November 4, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (7)

 

EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 12

Chủ nghĩa tự do 

           Trao đổi diễn ra và thúc đẩy thịnh vượng, chỉ vì mỗi người đánh giá một khác. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng dàn xếp một cách hòa bình giữa các cá nhân khác nhau, chứ không phải đa số áp đặt ý chí của mình lên mỗi người là điều kiện tốt nhất cho tiến bộ về kinh tế - và tiến bộ về xã hội. 

           Không cần kế hoạch tập trung, xã hội vẫn hoạt động tốt. Tự nhiên đầy những dàn xếp mang tính “tự phát” hoạt động tốt. Thị trường là một trong những dàn xếp như thế, thị trường phối hợp hoạt động của hàng triệu người mà không cần kiểm soát từ trung ương. 

Phần lớn các nhà kinh tế học Trường phái Áo là những người theo phái tự do - theo cách hiểu của châu Âu, chứ không phải theo cách hiểu của Mĩ. Họ tin rằng nếu mọi người được tự do hành động theo lựa chọn của mình, và để cho những người khác cũng tự do làm như thế, thì, nói chung, xã hội sẽ tự điều chỉnh. Trong xã hội như thế, cưỡng ép sẽ là tối thiểu vì tranh chấp phải được giải quyết bằng thỏa thuận, trong khi hợp tác mà các bên đều có lợi là tối đa, nhờ tự do trao đổi tài sản và lao động tư nhân. 

Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo không phải là những người theo phái tự do khi mới bước vào đời, mà đã đến với chủ nghĩa tự do khi họ bắt đầu đưa ra những tư tưởng về kinh tế của mình. Ví dụ, Mises viết rằng, giống như hầu hết các sinh viên khác, ban đầu ông tin là chính phủ cần can thiệp vào kinh tế, cuốn Những nguyên lýlí của kinh tế học (Principles of Economics) của Menger đã biến ông thành người thấy được tầm quan trọng của thị trường tự do và lựa chọn của cá nhân. Tương tự, Hayek nói rằng ông đã tới nghe một trong những bài giảng của Mises, nhưng thấy những bài giảng này ác cảm với quan điểm xã hội chủ nghĩa ôn hòa của mình và không bao giờ tới nghe nữa - những cuộc thảo luận về sau với Mises đã thuyết phục được ông. 

Hàm ý chính trị của Trường phái Áo 

Thuyết cá nhân phương pháp luận của Trường phái Áo không phải là chủ nghĩa cá nhân chính trị, mặc dù nó củng cố lí thuyết này. Quan điểm của Trường phái Áo là các sự kiện của nhân loại được thúc đẩy bởi những hành động của các cá nhân, chỉ có các cá nhân lựa chọn, xã hội, cũng như các thiết chế xã hội không có trí tuệ riêng của mình, độc lập với trí tuệ của những người tạo ra chúng. Do đó, không có cái gọi là “ý chí tập thể” và bất kì nền chính trị nào ăn sâu bén vào ý tưởng đó về cơ bản là sai. Chính trị phải tôn trọng sự kiện là các cá nhân, chứ không phải tập thể, thực hiện quyết định. 

Quan điểm của Trường phái Áo còn nhấn mạnh tầm quan trọng của những khác biệt và sự đa dạng trong sự phát triển của nhân loại. Ví dụ, chính vì người ta có quan điểm khác nhau về giá trị của đồ vật cho nên họ tham gia trao đổi - vì lợi ích của cả hai bên. Hành vi mang tính xã hội mà hai bên đều có lợi không phải là ý chí tập thể của những người thỏa thuận về tất cả mọi thứ, mà là sự dàn xếp qua lại giữa những người không đồng ý với nhau. Nếu mọi người đều có cùng quan điểm về xã hội thì nền chính trị tập thể có thể là khả thi, nhưng thực tế là họ có những quan điểm khác nhau. Do đó, các nhà kinh tế học Trường phái Áo cảm thấy rằng để cho các giải pháp chính trị xuất hiện thông qua dàn xếp hòa bình giữa các cá nhân thì tốt hơn là đa số áp đặt ý chí của họ lên những người khác. 

Thế giới luôn thay đổi của chúng ta liên tục tung ra những vấn đề xã hội và chính trị để cho chúng ta giải quyết. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng chúng ta sẽ có nhiều giải pháp - và là những giải pháp tốt hơn, sáng tạo hơn - nếu năng lượng, óc tưởng tượng, sự tỉnh táo và kiến thức chuyên môn của nhiều người được tham gia giải quyết nhiệm vụ. Trong kinh tế học, đấy là quá trình cạnh tranh, nó cung cấp cho các doanh nhân khác nhau động lực nhằm tìm ra biện pháp mới và tốt hơn trong việc gia tăng giá trị cho người tiêu dùng. Bằng lập luận tương tự, có thể nói các vấn đề xã hội và chính trị của chúng ta cũng có thể được giải quyết một cách tốt nhất, nếu chúng ta cho các cá nhân quyền tự do rộng rãi nhất có thể để người ta đưa ra những phản ứng sáng tạo khác nhau, chứ đừng hi vọng là cách tiếp cận tập thể duy nhất là đủ. 

