October 29, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (3)

 

EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 4

Vai trò quan trọng của giá trị 

           Giá trị không phải là tính chất của đồ vật, tương tự kích thước hay trọng lượng của chúng. Những người khác nhau đánh giá các món hàng hoá ở những thời điểm và địa điểm khác nhau một cách khác nhau. Giá trị chỉ tồn tại trong tâm trí của những người liên quan mà thôi. 

           Chúng ta không thể biết được người ta nghĩ gì, nhưng chúng ta có thể có một số ý niệm về thước đo các giá trị của họ bằng cách nhìn vào những thứ họ lựa chọn trên thực tế. 

           Lựa chọn và giá trị không phải là giá trị toán học: Người bị đau đầu không cho rằng 100 viên aspirin thì giá trị gấp 50 lần 2 viên. 

Phương pháp tiếp cận kinh tế học của Trường phái Áo hoàn toàn khác với phương pháp tiếp cận của khoa học tự nhiên - mặc dù các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng đấy là phương pháp rất khoa học. Nó có thể được sử dụng để dự đoán, nhưng đây là những dự đoán theo kiểu khác, chứ không như những dự đoán được đưa ra - hoặc tuyên bố - bởi các nhà khoa học tự nhiên. 

Kinh tế học chắc chắn là phải khác, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, vì kinh tế học liên quan đến các cá nhân; và - khác với các vật thể vô tri vô giác mà các nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu - các cá nhân có động cơ và mục đích riêng của mình, đấy cũng là những thứ làm cho họ có sức sống. Nhà vật lí học khó mà dự đoán được rằng không khí sẽ dãn nở nếu các phân tử trong chất khí đó có cuộc sống của riêng chúng và một số phân tử bắt đầu phàn nàn về cuộc thí nghiệm, trong khi số khác lại hoan nghênh. Tương tự, thật khó dự đoán các số liệu thống kê kinh tế khi động cơ và hành động của cá nhân rất đa dạng, luôn luôn thay đổi và mâu thuẫn với nhau như ta đang thấy. 

Như vậy, “sự kiện” của khoa học kinh tế không phải là những con số thống kê gộp như giá cả, đầu tư, hay tiết kiệm. Thậm chí đấy cũng không phải là kế hoạch tiết kiệm, đầu tư hay giá cả của cá nhân. Những con số này chỉ quan trọng đối với các cá nhân, và sự lựa chọn mà các cá nhân làm. Các “sự kiện” của kinh tế học không phải là đồ vật mà là cái mà người ta nghĩ và tin vào thế giới, cái mà họ kì vọng là sẽ xảy ra và cái gì là quan trọng nhất đối với họ và thúc đẩy họ hành động. Phương pháp tiếp cận này được gọi là chủ nghĩa chủ quan, bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của ý kiến cá nhân, có tính chủ quan so với những thứ khách quan có thể đo đếm được. Theo quan điểm này, kinh tế học là nói về những thứ mà người ta đánh giá cao, và những việc mà họ làm, sau khi đã đưa ra đánh giá. 

Giá trị là ở trong đầu óc người ta chứ không phải trong đồ vật 

Người ta rất hay nhầm lẫn về giá trị, và đã như vậy cả ngàn năm rồi. Nhiều người quan niệm rằng giá trị là các món hàng khác nhau thì có giá trị khác nhau - tức là phẩm chất có thể đo lường được, tương tự khối lượng hay trọng lượng của chúng. Nhưng giá trị không phải là một phẩm chất khách quan nằm trong chính sự vật. Giá trị nằm trong đầu óc của người chứng kiến. Cùng một đồ vật, nhưng những người khác nhau lại đánh giá khác nhau - tương tự những người mua bán trên thị trường chứng khoán, có người nghĩ rằng đó là lúc nên mua, trong khi người khác lại nghĩ rằng đó là lúc nên bán. Giá trị mà chúng ta gán cho nó một cái gì đó là vấn đề đánh giá cá nhân, cảm tính. Nó phản ánh những lợi ích mà chúng ta tin rằng cái đó sẽ mang lại cho chúng ta. Phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và tâm lí của chúng ta - chúng ta có thể đánh giá rất cao một chiếc áo ấm, khi đang có bão tuyết, nhưng khi ở trong sa mạc thì không. Và nó phụ thuộc vào việc niềm tin của chúng ta dựa trên cơ sở kiến thức vững chắc đến mức nào - chúng ta thường đánh giá một cái gì đó quá cao, nhưng lại thất vọng khi đã nắm được nó trong tay. 

