbachev, ông đã thề sẽ
không bao giờ khom lung trước người khác. Ông đáp lại trò hề của nhà lãnh đạo
Liên Xô, Nikita Khrushchev, trong việc nhượng Crimea cho Ukraine, năm 1954, bằng
cách chiếm lại Crimea vào năm 2014 và được dân chúng nhiệt liệt ca ngợi. Và,
nhờ giá dầu thô xuất khẩu tăng, thu nhập thực tế của người Nga, năm 1999 đến
năm 2006, đã tăng lên gấp đôi, niềm tin vào Putin cũng gia tăng. Đỉnh điểm quan trọng
của việc tái lập vai trò trung tâm của Nga trên trường quốc tế là thành công
của Thế vận hội Olympic mùa đông được tổ chức ở Sochi vào năm 2014. Đấy không
chỉ là chiến thắng của nước Nga, mà còn là chiến thắng lớn của cá nhân Putin,
người giám sát toàn bộ Thế vận hội. Việc trao cho Nga quyền tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới cũng có vai trò quan trọng
đối với uy tín của Putin như thế. Do đó, khi chính quyền Mỹ truy tố các quan
chức FIFA tham nhũng, Putin đã lên tiếng bảo vệ FIFA, gọi đó là “nỗ lực trắng
trợn khác của Mỹ nhằm bành trướng quyền tài phán của mình sang các quốc gia
khác”. Vì thái độ bài Mỹ
và phương Tây nói chung, và vì đã giữ chức tổng thống trong giai đoạn tương đối
ổn định về chính trị và tăng trưởng về kinh tế, số người ủng hộ Putin thường ở
mức trên 80% trong phần lớn giai đoạn cầm quyền của ông. Những người theo
phái hiện thực coi Putin là một trong những nhà lãnh đạo hành động phù hợp với
quyền lợi dân tộc mang tính lịch sử của nước Nga. Từng là cựu cường quốc với
quyền lực đã và đang suy giảm, cùng với việc lãnh thổ bị chia năm sẻ bảy, Nga
cần tái xác nhận vị trí đúng đắn của mình trên trường
quốc tế. Hành động của Putin phù hợp với những lợi ích đó. Những người theo
phái tự do cho rằng các nhà lãnh đạo, tương tự như Putin, đã tạo ra khác biệt,
mặc dù họ không thể giải thích được tất cả các chính sách của nước Nga. Hình ảnh
Putin được xây dựng một cách cẩn thận và việc ông ta sử dụng phương tiện truyền
thông, hiện tượng vô tiền khoáng hậu ở Nga, đã giúp ông có được quyền lực hơn
hẳn và thành công của cá nhân ông, ví dụ, tổ chức thành công Thế vận hội, đồng
nghĩa với thành công của chính nhà nước này. Chú thích ảnh: Tổng thống Nga Vladimir Putin chào
các vận động viên tại Thế vận hội Sochi, hí trường của thành công cá nhân và
uy tín quốc gia.
|
a. Maxim Trubolyubov, “Putin Is a Soviet Leader for the 21st Century,”
Moscow Times, ngày 23 tháng 3 năm 2015.
b. Ashton Carter, “The Scholar as Secretary. A Conversation with Ashton
Carter,” Foreign Affairs 94:5 (Sept./Oct. 2015): 75.
Bảng 6.1 Những cơ chế tâm lí được sử dụng trong
quá trình xử lí thông tin |
||
Kĩ thuật |
Giải thích |
Ví dụ |
Nhất quán trong nhận thức |
Xu hướng chấp nhận
thông tin tương thích với những thông tin đã từng được chấp nhận trước đó, thường
lờ đi những thông tin mâu thuẫn với quan điểm của mình. |
Ngay trước khi Nhật
tấn công Trân Châu Cảng, những quân nhân chuyên theo dõi mục tiêu đã phát hiện
được những chiếc máy bay không phù hiệu đang tiến gần đến
đảo Hawaii. Không tin vào bằng chứng, họ đã bỏ qua những tín hiệu này. |
Tình huống quen thuộc |
Chi tiết trong
tình huống hiện tại tương tự những chi tiết được thu thập từ những tình huống
trong quá khứ. Xu hướng tìm những thứ đã quen thuộc thường đưa người ta tới
những kết luận tương tự như những kết luận đã có trong quá khứ. |
Trong cuộc chiến
tranh Việt Nam, những người ban hành quyết định đã coi Chiến tranh Triều Tiên
là tiền lệ, mặc dù đây là những trường hợp khác hẳn nhau. |
Hình ảnh phản chiếu |
Coi người đối lập
với mình có những tính cách đối lập với tính cách của chính mình. Người đối lập
bị coi là thù nghịch và không chịu thỏa hiệp, trong khi lại coi mình là thân
thiện và sẵn sàng thỏa hiệp. |
Trong giai đoạn
Chiến tranh Lạnh, giới tinh hoa và dân chúng Mỹ coi Liên Xô là hình ảnh phản
chiếu của chính họ: Mỹ hữu hảo còn Liên Xô thù nghịch. |
Tư duy nhóm |
Tiến trình tư duy,
theo đó các nhóm nhỏ tạo ra một ý kiến tập
thể và chống lại những lời phê phán quan điểm cốt lõi đó, họ thường bỏ qua
những thông tin mâu thuẫn với quan điểm của mình. |
Trong khi Mỹ lập kế
hoạch cho chiến dịch Vịnh Con Lợn nhằm chống lại Cuba, năm 1961, những người
chống đối bị đẩy ra khỏi nhóm lập kế hoạch. |
Thỏa mãn |
Các nhóm có xu hướng
tìm giải pháp “vừa đủ tốt” chứ không tìm giải pháp tối ưu. |
Quyết định của NATO trong việc ném bom Kosovo, năm 1999, nhằm chặn đứng quá trình thanh lọc sắc tộc chống lại
người Albania ở Cosovo chứ không đưa lính bộ binh vào. |
Trong
khi nhiều công trình nghiên cứu khảo sát tư duy nhóm (groupthink) áp dụng khái niệm này cho các nhóm nhỏ
trong giai đoạn khủng hoảng, các công
trình nghiên cứu gần đây đã triển khai ứng dụng tư duy nhóm nhằm giải thích những
thay đổi ý tưởng trong thời gian dài. Một nhà chính trị học khảo sát quyết định
của nhóm người xung quanh quyết định của chính quyền Bush coi Saddam Hussein
không chỉ là một nhà độc tài bất trị mà còn là đe dọa đáng kể đối với an ninh
quốc gia sau ngày 9/11. Tổng thống George W. Bush, Phó tổng thống Dick Cheney,
và Ngoại trưởng Donald Rumsfeld đã thúc đẩy chính sách, có ảnh hưởng tới các
thành viên khác của chính phủ. Sau cú sốc ngày 9/11, những ý tưởng phù hợp với
phái diều hâu ngày càng gia tăng được ảnh hưởng. Được sự gắn kết đó khuyến
khích, “lúc đó, ảo tưởng về sự nhất trí đã làm cho người ta ít quan tâm tới việc
khảo sát những đường lối hành động khác”[14].