Sự khác biệt giữa phương pháp của các nhà kinh tế học Trường phái Áo và các nhà kinh tế dòng chính có thể là một yếu tố khác thúc đẩy các nhà kinh tế học Trường phái Áo theo hướng chủ nghĩa cá nhân trong chính trị. Phân tích kinh tế vĩ mô của các nhà kinh tế học dòng chính có thể khiến họ tìm kiếm các giải pháp ở cấp vĩ mô. Ngược lại, thuyết cá nhân luận cho rằng các vấn đề chính liên quan tới từng cá nhân, liên quan tới động cơ và thông tin xung quanh họ, và vì vậy, chính sách phải tập trung chú ý vào bình diện này. Tương tự, sách giáo khoa kinh tế học phúc lợi làm cho các nhà kinh tế học dòng chính tưởng rằng có thể cộng thỏa dụng của những người khác nhau lại với nhau, nghĩa là chính sách đúng đắn có thể tối đa hóa lợi ích của xã hội. Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng thỏa dụng mang tính cá nhân và chủ quan, giống như tình yêu hay nỗi buồn, và do đó, là cái mà chính sách xã hội không thể thao túng được. 

Hòa bình và kế hoạch hóa 

Một lí do quan trọng, giải thích vì sao Mises ưa thích chủ nghĩa tự do - coi đó là thỏa thuận xã hội - ông cảm thấy rằng nó làm giảm khả năng xảy ra chiến tranh và củng cố triển vọng hòa bình. Chính phủ mà lập kế hoạch hoặc can thiệp vào kinh tế thì họ cũng phải bảo vệ, không để nó bị ảnh hưởng bởi các sự kiện kinh tế ở bên ngoài. Ví dụ, các khoản trợ cấp để giữ cho tiền lương và lợi nhuận luôn ở mức cao sẽ phá hoại ngầm, nếu lao động rẻ hoặc hàng giá rẻ có thể tràn vào từ nước ngoài. Vì vậy, phải dựng lên các rào cản mang tính bảo hộ để chống lại các nước khác - làm cho người bên ngoài oán hận và tạo ra căng thẳng. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản tự do giành cho chính phủ vai trò nhỏ hơn rất nhiều và thành công của nó phụ thuộc vào thương mại tự do, chứ không phải phụ thuộc vào chủ nghĩa bảo hộ. Khi hàng hóa và công nhân đi qua biên giới và các nước trở thành phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, chiến tranh trở thành hiện tượng không thể tưởng tượng được. 

Mises cũng bác bỏ chủ nghĩa xã hội trong kinh tế, ông khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội làm cho việc lập kế hoạch kinh tế theo lối duy lí trở thành bất khả thi. Vì các phương tiện sản xuất trở thành sở hữu tập thể, không bao giờ được mua và bán; không bao giờ được định giá. Vì vậy, không có biện pháp tính toán xem liệu các nguồn tài nguyên rất khác nhau có được sử dụng hiệu quả hay không. Nói cách khác, không có sở hữu tư nhân và tự do trao đổi, lập kế hoạch kinh tế theo lối duy lí trở thành bất khả thi. 

Bác bỏ cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa can thiệp, các nhà kinh tế học Trường phái Áo, giống như Mises, ủng hộ chủ nghĩa tự do hay một cái gì đó tương tự, coi đó là hình thức tổ chức xã hội bền vững duy nhất. Tích cực hơn, chủ nghĩa tự do hiểu được những lợi ích của quá trình trao đổi tự nguyện giữa các cá nhân, khuyến khích sự tỉnh táo của doanh nhân và tạo điều kiện cho những kiến thức không đầy đủ, phân tán và mang tính cá nhân được sử dụng một cách hiệu quả trong quá trình ban hành quyết định sản xuất. 

Xã hội tự phát 

Nhiều người cảm thấy khó tin là xã hội hay nền kinh tế có thể tồn tại - chứ chưa nói tới tạo ra và phân phối của cải một cách có tổ chức và hợp lí - mà không cần lập kế hoạch và chính quyền trung ương. 