Những thứ chúng ta coi là có giá trị cũng thay đổi vì sản phẩm mới và quy trình được cải tiến và công nghệ thay đổi, chuyển ước muốn của chúng ta sang những thứ tốt hơn hoặc rẻ hơn. Kết quả không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được: Mises nói, sản xuất hàng loạt của một món quần áo nào đó có thể làm cho nó trở thành hấp dẫn vì hợp túi tiền đối với những khách hàng nghèo hơn, nhưng lại làm cho những người giàu, có ý thức về thời trang, bỏ loại trang phục này và đi tìm một cái gì đó độc đáo hơn. 

Mặc dù kinh tế học bắt nguồn từ các giá trị của con người, nhưng nó không phải là một nhánh của tâm lí học. Nó không quan tâm tới lí do vì sao người ta đánh giá cao những thứ khác nhau - ví dụ, vì sao họ lại uống rượu - mà chỉ quan tâm tới kết quả những giá trị của những thứ mà họ lựa chọn trên thương trường - như ở nồng độ cồn cần phải có ở mỗi mức giá khác nhau. Kinh tế học phải coi đánh giá và mục đích của các cá nhân là những số liệu “cho trước” vì nó không bao giờ có thể thâm nhập được vào đầu óc của người ta. Thay vào đó, nó chú ý vào hành động của họ - những việc họ làm, như là kết quả của các đánh giá và mục đích của họ. Như Mises mô tả, kinh tế học là một phần của khoa học có tính khái quát hơn về hành vi của con người (mà ông gọi là khoca học về hành vi của con người (nhân hành học) - praxeology). 

Tuy nhiên, nó khác với khoa học tự nhiên, tức là những môn khoa học bắt nguồn từ việc quan sát các sự vật và hiện tượng để đưa ra những lí thuyết có tính dự đoán và kiểm tra những lí thuyết này. Thứ nhất, chúng ta không thể quan sát đánh giá của người ta một cách chính xác vì chúng ta không thể thâm nhập vào đầu óc của họ. Thứ hai, chúng ta không thể kiểm tra các lí thuyết về những việc người ta làm, vì những hoàn cảnh chính xác như thế có thể không bao giờ lặp lại. Thế giới thay đổi liên tục và những giá trị mà người ta coi trọng cũng như động cơ của họ cũng thay đổi. 

Mises gọi kết quả thực sự của tất cả những hành động và tương tác “loạn xà ngầu” này là hành vi kinh tế của con người (catallaxy), vì sợ rằng thuật ngữ thông thường “nền kinh tế” ám chỉ một cái gì đó quá cơ khí, cố ý và được kế hoạch hóa. Và việc nghiên cứu về kinh tế của những kết quả này được ông gọi là catallactics*. (catallactics - bộ môn nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, cũng tức là nghiên cứu việc hình thành giá cả từ những hoạt động trao đổi của con người - ND) 

Bản chất của khoa học kinh tế 

Nhưng, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng kinh tế học là môn khoa học có thể khám phá các sự kiện và thậm chí đưa ra được những dự đoán - không phải trên cơ sở quan sát, lập thuyết và kiểm nghiệm, mà thông qua diễn dịch. Hệt như hình học hay toán học là những môn học xuất phát từ một vài tiên đề đơn giản về đường thẳng hoặc con số, do đó, kinh tế học có thể được diễn dịch từ một vài tiên đề đơn giản về hành vi của con người. Chúng ta biết một số thứ về cách thức người ta chọn để làm cái này hay cái kia, vì chúng ta cũng là những con người. Và từ đó, chúng ta có thể suy ra khá nhiều kiến thức về kinh tế học. Ví dụ, chúng ta có thể phân tích các nguyên tắc của cầu hay giá cả được quyết định như thế nào, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể biết vì sao những người khác nhau lại muốn mua những món hàng hóa khác nhau. 