Những người làm nhiệm vụ thanh lọc thông tin kiểm soát luồng thông tin, còn những
người bất đồng chính kiến thì tự kiểm duyệt.
Khi đó, những thành viên của các nhóm nhỏ,
có thể sử dụng các kỹ thuật tâm lý tương tự như thế, ví dụ, tình huống quen thuộc và hình ảnh phản chiếu,
để xử lý thông tin mới nhận được ở cấp độ cá nhân. Nhưng còn có thêm những khuynh hướng khác ảnh hưởng đến các nhóm nhỏ, ví dụ, như
áp lực thuận theo và tình đoàn kết của nhóm. Các nhóm lớn hơn trong khi tìm
cách thỏa hiệp tìm kiếm biện pháp khả thi trong hoàn cảnh của mình, tìm kiếm giải
pháp “đủ tốt”, chứ không phải là giải pháp tối ưu. Herbert Simon gọi là đặc tính này là giải pháp làm mọi người đều thoản mãn, như đã giới thiệu trong Chương 5[15].
Nhà
chính trị học Robert Jervis đề xuất những biện pháp mà các nhà hoạch định chính
sách có thể bảo vệ được suy nghĩ của mình và giảm thiểu sai lầm do những kiểu
nhận thức sai lầm khác nhau tạo ra[16].
Họ cần trình bày các giả định và niềm tin của mình một cách rõ ràng nhất có thể,
họ phải nhận thức được những cạm bẫy của việc chỉ giải thích dữ liệu theo lí
thuyết riêng của chính mình, và phải sẵn sàng xem xét thông tin từ những góc
nhìn khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả nhận thức như thế cũng không chắc đã dẫn đến
mô hình ban hành quyết định hợp lý. Không chỉ các nhà cai trị độc tài (Robert
Mugabe ở Zimbabwe hay Hun Sen ở Campuchia) mà cả những người nhìn xa trông rộng
(Julius Nyerere ở Tanzania, Mohandas Gandhi của Ấn Độ), và những người thực dụng
trong lĩnh vực chính trị (Paul Kagame ở Rwanda, Ellen Johnson Sirleaf ở Liberia
hay Merkel ở Đức), đã tạo được ảnh hưởng trên cơ sở nhận thức và nhận thức sai
lầm của mình.
Cá
nhân riêng lẻ
Mặc
dù các nhà lãnh đạo giữ các chức vụ trong chính quyền có nhiều cơ hội hơn không
chỉ trong việc tham gia mà còn định hình quan hệ quốc tế, những người bình thường
cũng có thể có và có vai trò khá quan trọng. Những người bình thường, không giữ
chức vụ chính thức nào, có thể nhờ hoàn cảnh, kĩ năng hoặc nguồn lực vẫn có thể
thực hiện được hành động độc lập trong quan hệ quốc tế. Họ ít bị ràng buộc bởi
luật chơi và chuẩn mực mang tính thiết chế. Nhiều tiếng nói cá nhân có thể khuếch
đại ảnh hưởng thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, trong đó có
Facebook, Twitter và blog. Từ Tunisia đến Colombia, từ Iran tới Trung Quốc, các
cá nhân bình thường đã sử dụng blog và Facebook nhằm bộc lộ những điều bất bình, phơi bày những vụ tham nhũng và tổ chức các cuộc phản đối
và biểu tình nhằm ủng hộ cho quan điểm cá nhân của mình.
Những
người có nguồn lực tài chính có thể xây dựng và phát triển các chương trình và ủng
hộ những sự nghiệp mà chính phủ không muốn hoặc không thể tài trợ. Quĩ Bill và
Melinda Gates (Bill and Melinda Gates Foundation), trị giá 60 tỉ USD, mỗi năm
cung cấp khoảng 1 tỉ USD cho các chương trình y tế về chủng ngừa cho trẻ em,
nghiên cứu AIDS và tăng cường các chương trình giáo dục và y tế. George Soros,
một doanh nhân người Mỹ gốc Hungary, thông qua Quỹ Xã hội Mở (Open Society
Foundation), đã dùng tài sản khổng lồ của mình để hỗ trợ dân chủ và nhân quyền ở
các nước Đông Âu và Trung Á.
Một
số người ủng hộ và giúp đỡ những sự nghiệp cụ thể, góp phần nâng cao nhận thức
của công chúng về những vấn đề này. Là những người nổi tiếng, họ có thể sử dụng
hiệu quả phương tiện truyền thông đại chúng và thậm chí có thể được gặp các quan chức. Những người được gọi
là các nhà ngoại-giao-có-tiếng-tăm này, như đã thảo luận trong Chương 5, trong
đó có George Clooney, nhà vận độn
nổi tiếng vì quyền sống của người dân Darfur; và vợ ông, luật sư nhân quyền
Amal Clooney; cũng như Angelina Jolie, người phát ngôn cho trẻ em, phụ nữ cũng
như người tị nạn trên toàn thế giới.