Hayek giải thích rằng, xã hội và nền kinh tế nhân bản, tự do là ví dụ về trật tự tự phát. Ông chỉ ra rằng, một cái gì đó không được lập kế hoạch từ trung ương không có nghĩa nó là man rợ, nhếch nhác, tuỳ tiện và mất trật tự. Xã hội của ong và mối là rất trật tự, nhưng đấy là những xã hội hầu như không được lập kế hoạch. Tương tự, ngôn ngữ của loài người cũng không bao giờ được ai đó “phát minh ra”, nhưng nó tiến hóa, lớn lên và sống sót, vì nó có ích. Thông luật cũng không được trung ương soạn thảo một cách chi tiết, mà xuất hiện sau khi hết vụ án này đến vụ án khác được giải quyết; tập hợp các tiền lệ mà phát triển lên. Tương tự, chưa có ai lập kế hoạch cho thị trường và hệ thống giá cả, chúng tiến hóa khi con người trao đổi với nhau những món hàng hóa khác nhau. Thị trường và giá cả cũng không cần mệnh lệnh từ trung ương thì mới đứng vững được: Chúng tồn tại và mở rộng mãi ra, vì chúng mang lại lợi ích to lớn cho chúng ta. 

Một số trật tự tự phát còn phức tạp đến nỗi các nhà lập kế hoạch khó hay thậm chí không thể phát minh ra hay quản lí nổi. Thật vậy, người ta thường khó mà giải thích vì sao mà những hệ thống đó hoạt động được. Ví dụ, các quy tắc ngữ pháp làm cho ngôn ngữ của chúng ta có cấu trúc phức tạp đến mức hầu như tất cả mọi người sẽ cảm thấy rất khó mà trình bày nổi. Nhưng khi nói, mọi người vẫn theo các quy tắc ngữ pháp một cách khá tự nhiên. Tương tự, thông luật có rất nhiều điều, nó lớn lên và được bồi đắp thêm qua nhiều thế kỉ; và hầu hết mọi người đều có cảm giác cái gì là “công bằng” hay “bất công”, theo những điều luật này. 

Nói cách khác, có rất nhiều trí tuệ trong các thiết chế này, mặc cho sự kiện là chúng chưa bao giờ được thiết kế và lập kế hoạch một cách có ý thức. Ví dụ, hệ thống giá cả đưa một cách nhanh chóng và hiệu quả các nguồn lực đến nơi chúng có giá trị sử dụng cao nhất, mà chưa từng có ai cố ý phát minh ra nó. Sự kiện là không có kế hoạch từ trung tâm không có nghĩa là “không có kế hoạch” và bất hợp lí. Tất cả chúng ta đều là những người lập hoạch, Hayek nói, theo nghĩa là chúng ta hành động một cách có ý thức nhằm đáp ứng những tham vọng của chúng ta - với những vật tư và thông tin mà chúng ta đang có. Trong trật tự thị trường, trên thực tế, người ta lập ra nhiều kế hoạch hơn, nhiều thông tin đang được sử dụng và được người ta dựa vào đó mà hành động, hơn là trí tuệ duy nhất của bất kì cơ quan trung ương nào. 

Hayek tin rằng những trật tự có ích xuất hiện một cách tự nhiên khi mọi người tuân theo một số quy tắc hành động - hệt như cảm giác thư dãn đầy lí thú và thú vị xuất hiện khi người ta tuân theo một số luật chơi. Trong trật tự thị trường tự do, luật lệ là các nguyên tắc như tôn trọng tài sản cá nhân và quyền giữ hay vứt bỏ nó, không chấp nhận bạo lực và cưỡng chế, người ta có quyền tự do tham gia vào các hợp đồng tự nguyện và tôn trọng những lời hứa kèm theo hợp đồng đó. Thật đáng kinh ngạc là, một vài quy tắc đơn giản như thế của chủ nghĩa tự do, như những quy tắc này, cũng đủ để tạo ra cái mà Rothbard gọi là sự hài hòa “lạ lùng” và sự phối hợp giữa các cá nhân và sự sắp xếp một cách chính xác, nhanh chóng nhằm hướng các nguồn lực đến nơi có thể thoả mãn một cách cao nhất ước muốn của người tiêu dùng. 

Không có kết quả được xác định từ trước 

Những người theo phái tự do tin rằng tuân thủ các nguyên tắc hành động của chủ nghĩa tự do sẽ tạo ra trật tự xã hội tự điều chỉnh, giải quyết được những thách thức về mặt xã hội và kinh tế với khả năng sáng tạo và hiệu quả rất lớn - hơn hẳn trật tự được lập kế hoạch từ trung ương - và phải được công nhận vì lí do đó. Tuy nhiên, không thể biết trước kết quả chính xác mà trật tự xã hội đó tạo ra là gì, cũng như không thể biết trước kết quả của một trò chơi, nếu tất cả mọi người đều tuân thủ luật lệ. Ví dụ, chúng ta không thể biết nó sẽ tạo ra phân phối thu nhập như thế nào, cũng như không biết, tại thời điểm cụ thể nào đó, người nào sẽ được phân phối cái gì. 