Tương tự, mặc dù chúng ta không thể biết những thứ mà một người đánh giá cao nhưng từ những lựa chọn của họ trên thực tế chúng ta có thể xây dựng được bức tranh về những đánh giá đó. Khi người ta chọn một đường lối hành động này chứ không chọn đường lối khác, chúng ta có thể có lí do để giả định rằng đó là đường lối mà họ ưa thích hơn, đường lối được họ đánh giá cao hơn. Đối với họ, những việc họ quyết định làm quan trọng hơn là những việc họ quyết định không làm. Khi quan sát người ta tiến hành một loạt lựa chọn, chúng ta có thể xây dựng được một bức tranh về các giá trị mà họ đánh giá cao thông qua những sở thích mà họ tiết lộ ra bằng hành động - đấy là cái mà Mises gọi là sở thích được bộc lộ (). Chúng ta không thể tiếp cận với những đánh giá của họ, nhưng từ những thứ mà người ta lựa chọn trên thực tế, chúng ta có thể suy ra chúng. Và đây là biện pháp mà chúng ta sử dụng để đưa ra các nguyên tắc của kinh tế học, tức là các nguyên tắc của lựa chọn. 

Cách suy nghĩ như thế đã tạo điều kiện cho Carl Menger phát minh ra môn khoa học mới về giá trị và hành động, môn khoa học này có tính cách mạng và hữu ích đến mức hiện nay vẫn còn được sử dụng (và bị lạm dụng) trong những sách giáo khoa về kinh tế học dòng chính - Phân tích lợi ích biên. 

Tính toán để lựa chọn 

Một thứ luôn luôn làm cho các nhà kinh tế học bối rối là vì sao nước - quan trọng như thế với đời sống - lại rất rẻ, trong khi viên kim cương - không cần thiết đối với đời sống - lại quá đắt. Menger có câu trả lời. Các cá nhân không bao giờ phải lựa chọn là sở hữu toàn bộ nước trên thế giới, hay sở hữu tất cả kim cương trên thế giới. Họ chỉ đứng trước những lựa chọn là cần mỗi thứ một ít mà thôi - ví dụ, một cốc nước hay một viên kim cương. Hầu hết mọi người đã có đủ nước để thỏa mãn cơn khát của mình, và do đó họ không đánh giá cao cốc nước mà họ được nhận thêm. Nhưng, ít người tin rằng họ có đủ kim cương, vì vậy, họ sẵn sàng trả nhiều tiền để mua thêm một viên nữa. Họ không nghĩ rằng thêm một cốc nước thì sẽ được thêm nhiều lợi ích, nhưng họ tưởng tượng rằng có thêm một viên kim cương thì sẽ có nhiều cái lợi. Đó là vấn đề được gọi là lợi ích biên - lợi ích mà người ta kì vọng sẽ nhận được khi kho hàng của họ có thêm một ít hàng hóa nữa. 

Tất nhiên, lựa chọn của người ta sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của mình lúc đó. Một người đang chết khát trên sa mạc có thể đánh giá rất cao một cốc nước và sẵn sàng dùng mấy viên kim cương để đổi lấy cốc nước. Một người sống ở đất nước nhiều mưa sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Lợi ích là cái lợi mà một người nào đó kì vọng món hàng nào đó sẽ mang lại cho mình, và như vậy đây là vấn đề đánh giá cá nhân tại địa điểm và thời điểm đó. Một người đang bị đau đầu có thể thích vài viên aspirin, nhưng có thêm một trăm viên nữa cũng chẳng để làm gì. Một người cần mười thanh gỗ để dựng một cái lều (trong ví dụ của Mises) có thể đổi một chiếc áo mưa lấy mười thanh gỗ trở lên, nhưng sẽ không đổi lấy chín thanh, vì không thể dựng được lều để che mưa che nắng. Lợi ích không phải là chất lượng của các đồ vật có thể xếp chồng lên nhau và so sánh như những đống gạch - như những cuốn sách giáo khoa kinh tế học dòng chính thường nói. 

Đây là lí do vì sao các đường bàng quan (indifference curves) cũng làm người ta hiểu sai. Những đường cong này có mục đích là chỉ ra số hàng hóa mà người ta sẵn sàng từ bỏ để đổi lấy món hàng hóa khác. Nhưng tất cả những trao đổi như thế phụ thuộc vào tình cảm của những người liên quan chứ không phải là công thức toán học đơn giản có thể giúp vẽ thành đồ thị trơn tru - như ví dụ về gỗ và áo mưa cho thấy. 