Một
vài người trở thành những nhà vận động
vì sự nghiệp mà đã họ đạt được hoặc đã bảo vệ. Malala Yousafzai, người trẻ nhất
từng được giải Nobel Hòa bình, năm 2014, là ví dụ điển hình nhất. Năm 2009, cô
viết blog cho đài BBC, mô tả cuộc sống hà khắc của người dân sống dưới quyền
cai trị của Taliban và lên án việc phân biệt đối xử với những cô gái không được
học trong các trường công lập. Năm 2012, vì những phát ngôn của mình mà cô đã bị
bắn, phát súng này đã đưa cô trở thành người chiến sĩ đấu tranh cho quyền của
phụ nữ và trẻ em. Với địa vị của người nổi tiếng, cô có thể vận động những người
đứng đầu nhà nước và các đại biểu ở Liên Hợp Quốc, cũng như sử dụng các phương
tiện truyền thông công cộng và quĩ của chính cô nhằm thúc đẩy sự nghiệp giáo dục
cho các trẻ em gái. Tác phẩm Tôi là
Malala (I Am Malala) của cô và một
bộ phim tài liệu mới phát hành trong thời gian gần đây Ông ta gọi tôi là Malala (He
Named Me Malala) đã giành được nhiều giải thưởng danh giá[17].
Cũng
có những chiến sĩ thập tự chinh đơn lẻ khác. Năm 2010, Mohamed Bouazizi, một
người bán hàng rong ở Tunisia, sau khi bị chính quyền tịch thu hàng hóa, đã tự
thiêu ở ngay bên ngoài tòa nhà chính phủ. Băng video ghi lại cảnh tự thiêu của
ông được đưa lên Internet và được cả thế giới Ả Rập xem, không chỉ dẫn đến vụ lật
đổ Tổng thống Tunisia, Zine al-Abidine Ben Ali, trong cuộc Cách mạng Hoa nhài,
mà còn là ngọn đuốc cho việc mở cửa cho phong trào dân chủ rộng rãi hơn trong
thế giới Ả Rập, gọi là Mùa Xuân Ả Rập.
Aung
San Suu Kyi là một biểu tượng khác: Bà là bộ mặt của phe đối lập trước chính phủ quân sự Myanmar (trước đây là
Miến Điện). Năm 1947, cha bà, Tướng Aung San, đã thương lượng để giành được độc
lập cho đất nước này từ tay Anh quốc và được coi là người lập ra nước Miến Điện
hiện đại. Những hành động phản đối công khai của con gái ông bắt đầu xuất hiện
sau cuộc đảo chính quân sự, năm 1962. Bất chấp lệnh cấm các buổi họp mang tính
chính trị, bà thường xuyên nói chuyện với đám đông và đòi thành lập chính phủ
dân chủ. Trong khi ủng hộ bất bạo động và bất tuân dân sự, bà du hành và nói
chuyện với khán giả thính giả khắp cả nước. Năm 1989, bà bị chính phủ quản thúc
tại gia trong hơn hai thập kỉ.
Sau
khi được trao giải Nobel Hòa bình, năm 1991, Aung San Suu Kyi trở thành biểu tượng
quốc tế của phong trào đối lập, đòi thả chính trị phạm và có những thay đổi
chính trị rộng lớn hơn. Sau khi được tự do, bà xây dựng lại đảng chính trị và
giành thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc hội. Bà đã có những chuyến đi đầy hân
hoan đến châu Âu và Mỹ, nhưng mức độ ảnh hưởng của bà đối với những người đứng
đầu trong việc ban hành quyết định thì vẫn chưa rõ ràng. Đảng chính trị của bà
giành chiến thắng long trời lở đất trong cuộc bầu cử năm 2015. Mặc dù hiến pháp
cấm bà giữ chức tổng thống, nhưng bà dự định sử dụng uy tín và quyền lực đã
giành được trong những năm một mình chống lại chế độ độc tài để có thể cai trị
như một quan chức của nhà nước.
Lợi ích của ngoại giao nhân dân của
các cá nhân
Những
người bình thường ngày càng có vai trò trong cái gọi là ngoại giao kênh hai hay
ngoại giao nhân dân (track-two diplomacy), đặc biệt là trong quá trình giải quyết
xung đột. Ngoại giao nhân dân sử dụng những người không làm việc cho chính phủ
để tiến hành các cuộc đàm phán. Một số trường hợp đã thành công. Ví dụ, mùa
xuân năm 1992, Eritrea kí tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Ethiopia sau nhiều năm
xung đột với cường độ cả thấp lẫn cao. Rất nhiều cuộc gặp không chính thức ở
Atlanta, Georgia, và một số nơi khác, giữa các bên bị ảnh hưởng và cựu tổng thống
Jimmy Carter, thông qua Mạng lưới đàm phán quốc tế của Trung tâm Carter ở Đại học
Emory đã tạo lập được nền tảng cho thỏa thuận này. Mùa thu năm 1993, ngoại giao
nhân dân phi chính thức và chính thức do Terje Larsen, một nhà xã hội học Na Uy
và Yossi Beilin của Đảng Lao động đối lập ở Israel khởi xướng đã bất ngờ thiết
lập được khuôn khổ cho quá trình hòa giải giữa Israel và Tổ chức giải phóng
Palestine. Một loạt các cuộc đàm phán sơ bộ đã được tiến hành trong suốt 5
tháng một cách hoàn toàn bí mật. Bắt đầu với những người không nằm trong thành
phần chính phủ, các cuộc thảo luận đã phát triển dần dần thành các cuộc đàm
phán có các quan chức chính phủ tham gia, xây dựng niềm tin trong bầu không khí
thân mật và tạo điều kiện cho việc kí thỏa thuận cuối cùng[18].
Những
nỗ lực ngoại giao nhân dân ở cấp cao như
thế không phải lúc nào cũng được đón nhận một cách nồng nhiệt. Ví dụ, nỗ lực
vào phút chót của Jimmy Carter, năm 1994, để gặp Kim Il-Sung của Bắc Triều Tiên
nhằm thảo luận về chương trình hạt nhân của Kim đã gặp một loạt câu hỏi mang
tính thăm dò. Chính phủ Mỹ có can thiệp hay không? Carter thay mặt ai để nói
chuyện? Hiểu biết thu lượm được có thể trở thành cơ sở cho thỏa thuận chính thức
giữa hai chính phủ? Mặc dù có những nghi ngại và cuối cùng Bắc Triều Tiên không
thực hiện lời hứa, năm 2002, Carter vẫn được trao Giải Nobel Hòa bình vì những
nỗ lực trong vụ này và những vụ khác nhằm thúc đẩy hòa bình trên toàn thế giới.
Công dân bình thường này có thực sự đại diện cho chính quyền Mỹ?