Một số người - ví dụ, những người tin vào bình đẳng về thu nhập - coi đây là thiếu sót. Nhưng những người theo chủ nghĩa tự do Trường phái Áo không phải là những người không biết biện hộ. Họ khẳng định, thị trường tự do cung cấp những thứ mà mọi người thực sự muốn và lựa chọn - chứ không phải đưa cho người ta những thứ mà những người có lí tưởng khác nhau muốn tròng lên đầu lên cổ họ. Áp đặt các kết quả xã hội cụ thể cũng tương tự xác định trước ai sẽ giành chiến thắng trong một cuộc chơi: Nó làm cho toàn bộ hoạt động trở thành vô nghĩa và phí công. Nhưng, để cho mọi người tự do là bạn hướng năng lượng và sự sáng tạo của họ vào việc cải thiện cuộc sống cho tất cả mọi người. 

Sự cải thiện liên tục mà thị trường tự do mang lại cho xã hội là lí do nữa, giải thích vì sao các nhà kinh tế học Trường phái Áo ủng hộ thị trường. Vì cạnh tranh không phải là “hoàn hảo”, mà là quá trình khám phá, thị trường tự do khuyến khích người ta làm cho mọi người ngày càng cảm thấy hài lòng hơn bằng cách sản xuất ra những món hàng hoá tốt hơn và rẻ hơn. Trong các xã hội thị trường, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo - như Mises nói, tức là người có thể thưởng thức trứng cá muối chứ không phải trứng cá tuyết - là không đáng kể, nếu so với sự gia tăng quá lớn trong tiêu chuẩn sống mà sự lan truyền của nền văn hoá thị trường đã tạo ra. Ví dụ, ngay cả những người nghèo nhất ở Mĩ hiện nay cũng sống trong những điều kiện mà những người quý tộc thời Trung cổ chưa bao giờ dám mơ - nước nóng chảy trong đường ống, hệ thống vệ sinh, giao thông vận tải, đèn điện và lò sưởi trung tâm, cung cấp thực phẩm ổn định từ khắp nơi trên thế giới, máy móc giúp tiết kiệm sức lao động và nhiều đồ xa xỉ hiện đại khác. 

Thật vậy, nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng, trên thực tế, các xã hội tự do thiết lập được quyền bình đẳng cao hơn các chế độ được lập kế hoạch hay chế độ xã hội chủ nghĩa. Như Hayek nói, người giàu có có thể có tiền mua những món thời trang hay công nghệ mới nhất, nhưng chẳng bao lâu sau, những món hàng xa xỉ này sẽ lan truyền tới tất cả mọi người. Và, trong xã hội tự do, mọi người đều có cơ hội cải thiện cuộc sống của chính mình hơn là trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nơi mà cơ quan lập kế hoạch ở trung ương quyết định địa vị của họ trong cuộc đời. Ở nhiều nước, khoảng cách giữa giới tinh hoa cai trị và các thành viên khác của xã hội là rất lớn - nhất là nếu họ thuộc các chủng tộc, tôn giáo hay phe cánh bị kì thị. Còn trong xã hội tự do, người nào cũng có thể khao khát kiếm tiền, không phụ thuộc vào hoàn cảnh của mình: Làm cho những người khác hài lòng là có tiền. 

Những hạn chế của chủ nghĩa tự do 

Phần lớn các nhà kinh tế học Trường phái Áo, cho đến Mises và Hayek, đều tự coi mình là những người theo phái tự do “cổ điển”. Họ tin rằng tự do phải được mở rộng một cách tối đa, còn cưỡng ép thì phải giảm tới mức tối thiểu và cái đó sẽ tạo ra xã hội năng động, hài hòa, và tự điều chỉnh. Tuy nhiên, để thị trường hoạt động, cần phải có luật lệ (tôn trọng sở hữu và hợp đồng), hệt như lửa cần bếp thì mới cháy đúng cách. Vì vậy, nhà nước có vai trò trong việc thực thi những luật lệ này. 