Xin lấy một gia đình nông dân với năm bao tải thóc làm ví dụ - một bao cho người ăn, một bao nuôi gia súc, một bao làm giống, một bao đem bán để mua nhu yếu phẩm, còn một bao thì để nuôi đàn vẹt cảnh. Không may là họ còn phải dùng một bao để trả nợ. Họ có giảm tất cả các khoản xuống một phần năm, như các nhà toán học đề xuất hay không? Không, họ sẽ ăn, sẽ cho gia súc ăn, sẽ làm giống và bán đúng như trước đây và để cho lũ vẹt chết đói, vì nó có giá trị biên thấp nhất đối với họ. 

Lợi ích biên chính là cơ sở để người ta lựa chọn giữa những đường lối hành động khác nhau. Khi đứng trước các lựa chọn kinh tế - bỏ một cái gì đó để được một cái gì khác mà người ta đánh giá cao hơn, họ sẽ bỏ cái gì? Rõ ràng là họ bắt đầu với thứ mà họ coi là ít quan trọng nhất, tức là bỏ thứ mang lại cho họ ít lợi ích nhất, bỏ thứ có lợi ích biên thấp nhất. Họ sẽ chỉ trao đổi khi lợi ích biên của thứ mà họ nhận được lớn hơn lợi ích biên của thứ mà họ từ bỏ. Công nhận sự kiện này là chìa khóa để hiểu cách thức hoạt động của thị trường. 

Chương 5

Giá cả, Chi phí và lợi nhuận 

           Lựa chọn là từ bỏ một cái gì đó để theo đuổi một cái gì đó mà bạn đánh giá cao hơn.

            Chi phí (cái mà bạn từ bỏ khi bạn chọn) và lợi ích (cái mà bạn thu được) vì vậy mà cũng mang tính cá nhân - cũng như lợi nhuận, tức là sự khác biệt giữa lợi ích và chi phí. 

           Người ta trao đổi các đồ vật vì họ đánh giá chúng khác nhau. Giá cả chỉ đơn giản là tỉ lệ mà người ta sẵn sàng trao đổi. 

           Ý tưởng trong những cuốn sách giáo khoa về “cạnh tranh hoàn hảo” về cơ bản là sai: Sự đa dạng và khác biệt chứ không phải sự đơn điệu làm cho thị trường hoạt động. 

Khi suy nghĩ về kinh tế học là người ta nghĩ về người mua và người bán trong các cửa hàng và ở chợ. Nhưng kinh tế học thực ra là nói về những lựa chọn và hành động của con người theo nghĩa rộng nhất, chứ không chỉ nói về những lựa chọn và hành động liên quan tới tiền bạc. 

Tôi có nên nằm nghỉ trên giường hay đi cắt cỏ? Đó là lựa chọn giữa việc nghỉ ngơi và niềm vui là tôi sẽ có một khu vườn được dọn dẹp gọn gàng. Tôi có nên đi chơi với bạn bè hay ở nhà đọc cho xong cuốn sách? Đó là sự lựa chọn về cách chia thời gian của tôi giữa hai việc mà tôi cùng muốn làm. Tôi có nên dùng thời gian rỗi vào việc nấu một bữa ăn ngon hay đi hiến máu? Đó là sự lựa chọn giữa một bữa ăn vui vẻ và cảm giác ấm áp vì tôi sẽ giúp đỡ người khác. Tôi nên đi bộ hay đi xe buýt? Mua áo khoác hay là không? Đi khám bệnh hay là tiếp tục chịu đau họng? Tất cả đều là lựa chọn. 

Hầu hết các lựa chọn hằng ngày của chúng ta là như thế. Không có lựa chọn nào liên quan tới tiền bạc. Nhưng đấy là những lựa chọn “kinh tế” theo nghĩa là để được một cái gì đó thì chúng ta phải từ bỏ một cái gì đó khác. Điều đó làm cho những lựa chọn này giống như các giao dịch trên thương trường, nơi mà chúng ta bỏ tiền để mua món hàng mà chúng ta muốn. Kinh tế học áp dụng được cho cả lựa chọn liên quan tới tiền lẫn lựa chọn không liên quan tới tiền.