Các
hình thức ngoại giao nhân dân khác đòi hỏi rằng quá trình thảo luận phải được
duy trì thường xuyên và kéo dài. Trong một số trường hợp, những người không làm
việc cho chính phủ từ các nhóm quốc tế khác nhau được tập hợp lại trong các cuộc
hội thảo để giải quyết những vấn đề nhỏ để họ có thể xây dựng quan hệ cá nhân
và nhận thức vấn đề từ quan điểm của những người khác. Người ta hi vọng rằng những
người này sau đó sẽ tìm cách gây ảnh hưởng lên ý kiến của công chúng ở các quốc
gia của mình, trong khi cố gắng tái định hình và thường xuyên làm cho hình ảnh
của đối phương trở thành nhân bản hơn. Người ta đã sử dụng cách tiếp cận này để
giải quyết xung đột giữa các tín hữu Tin Lành và Công giáo ở Bắc Ireland và
tranh chấp Ả Rập-Israel. Các hội thảo nhằm giải quyết vấn đề đã được tiến hành
trong nhiều thập kỉ và các hoạt động mang tính hợp tác đã được khuyến khích.
Nhưng vẫn chưa có ai tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống về hiệu quả của những
hoạt động này.
Các
phương pháp tiếp cận theo lối phê phán và tiếp cận hậu hiện đại tìm cách thu
hút sự chú ý của các lí thuyết gia dòng chính vào những câu chuyện ít người biết
và ít được công bố hơn, vì những câu chuyện này cũng là một phần của quan hệ quốc
tế. Cụ thể là, những người cầm bút theo phái nữ quyền đã tìm cách làm cho người
ta chú ý tới vai trò của những cá nhân không làm trong chính quyền,
đặc biệt là phụ nữ. Trong tác phẩm Chuối,
Bãi biển và Căn cứ (Bananas, Beaches, and Bases),
nhà chính trị học Cynthia Enloe cho thấy một cách đầy thuyết phục làm sao “cá
nhân là quốc tế” bằng cách dẫn chứng những biện pháp mà phụ nữ có thể gây ảnh
hưởng đến quan hệ quốc tế. Bà nói tới những người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế,
những người tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, như thợ may, các
“cô gái” trong ngành công nghiệp nhẹ, những người giữ trẻ và người mẫu thời
trang. Bà cũng chỉ ra những phụ nữ tham gia trực tiếp hơn vào chính sách đối
ngoại – những người phụ nữ sống gần các căn cứ quân sự, vợ các nhà ngoại giao,
những người giúp việc gia đình và những người phụ nữ trong các tổ chức quốc tế[19].
Đấy là những câu chuyện chưa được kể về những nhóm người bị gạt ra ngoài lề mà
các lí thuyết gia phê phán, những người theo phái hậu hiện đại và những người
theo thuyết kiến tạo nói tới ngày một nhiều hơn.
Chú thích ảnh:
Năm 2009, cựu tổng thống Bill Clinton có vai trò quan trọng trong việc sắp xếp
để Bắc Hàn thả hai nhà báo Mỹ bị nước này bắt giữ. Những cá nhân riêng lẻ,
trong đó có các cựu lãnh đạo không còn nắm giữ bất kì chức vụ nào của chính phủ,
đôi khi có thể định hình quan hệ quốc tế.
Quần
chúng
Quần
chúng cũng có những xu hướng tâm lý tương tự như những cá nhân thuộc giới tinh
hoa và các nhóm nhỏ.
Họ suy nghĩ theo quan điểm và hình ảnh, họ nhìn thấy hình ảnh phản chiếu và họ
sử dụng các chiến lược xử lý thông tin tương tự như các cá nhân và các nhóm nhỏ.
Đỉnh điểm thời Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô thường được coi là những hình ảnh
phản chiếu của nhau: Một bên là hào phóng và yêu hòa bình; bên kia là ích kỷ và
hung hăng. Sau vụ chiếm đại sứ quán Mỹ ở Iran, năm 1979, các cuộc khảo sát dư
luận xã hội cho thấy hình ảnh phản chiếu giữ thế thượng phong. Nước Mỹ (mạnh mẽ
và dũng cảm) và lãnh đạo của nước này (thận trọng và nhân đạo) so với Iran (yếu
đuối và hèn nhát) và lãnh đạo Ayatollah Khomeini (nguy hiểm và tàn nhẫn). Tuy
nhiên, chưa rõ là nhận thức của quần chúng về Iran có tạo được ảnh hưởng lên những
người hoạch định chính sách hàng đầu hay không[20].
Việc
Tổng thống Carter tập tung toàn bộ sức lực vào vụ bắt giữ các con tin ở đại sứ
quán có phải là do công chúng quan tâm tới các con tin? Hay tính cách của
Carter đã làm cho ông tập trung hết sức đến như thế và nhiệt tình đến như thế đến
vụ bắt cóc này? Ảnh hưởng của quần chúng đối với chính sách đối ngoại có thể được
giải thích theo ba cách sau đây: Quần chúng cũng có những đặc điểm như giới
tinh hoa, ý kiến của quần chúng có ảnh hưởng thực sự đối với những người ban
hành quyết định hoặc quần chúng hành động một cách tương đối độc lập.
Tinh
hoa và quần chúng: Những đặc điểm chung
Thứ
nhất, có thể khẳng định rằng giới tinh hoa và quần chúng cũng có những niềm tin
và hành động tương tự nhau vì họ cùng có những đặc điểm tâm, sinh lí giống
nhau. Ví dụ, các cá nhân, tương tự như các con vật, được cho là có động cơ bẩm
sinh trong việc giành giật và bảo vệ lãnh thổ - “nhu cầu lãnh thổ”. Một số người
cho rằng, điều này lí giải sự lo lắng về việc giữ gìn biên giới lãnh thổ mà các
nhóm cho là thuộc về mình. Việc Israel bảo vệ quê cha đất tổ của mình trái ngược
với những tuyên bố chủ quyền của người Palestine đối với vùng đất đó. Các cá
nhân và các xã hội cùng có hội chứng hung hãn vì thất vọng
(frustration-aggression syndrome): khi thất vọng, tương tự như các cá nhân, xã
hội trở thành hung hãn. Tất nhiên, thất vọng có thể phát sinh từ nhiều nguồn
khác nhau, trong đó có những cú sốc về kinh tế như nước Đức từng phải chịu sau
Thế chiến I hoặc nước Nga trong những năm 1990.