Một số nhà kinh tế học Trường phái Áo hiện đại có thái độ hoài nghi lớn hơn về việc cần phải có các cơ quan nhà nước. Bắt đầu từ luận cứ của Mises, nói rằng sự can thiệp của chính phủ bao giờ cũng làm cho thị trường mất cân đối, và do đó lôi kéo nguồn lực đi sai chỗ, họ tiến xa đến mức cho rằng bất kì sự can thiệp nào của chính phủ cũng đều làm hỏng kết quả. Ví dụ, Rothbard khăng khăng nói rằng việc in tiền, thậm chí cả cảnh sát và quốc phòng, cũng để cho thị trường cung cấp là tốt nhất, chứ không cần bất kì cơ quan trung ương nào. Rothbard nói rằng, vì chủ nghĩa tư bản hoạt động hiệu quả và tự phát mà không cần lập kế hoạch, kiểm soát, hay hướng dẫn từ trung ương, vì vậy mà cần phải bỏ đi. Đây là cái ông gọi là chủ nghĩa tư bản không chính phủ.

 

Rothbard cũng đem quan điểm của chủ nghĩa tự do áp dụng vào đời sống xã hội, vì cái gì đúng đối với đời sống kinh tế của chúng ta thì cũng phải đúng đối với đời sống xã hội của chúng ta. Lợi ích công cộng được đáp ứng một cách tốt nhất khi những con người tự do hợp tác bằng những thỏa thuận tự nguyện, chứ không phải là khi các cơ quan chính phủ ở rất xa buộc người ta phải sống theo những phong cách cụ thể nào đó - các cơ quan chính quyền, với những đánh giá của chính mình và với thông tin không đầy đủ về giá trị của những người khác và làm sao phục vụ người dân một cách tốt nhất. 

Chương 13 

Phê phán phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo 

           Một số nhà phê bình khẳng định rằng phương pháp cá nhân phương pháp luận khắt khe của Truờng phái Áo quá chật hẹp và có thể sử dụng các mô hình xã hội để giải thích và dự đoán hành vi của các nhóm người. 

           Các nhà phê bình còn khẳng định rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo bôi bác các mô hình của mình, nói cho cùng, đấy chỉ là những khái niệm trừu tượng mà thôi. Họ cũng nhấn mạnh rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo quá hấp tấp khi cho rằng thất bại nào cũng là do sự can thiệp của chính phủ mà ra, và thị trường tự do tạo ra nạn độc quyền và một số vấn đề khác. 

           Hầu hết những lời chỉ trích này đều tập trung vào phương pháp diễn dịch của Mises, mà các nhà kinh tế học dòng chính coi là phi khoa học. 

Chủ nghĩa cá nhân của Trường phái Áo 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi tất cả các hiện tượng kinh tế đều xuất phát từ mục đích và hành động của cá nhân, và bác bỏ ý tưởng cho rằng có các nhóm người, có tư duy hay mục đích, vượt ra ngoài những cá nhân tạo thành nhóm đó. Nhưng các nhà phê bình khẳng định rằng sự vật có thể lớn hơn tổng của các bộ phận của nó. Ví dụ, cơ thể con người không phải chỉ là một tập hợp các tế bào sống - trừ phi hiểu theo nghĩa quá tầm thường. Sự sắp xếp đầy phức tạp của những tế bào này làm nảy sinh hình thức sống khác hoàn toàn. 

Phải có những cách giải thích khác nhau thì mới hiểu được những hình thức sống to lớn hơn này. Khi bị swổ mũi, chúng ta tới gặp bác sĩ, nhưng chúng ta không muốn được nghe giải thích dài dòng, theo lối vi mô, về cách thức hoạt động của các tế bào mũi. Chúng ta muốn nghe lời giải thích ngắn gọn, theo lối vĩ mô, rằng đấy là do nhiễm trùng hay dị ứng, và thuốc kháng sinh hay thuốc chống dị ứng sẽ chữa khỏi bệnh. Để chữa bệnh sổ mũi, chúng ta không cần biết các tế bào hoạt động như thế nào, cũng như để dự đoán việc nở ra của chất khí, các nhà khoa học không cần biết các phân tử hoạt động ra sao. 

Có thể về mặt kĩ thuật, đúng là chỉ các cá nhân chọn. Nhưng nói thế là bỏ qua những lời giải thích vĩ mô hữu ích, như văn hóa, lịch sử, đạo đức và truyền thống - tất cả đều có thể cho chúng ta những hiểu biết thấu triệt về các sự kiện xã hội và kinh tế. Chúng ta có thể nhìn thấy hoa văn trên tấm thảm mà không biết màu sắc của từng sợi len. Tương tự, chúng ta cũng có thể nhận ra - và dự đoán được - quy luật trong các con số kinh tế vĩ mô, trong khi không biết gì về những cá nhân có liên quan. 