 Lựa chọn và hài lòng 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng, khi lựa chọn là chúng ta đang theo đuổi một tình huống được ưa thích hơn so với tình huống không được ưa thích bằng. Khi chúng ta quyết định đi cắt cỏ, đi chơi với bạn bè hay hiến máu là vì chúng ta tin rằng những đường lối hành động này sẽ làm cho chúng ta hài lòng hơn những lựa chọn thay thế khác. Chúng ta có thể sai - ví dụ, trong lúc đi chơi, chúng ta có thể sẽ cãi nhau với bạn bè và ước gì cứ ở nhà - nhưng, chúng ta vẫn tiếp tục theo đuổi kết quả hay mục tiêu đáng mong muốn hơn, đấy chính là cái mà chúng ta kì vọng. 

Từ đó suy ra rằng chúng ta sẽ đặt ưu tiên cho việc theo đuổi những mục tiêu làm cho chúng ta hài lòng nhất. Rất đơn giản, chúng ta thích cái làm cho chúng ta hài lòng hơn là cái làm cho chúng ta không được hài lòng bằng. Vì vậy, chúng ta chọn đường lối hành động mà kết quả sẽ làm cho chúng ta hài lòng nhất. Nói cách khác, chúng ta làm những việc khiến chúng ta hài lòng nhất. Và vì thế, chúng ta đặt ưu tiên là tránh những kết quả mà chúng ta nghĩ rằng sẽ làm cho chúng ta thất vọng nhất; và, do đó, chúng ta hành động để làm giảm bớt sự thất vọng của mình. Các nhà kinh tế học không cần phải biết chính xác người ta coi cái gì làm họ thỏa mãn hay thất vọng. Đấy chỉ là phép diễn dịch theo lối logic mà thôi. Khi chúng tôi chấp nhận rằng người ta hành động nhằm đạt mục tiêu mà họ ưa thích hơn, thì sẽ suy ra rằng họ hành động nhằm tối đa hóa sự hài lòng và làm giảm sự thất vọng của họ. 

Bản chất cá nhân của chi phí 

Nhưng, việc theo đuổi sự hài lòng của chúng ta không phải là đơn giản. Chúng ta thường phải từ bỏ một cái gì đó thì mới có được sự hài lòng. Phải mất chi phí. Không cần phải là chi phí tài chính, và trong nhiều trường hợp đấy không phải là chi phí tài chính. Cắt cỏ làm cho chúng ta mất một ít sức lực. Đọc hết cuốn sách thì chi phí là một buổi tối vui vẻ với bạn bè. Hiến máu, thì chi phí là thời gian mà chúng ta bỏ ra và có lẽ là một chút khó chịu nữa. Khi xem xét liệu có nên theo đuổi mục tiêu nào đó làm chúng ta hài lòng hay không theo đuổi thì chúng ta cũng phải xem xét những chi phí để có thể đạt được mục tiêu đó, đấy là khoảng thời gian hay công sức phải bỏ ra hay đánh mất niềm vui nếu làm những việc khác. 

Và điều thú vị là tất cả những suy nghĩ này đều nằm trong đầu óc của cá nhân. Bãi cỏ gọn gàng không chứa một số lượng hài lòng khách quan, có thể đo lường được, mà bất kì người nào có máy cắt cỏ cũng thu lượm được. Sự hài lòng về một bãi cỏ gọn gàng chỉ có trong đầu óc của những người quan sát nó; một số người có thể đánh giá rất cao, trong khi một số người khác hầu như chẳng thấy nó có giá trị gì. Tương tự, thời gian và sức lực bỏ ra để cắt cỏ không thể đo lường được bằng đơn vị của sự không hài lòng. Một số người có thể đánh giá thời gian của họ cao hơn những người khác, những người yếu có thể cảm thấy bực bội khi phải dùng sức lực hơn là những người khỏe mạnh. Nó phụ thuộc vào mỗi người và những giá trị cụ thể mà họ đánh giá cao. Vì thế, như Wieser đã chỉ ra, lợi ích chỉ xuất hiện trong đầu óc của các cá nhân, chi phí cũng thế. Chi phí và lợi ích không phải là những giá trị có thể đo lường một cách khách quan, mà là những giá trị chủ quan. 