Cả
bảo vệ lãnh thổ lẫn khái niệm hội chứng hung hãn vì thất vọng đều có vấn đề là
ngay cả khi tất cả các cá nhân và xã hội cùng chia sẻ những khuynh hướng mang
tính sinh học bẩm sinh thì không phải tất cả các nhà lãnh đạo và tất cả mọi người
đều hành động theo những khuynh hướng này. Vì vậy, những khuynh hướng chung của
tất cả các xã hội, giới tinh hoa và quần chúng có những khuynh hướng tương đồng thì cũng không thể giải thích được những
dao động cực đoan trong hành vi của cá nhân và hành vi của nhà nước.
Một
khả năng khác là giới tinh hoa và quần chúng chia sẻ những khuynh hướng chung
khác nhau, tùy theo giới tính. Những người đàn ông thuộc giới tinh hoa và đám
đông đàn ông có những đặc điểm chung, trong khi những phụ nữ thuộc giới tinh hoa và đám đông phụ nữ
có những đặc điểm khác với nam giới. Những sự khác biệt như thế có thể là
nguyên nhân của hành vi chính trị. Người ta đã thảo luận nhiều về sự khác biệt
là đàn ông, cả tinh hoa lẫn quần chúng, đều khát khao quyền lực, trong khi phụ
nữ là những người xây dựng sự
nhất trí, dễ hợp tác và dễ thỏa hiệp hơn. Ví dụ, một công trình nghiên cứu đã
phát hiện được những tác động trực tiếp của những khác biệt về giới đối với các
cuộc đàm phán hòa bình. Vì phụ nữ thường tới bàn đàm phán với kinh nghiệm trong
hoạt động dân sự, trong các tổ chức phi chính phủ, và phong trào trao quyền cho
công dân, họ mang theo những quan điểm và kỹ năng khác với đàn ông. Các nhà đàm
phán là phụ nữ như Mary Robinson, đặc phái viên Liên Hợp Quốc tại khu vực gọi là Great Lakes ở châu
Phi, đã cho các nhà lãnh đạo các nhóm phụ nữ địa phương tham gia đàm phán với
hi vọng là sẽ đạt được những kết quả tốt hơn[21].
Nếu có những sự khác biệt trong thái độ và hành vi giữa nam giới và phụ nữ, thì
những khác biệt này bắt nguồn từ sinh học hay học được từ văn hóa? Hầu hết những
người theo phái nữ quyền, đặc biệt là những người theo thuyết kiến tạo, đều cho
rằng những khác biệt này là các sản phẩm văn hóa được kiến tạo về mặt xã hội và
do đó, có thể, tái tạo cùng với thời gian. Tuy nhiên, một lần nữa, những khuynh
hướng chung này, dù có xuất xứ từ đâu, cũng không thể giải thích được những dao
động cực đoan trong hành vi của cá nhân.
Ảnh
hưởng của công luận lên giới tinh hoa
Khả
năng thứ hai là quần chúng có ý kiến và thái độ đối chính sách đối ngoại và
quan hệ quốc tế khác với giới tinh hoa. Nếu các cuộc thăm dò dư luận nắm bắt
được những khác biệt này, giới tinh hoa có lắng nghe? Chính sách do giới tinh
hoa ban hành có phản ánh thái độ của công chúng? Đôi khi, khuynh hướng chính sách đối ngoại tổng quát
của công chúng phản ánh tâm trạng chung của người dân mà các nhà lãnh đạo có thể
phát hiện được. Tổng thống George H. W. Bush có thể đã lợi dụng tình cảm tích cực của công
chúng trên thế giới sau chiến thắng trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, mặc
dù hiệu quả ở trong nước không kéo dài; ông đã không tái đắc cử. Ngay cả các
nhà lãnh đạo của các chế độ độc tài cũng quan tâm tới tình cảm của phần đông
dân chúng, ví dụ, trước sự tức giận của dân chúng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đã ra tay dẹp nạn tham nhũng ở các địa phương và các tỉnh.
Nhưng,
hiện tượng thường gặp hơn là công chúng có nhiều tình cảm khác nhau, chứ không
phải một tình cảm giữ thế thượng
phong duy nhất; các nhà lãnh đạo hàng đầu thường đứng trước một loạt các thái độ
khác nhau. Những ý kiến này được thể hiện trong các cuộc bầu cử, nhưng các cuộc
bầu cử là biện pháp đánh giá công luận không hoàn hảo, vì người ta chỉ bầu chọn
những người nắm chức vụ - những người có thể chia sẻ thái độ của cử tri về một
số vấn đề, nhưng không chia sẻ thái độ về những vấn đề khác.
Trong
hầu hết các chế độ dân chủ, điều tra dư luận xã hội cung cấp cho người ta thông
tin về thái độ của công chúng. Ví dụ, Liên minh châu Âu (EU), tiến hành công việc
gọi là Eurobarometer - khảo sát khoa học về thái độ của công chúng về một loạt
các vấn đề trong các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Vì vẫn những câu hỏi
như thế được đưa trong các cuộc thăm dò khác nhau, trong những thời điểm khác
nhau, cho nên các quan chức nhà nước và lãnh đạo EU có thể sử dụng những dữ liệu
đáng tin cậy về công luận. Tương tự như thế, từ những năm 1970, Dự án Công luận
Mỹ Latin (Latin American Public Opinion Project) đã tiến hành các cuộc khảo sát
một cách hệ thống công dân các nước Mỹ Latin. Và từ năm 2000, dự án thăm dò dư
luận gọi là Afrobarometer đã ghi nhận ý kiến của công dân về quản trị và kinh tế
ở gần 35 quốc gia. Nhưng, trong khi lập chính sách, các nhà lãnh đạo có nhớ những
chuyện này? Giới tinh hoa có thay đổi chính sách nhằm phản ánh các ưu tiên của
công chúng? Dữ liệu thu thập được trong năm 2014 về thái độ của các nước EU đối
với người nhập cư cho thấy ý kiến của dân chúng về vấn đề này là rất khác nhau.
Ở Hy Lạp, 86% ủng hộ chấp nhận ít người nhập cư hơn; ở Tây Ban Nha, con số này
là 47%; ở Đức, là 44 %, còn Ba Lan, là 40%. Ở Đức, 14% người dân ủng hộ chấp nhận
nhiều người nhập cư hơn, trong khi ở Hy Lạp chỉ có 1% ủng hộ mà thôi[22].