Phương pháp khoa học 

Hầu hết các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản đối rằng chúng ta sẽ không bao giờ đoán đúng. Một người trên sao Hỏa có thể thấy các chuyến tàu đầy người cho hành khách xuống sân ga mỗi ngày - và tự tin mà đoán rằng tương lai cũng như thế. Nhưng chẳng bao lâu sau, một buổi sáng, đoàn tàu này không có hành khách nào. Người trên sao Hỏa không hiểu rằng đây không phải là hoạt động của đồng hồ. Đoàn tàu là để phục vụ các mục đích của con người và cái ngày đặc biệt đó trùng với kì nghỉ lễ, mọi người quyết định ở nhà. 

Tuy nhiên, các nhà khoa học có thể đáp lại rằng bất kì dự đoán nào cũng chỉ là dự đoán, và nếu quan sát nhiều hơn người trên sao Hỏa sẽ học được cách dự đoán các ngày lễ với độ chính xác hữu ích, thậm chí không cần biết mục đích của những ngày lễ đó. Đây là con đường tiến lên của khoa học và kiến thức. 

Đối với Mises, khoa học kinh tế là rút ra được những sự kiện từ bản chất của hành động có ý thức, mà ông nghĩ là không thể phủ nhận được (vì phủ nhận nó cũng là hành động có ý thức). Đây là quan điểm thịnh hành trong các nhà kinh tế học Trường phái Áo ở Mĩ, mặc dù những nhà kinh tế học khác thuộc Trường phái Áo cho rằng như thế là thổi phồng quá đáng. Ví dụ, Hayek chấp nhận rằng trong phần lớn môn kinh tế học là truy tìm hàm ý của những sự kiện đã biết, chúng ta vẫn cần phương pháp khoa học chuẩn mực trong quan sát và lập thuyết, đấy là nói nếu chúng ta phải giải thích những sự kiện bất ngờ. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo trung thành với tư tưởng của Hayek tin rằng ít hoặc chẳng có gì là hiển nhiên, và lí luận của con người có thể sai: Nói cho cùng, ngay cả những đệ tử của Mises cũng không đồng ý về nhiều thứ. 

Trường phái Áo và tư duy dòng chính 

Các nhà kinh tế học dòng chính khẳng định rằng Trường phái Áo chế nhạo phương pháp của mình và cường điệu sự khác biệt thực sự giữa họ với nhau. Các nhà kinh tế học dòng chính nhận thức được rằng thỏa dụng là chủ quan, không thể đo lường được và thị trường không bao giờ hoàn hảo: Mô hình của họ chỉ là biện pháp đơn giản hóa hữu ích và để tìm hiểu các khái niệm khó mà thôi. Và các nhà kinh tế học Trường phái Áo có ảo tưởng về thị trường không có bạo lực, trộm cắp hay thuế khóa - cũng là không thực tế, chẳng khác gì quan điểm mà họ chế nhạo. 

Đáp lại, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng các nhà kinh tế học dòng chính dường như đã tạo ra những sai lầm ngớ ngẩn. Mặc dù thỏa dụng hoàn toàn mang tính cá nhân, tương tự niềm vui hay sự xấu hổ, nhưng sách giáo khoa của các nhà kinh tế học dòng chính lại nói rằng có thể đo và cộng “các thỏa dụng” lại với nhau. Và sinh viên của họ cuối cùng sẽ tin rằng có thể làm cho thị trường trở nên hoàn hảo - niềm tin đó sẽ thúc đẩy chính phủ ban hành nhiều chính sách có hại - mặc dù, nếu hoàn hảo, thị trường sẽ không bao giờ hoạt động được, vì sẽ không còn động cơ nữa. Ngược lại, thị trường không bị ép buộc sẽ hoạt động tốt: Đấy là lí tưởng cần phải nhắm tới. 

Bản chất của hành vi 

Một số nhà phê bình, đặc biệt từ cánh Tả, tin rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo đã sai khi coi hành động có ý thức là nền tảng của khoa học kinh tế. Người ta có thể thích một cái gì đó hơn một cái gì đó khác, mà không thể diễn tả được sở thích đó, vì không có cái mà họ thực sự muốn. Hoặc họ bị áp lực phải chọn lựa theo một cách nào đó. Hay hành động của họ có thể không tự nguyện hoặc vô ý thức. Nhiều hoạt động kinh tế được hình thành bởi những rủi ro ngẫu nhiên hay khám phá may mắn. Và hầu hết công việc sản xuất là do những nhóm nhỏ các ông chủ dẫn dắt: Công chúng thường không hành động, mà chỉ đơn giản là phản ứng trước thực tiễn. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng nói thế là lẫn lộn kinh tế học với tâm lí học, với lịch sử và chính trị. Các nhà kinh tế học quan tâm tới cách thức mọi người thực sự lựa chọn giữa các thứ khác nhau - lựa chọn hàm ý hoạt động. Hành động vô thức là vấn đề của các nhà tâm lí học, chứ không phải kinh tế học. Người ta có thể mong muốn những thứ vượt quá khả năng của mình, nhưng đấy cũng là tâm lí học; nó chỉ trở thành kinh tế học khi người ta tiến hành lựa chọn thực sự. Rủi ro có thể ngăn chặn một số lựa chọn, còn khám phá thì lại mở ra những lựa chọn mới, nhưng các nhà kinh tế học chỉ quan tâm đến cách thức người ta lựa chọn: Chọn cái gì lại là vấn đề nằm nhiều hơn trong lĩnh vực của các nhà sử học và các nhà chính trị học. Đúng vậy, các doanh nhân dẫn dắt và chỉ đạo sản xuất; nhưng, ví dụ, vẫn là nông dân hay trở thành công nhân là do cá nhân quyết và quyết một cách có ý thức.

Thị trường và độc quyền 

Một số nhà phê bình khẳng định rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo quá hấp tấp khi cho rằng thất bại nào cũng do sự can thiệp của chính phủ mà ra. Ví dụ, thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô không nhất thiết là do tính bất khả thi của kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa: Những nguyên nhân khác có thể là nạn tham nhũng, thiếu động viên và hệ thống chính trị độc tài. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng, bản thân những vấn đề này chính là kết quả của hệ thống, trong đó các nguồn lực được phân bổ bởi trò chơi quyền lực của chính trị. 

Ngay cả khi bác bỏ kế hoạch hóa tập trung, nhiều người vẫn tin rằng nền kinh tế hỗn hợp sẽ hoạt động hiệu quả nhất: Ví dụ, trao đổi và cạnh tranh tự do (khuyến khích đổi mới và dịch vụ khách hàng), trong khuôn khổ của công tác phối hợp từ trung ương (tránh trùng lặp và đảm bảo rằng tất cả các lựa chọn đều được quan tâm). Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng bất kì sự can thiệp nào của chính phủ đều chắc chắn sẽ đặt các giá trị của một giai tầng chính trị nhỏ bé lên trên các giá trị của toàn thể nhân dân, lên trên sự hợp tác tự do trong thương mại, và do đó làm giảm phúc lợi của con người. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo lên án các chính phủ vì đã tạo ra và duy trì các công ti độc quyền. Các nhà phê bình chấp nhận rằng các chính phủ lớn và tham nhũng có thể tạo ra những công ti độc quyền; các doanh nghiệp lớn và tham nhũng thì cũng thế. Và trên thực tế, họ nói, thị trường không được kiểm soát cũng đầy các công ti độc quyền: Thế kỉ XIX của thời đại tự do kinh doanh đã từng chứng kiến sự xuất hiện của những công ti độc quyền cực kì lớn. 

Đáp lại, các nhà kinh tế học Trường phái Áo khẳng định rằng thị trường cởi mở thì độc quyền không thể sống sót được hoặc là chỉ sống sót trong thời gian ngắn. Ngay cả các công ti độc quyền “tự nhiên” cũng dễ bị tổn thương: Ví dụ, công ti khai khoáng có thể hưởng độc quyền trong việc sản xuất một loại khoáng chất đặc biệt, nhưng, người ta sẽ tìm các phương án thay thế chứ không chịu trả giá độc quyền mãi. Và nếu độc quyền là do quy mô sản xuất thì các công ti lớn cũng luôn luôn bị các công ti lớn khác tấn công và thực ra là các công ti nhỏ hơn sẽ gặm nhấm dần thị trường của họ. Phải có những quy định của chính phủ nhằm bảo vệ các công ti độc quyền thì họ mới tránh được sự cạnh tranh của các công ti khác. 

Chu kì kinh doanh và chu kì tín dụng 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo khẳng định rằng nguồn gốc của các vụ bùng-vỡ là do sự bành trướng tín dụng do chính phủ tạo ra, dẫn đến những khoản đầu tư sai lầm và chỉ có một giải pháp là để cho ảnh hưởng của những sai lầm này tự lắng xuống. Nhưng, nhiều nhà kinh tế học tin rằng khi kinh doanh ngưng trệ, chính phủ phải khuyến khích các khoản đầu tư lớn hơn. Họ nghĩ rằng, làm như thế có thể có nguy cơ là đẩy giá lên, nhưng còn hơn là những xáo động quá lớn về kinh tế. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng vấn đề này chẳng khác gì nghiện ma túy. Tung ra những khoản tín dụng mới tạo ra bùng nổ kinh tế, nhưng bùng nổ chỉ kéo dài khi tín dụng tiếp tục gia tăng. Nếu không có liều ngày càng lớn hơn, không còn những khoản tín dụng mới, thì những khoản đầu tư sai lầm theo sau những khoản tín dụng với lãi suất thấp sẽ phá sản. Trì hoãn chỉ làm xáo động cuối cùng trở thành lớn hơn mà thôi. 