Và, sau làn
sóng người tị nạn và người tìm nơi trú ẩn an toàn, mùa hè năm 2015, những cuộc
thăm dò dư luận được tiến hành chỉ một năm trước đó đã dường như không đáng
tin nữa. Không có gì ngạc nhiên khi các nhà hoạch định chính sách của EU gặp
khó khăn như thế nào trong việc lập chính sách cho tất cả các nước trong EU.
Bằng
chứng từ Mỹ chứng tỏ giới tinh hoa quan tâm tới sở thích của công chúng, mặc dù
không phải lúc nào họ cũng kết hợp trực tiếp những ý kiến đó vào chính sách.
Các vị tổng thống quan tâm tới tính quần chúng
vì nó ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của họ; tổng thống càng được lòng dân nếu
ông/bà ta chiều theo tâm trạng của quần chúng hoặc chiến đấu cho các chính sách
được lòng dân. Tình trạng được
lòng dân giúp tổng thống có nhiều cơ hội hơn trong việc thiết lập chính sách quốc gia, nhưng thái độ của quần
chúng có thể không phải lúc nào cũng được chuyển trực tiếp vào chính sách.
Đôi
khi, và khá bất thường là, quần chúng có thể bỏ phiếu trực tiếp về chính sách đối
ngoại quan trọng. Ví dụ, nhiều vấn đề liên quan đến Liên minh châu Âu, trong đó
có Hiệp ước Maastricht (Maastricht
Treaty), Hiến pháp EU và Hiệp ước Lisbon (Lisbon Treaty) đã được đưa ra trưng cầu
dân ý - sẽ được thảo luận trong Chương 7. Năm 2002, nhân dân Thụy Sĩ đã bỏ phiếu
trong cuộc trưng cầu dân ý về việc tham gia Liên Hợp Quốc. Năm 2017, người dân
Anh sẽ bỏ phiếu cho việc có ở lại EU hay không và nếu ở lại thì phải có những
điều kiện như thế nào. Ý kiến trực tiếp của dân chúng được cân nhắc trước khi quyết
định về chính sách đối ngoại như thế này là rất hãn hữu.
Hành
động của quần chúng và vai trò của giới tinh hoa
Khả
năng thứ ba là quần chúng, không bị các thiết chế chính thức kiểm soát, có thể
có những hành động có ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ quốc tế, bất chấp hành động của giới tinh hoa. Có những lúc, dù dường như không có lãnh đạo,
quần chúng có những hành động tập thể có ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình chính
trị thế giới. Năm 1961, hàng ngàn người Đông Đức chạy trốn đã buộc người ta phải
dựng lên Bức tường Berlin. 28 năm sau, năm 1989, cuộc di cư tự phát của hàng
ngàn người Đông Đức qua Hungary và Áo đã làm cho bức tường sụp đổ. Phong trào
ra đi tự phát của “thuyền nhân” Việt Nam và những con tàu rách nát rời bỏ Cuba
và Haiti sang Mỹ đã dẫn đến những thay đổi trong chính sách nhập cư của Mỹ. Hiện
nay, phong trào ra đi tự phát của nhiều người Syria và Iraq, chạy trốn khỏi các
nước bị chiến tranh tàn phá đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở châu Âu.
Sau mấy tháng biểu tình quần chúng của những người muốn chấm dứt nạn tham nhũng
ở Guatemala, chính phủ nước này đã bị lật đổ vào năm 2015; nhưng quan hệ giữa
quần chúng và lãnh đạo không phải lúc nào cũng rõ ràng như thế.
Đôi
khi, một nhóm nhỏ những người trong giới tinh hoa có thể hoạt động hậu trường
hoặc thậm chí tổ chức các cuộc biểu tình quần chúng, ví dụ, “cuộc nổi dậy của
quần chúng”, tháng 10 năm 2000, nhằm chống lại nhà lãnh đạo Nam Tư, Slobodan
Milošević. Sau 13 năm nằm dưới quyền cai trị của ông này, dân chúng thuộc tất cả
các tầng lớp xã hội Serbia đã liên kết với 7.000 thợ mỏ bãi công, làm tê liệt hệ
thống kinh tế, ngăn chặn các tuyến đường vận chuyển và tiến về thủ đô Belgrade.
Được hỗ trợ bởi công nghệ mới của thời đại - điện thoại di động — họ có thể huy
động người dân từ khắp nơi trên cả nước, đưa máy kéo vào thành phố, tấn công Quốc
hội, và làm gián đoạn chương trình phát sóng của đài phát thanh và truyền hình
nằm trong tay Milošević. Nhưng, những người ưu tú trong phe đối lập đã đứng ở hậu trường, góp phần vận động của quần
chúng đòi thay đổi chính sách, và như tờ Time
viết: “Người Serb đã giành lại được đất nước của mình và tuy có muộn, nhưng đã
tham gia vào ngọn triều dân chủ, và cách đây một thập kỉ đã quét sạch những tên
bạo chúa cộng sản cuối cùng ở Đông Âu”[23].
Cuộc
cách mạng nhân dân ở Serbia nhằm chống lại Milošević (Cách mạng Xe Ủi - Bulldozer Revolution) đã trở thành mô
thức hành động ở các nước khác trong thế giới hậu cộng sản. Năm 2003, ở
Georgia, Cuộc cách mạng Hoa hồng đã phá vỡ một triều đại chính trị và đưa một tổng
thống mới vào vị trí quyền lực. Năm 2004, ở Ukraine, Cách mạng Cam đã chuyển
quyền lực vào tay nhà lãnh đạo phe đối lập, Viktor Yushchenko. Sau đó một thập
kỉ, sau cuộc Cách mạng Euromaidan (Euromaidan Revolution) - theo tên quảng trường
trung tâm ở Kiev, nơi những người biểu tình tụ tập - ông này đã phải chạy trốn
sang nước Nga. Mặc dù những sự kiện này minh họa cho quyền lực của quần chúng
và của truyền thông đại chúng, giới tinh hoa trong lực lượng đối lập có vai trò
quan trọng.
Trong
các sự kiện của Mùa xuân Ả Rập, mặc dù được hành động của người bán hàng rong
Tunisia cổ vũ, nhưng phía sau là một nhóm người trẻ tuổi, do nhà quản lý cao cấp của Google, Wael Ghonim, lãnh đạo từ
cuối năm 2010. Nhóm thanh niên này đã tổ chức chiến dịch trên Facebook và
YouTube, kêu gọi được hơn 130.000 người theo dõi tham gia lật đổ chính phủ của
Tổng thống Hosni Mubarak. Họ kết nối với các nhóm nhân quyền, và tìm cách nâng
cao nhận thức của những người Ai Cập bình thường về những vụ lạm dụng của chính
quyền. Cộng tác với Mohammed ElBaradei (cựu tổng giám đốc Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế và cũng là nhà lãnh đạo một đảng chính trị đối lập), họ trở
thành người phát ngôn đứng đằng sau cuộc biểu tình ngày 25 tháng 1 năm 2011.
Ghonim viết, “Đây là cuộc Cách mạng 2.0. Không có anh hùng vì tất cả mọi người
đều là anh hùng”[24].
Người
ta vẫn nghi ngờ về ảnh hưởng lâu dài của những cuộc cách mạng, trong đó, quần
chúng có vai trò cùng với sự giúp đỡ của giới tinh hoa. Ở một số quốc gia từng
diễn ra các cuộc cách mạng màu, những cuộc cải cách vừa được khởi động đã bị
ngưng hẳn hoặc giảm hẳn, và các tổ chức phi chính phủ sinh ra trong thời cách mạng
đã bị cản trở nghiêm trọng. Ở Iran, năm 2009, phong trào Xanh, tức là phe đối lập
của quần chúng, thách thức giới tinh hoa chính trị và tôn giáo Iran đã thất bại
trong cuộc bầu cử và mất dần động lực. Và tương lai dân chủ ở Ai Cập và các quốc
gia Ả Rập khác là không rõ ràng. Trong khi các chế độ mới, được dân chúng bầu
lên, đứng trước những kì vọng tương đối cao, thách thức lớn và sự chống đối kéo
dài.
Ghi chú ảnh:
Nhà quản lí của Google, Wael Ghonim, sử dụng Facebook và YouTube để giúp tổ chức
các cuộc biểu tình chống chính phủ ở Ai Cập, cho thấy cách thức các cá nhân sử
dụng công nghệ nhằm thách thức giới tinh hoa, cuối cùng dẫn đến thay đổi chính
phủ ở trong nước và quan hệ quốc tế.
Tóm lược lý thuyết Những quan điểm trái
ngược nhau về cá nhân |
||||
|
Chủ nghĩa hiện thực/tân
hiện thực |
Chủ nghĩa tự
do/Thiết chế tân tự do |
Chủ nghĩa cấp tiến/phụ
thuộc |
Chủ nghĩa kiến tạo |
Chính sách đối ngoại |
Bị hệ thống quốc tế
vô chính phủ và quyền lợi quốc gia trói chân trói tay |
Các lựa chọn và
tính cách cá nhân có tác động đáng kể đến quan hệ quốc tế |
Bị hệ thống quốc tế
tư bản chủ nghĩa trói chân trói tay |
Định hình nhận thức
của dân chúng và kết hợp các sự kiện và quy trình |
Cá nhân riêng lẻ |
Hành động của cá
nhân riêng lẻ chỉ có hiệu quả khi có sự kết hợp, như được thể hiện trong quyền
lợi quốc gia |
Vai trò thứ yếu,
nhưng có thể đưa vào ngoại giao nhân dân và có thể tài trợ cho những sáng kiến
quan trọng |
Các nhà tư sản có
thể là những người có ảnh hưởng |
Hành động của các
cá nhân không quan trọng bằng niềm tin |
Quần chúng |
Hành động có thể
được phản ánh trong quyền lợi quốc gia |
Có thể ảnh hưởng tới
quan hệ quốc tế thong qua hành động của quần chúng tạo áp lực lên những người
ban hành quốc định của nhà nước |
Tác nhân của những
thay đổi cách mạng tiềm tàng |
Thông quan các diễn
ngôn, là tác nhân của những thay đổi tiềm tàng |
Tổng
kết: Những quan điểm trái ngược nhau về ảnh hưởng của cá nhân
Những
người theo phái tự do cho rằng, hành động của cá nhân là quan trọng. Các cá
nhân trong giới tinh hoa có thể tạo ra khác biệt: Họ có thể lựa chọn các chính
sách đối ngoại mà mình theo đuổi và do đó, có thể tạo ảnh hưởng lên tiến trình
của các sự kiện. Như vậy là, chúng ta cần chú ý đến tính cách cá nhân và tìm hiểu
cách thức cá nhân đưa ra quyết định, cách họ sử dụng các cơ chế tâm lí khác
nhau để xử lí thông tin và ảnh hưởng của các tiến trình này lên hành vi của
nhóm và cá nhân.Quần
chúng có ý nghĩa quan trọng đối với những người theo phái tự do, vì họ tin rằng công chúng giúp hình thành lợi
ích quốc gia. Những cá nhân riêng lẻ cũng quan trọng, mặc dù rõ ràng là không
quan trọng bằng quần chúng - ngay cả trong tư duy của những người theo phái tự
do. Những người theo phái kiến tạo cũng coi các cá nhân là quan trọng. Các cá
nhân tạo ra bản sắc của tập thể; những người thuộc giới tinh hoa có thể là người
môi giới chính sách quan trọng, có thể dùng tư tưởng để thúc đẩy thay đổi.
Nhưng chỉ trong các trường phái hậu hiện đại và phái kiến tạo trong giai đoạn
gần đây, và đặc biệt là trong trường phái nữ quyền, thì những câu chuyện của những
người riêng lẻ mới được thể hiện một cách rõ ràng.
Những
người theo phái hiện thực và phái cấp tiến không công nhận vai trò độc lập và
quan trọng của các cá nhân trong quan hệ quốc tế. Họ cho rằng các cá nhân trước
hết bị hệ thống quốc tế và nhà nước ràng buộc. Đối với những người theo phái hiện
thực, các cá nhân bị hệ thống quốc tế vô chính phủ và nhà nước - đang tìm cách
làm cho quyền lực hòa hợp với lợi ích quốc gia – trói chân trói tay. Tương tự,
những người theo phái cấp tiến chỉ coi cá nhân là thành viên của một giai cấp,
thường bị giới tinh hoa trong hệ thống tư bản quốc tế và trong nước – do nhu cầu
kinh tế thúc đẩy – dẫn đi sai đường và lừa gạt. Trong cả hai trường hợp, các cá
nhân được cho là không có
tự do đến mức có thể được coi là ở cùng cấp phân tích như hệ thống quốc tế hoặc
quốc gia.