Tiền và lạm phát 

Các nhà kinh tế học dòng chính cũng bất đồng với quan điểm của các nhà kinh tế học Trường phái Áo về bản vị vàng. Tiền hàng hóa (còn gọi là hoá tệ) như vàng sẽ tước đoạt quyền kiểm soát cung tiền ra khỏi tay chính phủ, và có lẽ hạn chế phần nào nguy cơ lạm phát. Nhưng hóa tệ không ngăn ngừa được những vụ bùng vỡ làm thiệt hại cho nền kinh tế. Ví dụ, Mĩ đã trải qua tám giai đoạn suy thoái trong khi sử dụng hóa tệ. Còn tiền giấy, nếu được quản lí một cách phù hợp, có thể được sử dụng để làm nhẹ bớt các vụ bùng-vỡ, và do đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo sợ rằng chính phủ sẽ tìm cách dùng tiền giấy để tạo ra sự bùng nổ số phiếu bầu mà họ nhận được để giành chiến thắng, phớt lờ những hiểm nguy vốn có và hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ sẽ đơn giản là làm gia tăng hiệu ứng này. Mặc dù hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ cho đến nay đã và đang hoạt động hiệu quả, theo nghĩa là các khoản tiền tiết kiệm được đưa vào sản xuất kinh doanh và tạo ra tăng trưởng kinh tế, nhưng nó cũng làm giảm giá trị của đồng tiền và tăng giá. Đến lượt mình, tiền mất giá trong khi hàng hoá tăng giá lại gây ra những quyết định đầu tư sai lầm, có hiệu quả kinh tế kém và mất mát. Tệ hơn nữa, như các sự kiện trong giai đoạn 2008-2009 đã cho thấy, nó khuếch đại một cách khủng khiếp chu kì bùng-vỡ. 

Kết luận 

Những lời chỉ trích Trường phái Áo tập trung chủ yếu vào phương pháp diễn dịch và chủ nghĩa cá nhân triệt để của Mises, Rothbard và các đệ tử của họ (phần lớn là người Mĩ). Tuy nhiên, vẫn còn một loạt các quan điểm nữa trong truyền thống Áo. Các nhà kinh tế học khác thuộc Trường phái Áo chấp nhận rằng tất cả các hành động của con người cuối cùng đều là các cá nhân thực hiện, nhưng những cách giải thích dựa trên các xu hướng văn hóa, kinh tế hay lịch sử chắc chắn sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm. Ví dụ, Hayek chấp nhận quan điểm cho rằng chúng ta có thể phát hiện được các mô thức trong đời sống xã hội và đời sống kinh tế, từ đó có thể đưa ra những dự đoán khoa học đáng tin, ngay cả khi chúng ta không hiểu chính xác những mô thức này xuất hiện như thế nào. 

Nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo còn tin rằng cần phải dùng những bằng chứng rõ ràng của cuộc đời thực để kiểm tra phương pháp diễn dịch, và rằng, nếu chúng ta bắt đầu từ ý tưởng về hành động không bị trộm cắp, gian lận, ép buộc và chính phủ làm cho ô uế thì chúng ta sẽ tiến tới những kết luận không thực tế. Chưa ở đâu và chưa bao giờ có thị trường hoàn toàn tự do, không bị kiểm soát: Thực tế là, như Hayek nói, thị trường thực sự cần luật lệ để hoạt động - luật lệ về tài sản và hợp đồng, ví dụ thế - tương tự lửa ở trong nhà cần bếp thì mới cháy lâu. 

Đối với các nhà kinh tế học Trường phái Áo, như Hayek, cùng với phương pháp diễn dịch, dường như không có lí do để bác bỏ bất kì phương pháp nào, cũng như bác bỏ bất kì sai lệch nào từ lí tưởng mang tính khái niệm thuần túy. Tốt nhất, hãy chỉ ra rằng, mặc cho tất cả các khiếm khuyết không thể tránh khỏi của nó, thị trường có nhiều ưu điểm hơn là khuyết điểm. Hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ và tiền giấy có thể không phải là lí tưởng: Nhưng lợi ích mà chúng mang lại có lớn hơn chi phí bỏ ra hay không? Đối với hầu hết mọi người, trong đó có các nhà kinh tế học Trường phái Áo, câu trả lời cho những câu hỏi như thế phải là bằng chứng và tranh luận, chứ không phải là logic có thể sai lầm của con người.


No comments:

Post a Comment