Tự
thân cá nhân và nhà nước đã là quan trọng. Nhưng họ còn lập ra các nhóm và hoạt
động trong cả các tổ chức quốc tế lẫn các tổ chức phi chính phủ - trong khuôn
khổ luật pháp quốc tế. Chúng ta sẽ bàn các chủ đề này trong chương tiếp theo.
Câu
hỏi thảo luận
1.
Các nhà lãnh đạo như cựu tổng thống Mahmoud Ahmadinejad của Iran, Teodoro
Obiang Nguema Mbasogo của Guinea
Xích Đạo, và Kim Jong-Un của Bắc Triều Tiên thường bị gọi là “điên” hay “dở
hơi”. Bạn có thể đưa ra những lời giải thích khác nhau về hành vi của họ?
2.
Bạn là người ban hành quyết định chủ chốt trong một bộ máy quản lí hành chính của
chính phủ. Bạn sẽ áp dụng những chiến lược nào nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của những
nhận thức sai lầm trong quá trình ra quyết định?
3.
Nếu có nhiều phụ nữ giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng trong các vấn đề quốc tế,
liệu các chính sách có khác với hiện nay? Những lý thuyết nào giải thích hành
vi của các nhà lãnh đạo nữ giới tương tự hoặc khác với hành vi của các nhà lãnh
đạo nam giới?
4. Công chúng thường bị các phương tiện truyền thông đại chúng khuấy động và kết
nối với nhau bằng các công nghệ mới. Như thế nào? Chỉ ra cách thức mà Internet,
điện thoại di động và Twitter làm cho quan hệ quốc tế trở thành khác trước.
Hệ thống niềm tin belief system (p. 189),
Nhất quán trong nhận thức cognitive consistency (p. 192)
evoked set (p. 193)Tư duy nhóm groupthink (p. 193)
Hình ảnh phản chiếu mirror images (p. 193)
[1] Robert G. Herman, “Identity,
Norms, and National Security: fte Soviet Foreign Policy Revolution and the End
of the Cold War,” in The Culture of
National Security: Norms and Identity in World Politics, ed. P. J.
Katzenstein (New York: Columbia University Press, 1996), pp. 271–316.
[2] Hans J. Morgenthau, Politics among Nations: The Struggle for
Power and Peace, brief ed., ed. Kenneth W. ftompson (New York: McGraw-Hill,
1993), p. 5.
[3] Quoted in Mijib Marshall, “After
Karzai,” The Atlantic, July/August
2014, 56.
[4] Margaret G. Hermann, “Explaining
Foreign Policy Behavior Using the Personal Characteristics of Political
Leaders,” International Studies Quarterly
24:1 (March 1980): 7–46
[5] Stephen Benedict Dyson,
“Personality and Foreign Policy: Tony Blair’s Iraq Decisions,” Foreign Policy Analysis 2:3 (July 2006):
289.
[6] Betty Glad, “Personality,
Political, and Group Process Variables in Foreign Policy Decision Making: Jimmy
Carter’s Handling of the Iranian Hostage Crisis,” International Political Science Review 10 (1989): 58.
[7] Betty Glad, “Why Tyrants Go Too
Far: Malignant Narcissism and Absolute Power,” Political Psychology 23:1 (2002): 6.
[8] Jerold Post, quoted in Peter
Carlson, “The Son Also Rises,” Washington
Post National Weekly Edition, May 26–June 1, 2003, 10–11.
[9] Ole Holsti, “fte Belief System and
National Images: A Case Study,” Journal
of Conflict Resolution 6 (1962): 244–52.
[10] Harvey Starr, Henry Kissinger: Perceptions of International Politics (Lexington:
University Press of Kentucky, 1984); and Stephen Walker, “The Interface between
Beliefs and Behavior: Henry Kissinger’s Operational Code and the Vietnam War,” Journal of Conflict Resolution 21:1
(March 1977): 129–68.
[11] John Lewis Gaddis, George F. Kennan. An American Life (New
York: Penguin, 2012). See also George F. Kennan and Frank Costigliola, The
Kennan Diaries (New York: W. W. Norton, 2014).
[12] See Niall Ferguson, Kissinger. The Idealist 1923–1958 (New
York: Penguin, 2015).
[13] Irving L. Janis, Victims of Groupthink: A Psychological Study
of Foreign-Policy Decisions and Fiascoes (Boston: Houghton Mifflin, 1972),
p. 9.
[14] Dina Badie, “Groupthink, Iraq, and
the War on Terror: Explaining US Policy Shift Toward Iraq,” Foreign Policy Analysis 6 (2010): 285.
[15] Herbert Simon, “A Behavioral Model
of Rational Choice,” in Models of Man:
Social and Rational Mathematical Essays on Rational Human Behavior in a Social
Setting (New York: John Wiley, 1957).
[16] Robert Jervis, “Hypotheses on
Misperception,” World Politics 20:3
(April 1968): 454–79.
[17] Malala Yousafzai, I Am Malala: The Story of the Girl Who Stood
Up for Education and Was Shot by the Taliban (New York: Little, Brown and
Co., 2013).
[18] David Makovsky, Making Peace with the PLO: The Rabin
Government’s Road to the Oslo Accord (Boulder, CO: Westview, 1996).
[19] Cynthia H. Enloe, Bananas, Beaches, and Bases: Making Feminist
Sense of International Politics (Berkeley: University of California Press,
1990).
[20] Pamela Johnston Conover, Karen A.
Mingst, and Lee Sigelman, “Mirror Images in Americans’ Perceptions of Nations
and Leaders during the Iranian Hostage Crisis,” Journal of Peace Research 17:4 (1980): 325–37.
[21] Swanee Hunt and Cristina Posa,
“Women Waging Peace,” Foreign Policy
124 (March–June 2001): 38–47.
[22] Pew Research Center, Global Attitudes and Trends, Global
Attitudes Survey Q 84 (May 2014).
[23] Johanna McGeary, “fte End of
Milošević,” Time, October 16, 2000,
60.
[24] “Top Global
ftinkers: Mohamed ElBaradei, Wael Ghonim,” Foreign
Policy (December 2011): 36.
No comments:
Post a Comment