Trên thực tế, những lựa chọn của chúng ta thậm chí không đơn giản vì khi chúng ta chọn theo đuổi mục tiêu được ưa thích hơn thì chúng ta đã phải bỏ một loạt cơ hội khác. Vâng, chúng ta có thể nằm trên giường chứ không đi cắt cỏ. Nhưng chúng ta cũng có thể dọn dẹp nhà cửa, nướng bánh, viết email, dắt chó đi dạo, giải ô chữ và nhiều thứ khác; mỗi thứ sẽ mang lại cho chúng ta một sự hài lòng nào đó. Khi quyết định không làm những việc này và đi cắt cỏ, chúng ta phải từ bỏ những lựa chọn và cơ hội thỏa mãn mà những việc này sẽ mang lại cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta đứng trước điều mà các nhà kinh tế học gọi là chi phí cơ hội. Khi quyết định một đường lối hành động, chúng ta phải xem xét không chỉ thời gian và sức lực để thực hiện, mà còn phải xem xét giá trị của những cơ hội khác mà chúng ta bỏ qua. 

Lợi nhuận cũng mang tính cá nhân 

Kết luận thú vị khác là bản chất của lợi nhuận. Khi nghĩ về lợi nhuận, người ta thường nghĩ đến sự khác biệt giữa số tiền mà doanh nhân phải bỏ ra để có thể mang lại món hàng nào đó ra thị trường và số tiền mặt người đó nhận được sau khi bán hàng. Nhưng một lần nữa, lợi nhuận thực ra không chỉ là tiền. Nó chỉ xuất hiện trong đầu óc của những người liên quan mà thôi. 

Khi đạt được mục tiêu ưa thích hơn - ví dụ, bãi cỏ sạch sẽ và gọn gàng - chúng ta lấy làm hài lòng hay được hưởng lợi. Tất nhiên, cảm giác hài lòng là hoàn toàn cá nhân - hay còn gọi là có tính chủ quan. Tương tự, giá trị của những thứ chúng ta sử dụng để giành được mục tiêu nào đó và giá trị của những cơ hội mà chúng ta bỏ qua, những chi phí đó cũng hoàn toàn mang tính chủ quan. Khi chi phí và lợi ích đều mang tính chủ quan, có nghĩa là sự khác biệt giữa chúng - lợi nhuận (hoặc, nếu không may, bạn bị lỗ) cũng là giá trị chủ quan. Lợi nhuận, một lần nữa, lại nằm trong đầu óc của các cá nhân. 

Tại sao chúng ta trao đổi 

Vì các giá trị, sở thích, lợi ích, sự hài lòng, chi phí, lời và lỗ đều là những phán đoán mang tính cá nhân cho nên chúng ta mới trao đổi với nhau. Nếu mọi thứ đều có một giá trị khách quan cụ thể, có thể đo lường được như kích thước hay trọng lượng của chúng, thì không ai lại trao đổi những mặt hàng “có giá trị cao hơn” để lấy những mặt hàng “ít giá trị hơn”. Nhưng, chúng ta trao đổi mọi thứ. Trẻ em trao đổi những món đồ chơi mà chúng đã chán để lấy những món đồ chơi khác mà chúng muốn. Người lớn làm lợi cho nhau. Chúng ta mua tạp chí bằng tiền mặt, và đến lượt mình người bán báo đem tiền đi mua hàng tạp hóa. Không có món đồ chơi, tờ báo hay món hàng tạp hóa nào được tạo ra trong quá trình này, nhưng tất cả những người liên quan đều cho rằng cuộc sống của mình đã được cải thiện, bởi vì họ đã đổi thứ mà họ có để lấy một thứ gì đó mà họ đánh giá cao hơn, dù đấy có là món đồ chơi, tờ báo hay hàng tạp hóa hoặc tiền mặt thì cũng thế. 

Trong những trao đổi này, không có tí cơ học hay toán học nào hết. Người ta không trao đổi những thứ có “giá trị như nhau”, như một số nhà kinh tế học trước khi Trường phái Áo xuất hiện đã nghĩ. Tại sao họ phải bận tâm tới việc trao đổi? Không: Người ta hứng thú trao đổi các thứ chính là vì họ đánh giá chúng một cách khác nhau. Đứa trẻ nào cũng thích món đồ chơi của đứa kia hơn món đồ chơi của mình. Khách hàng thích tờ tạp chí hơn khoản tiền nhỏ mà họ phải bỏ ra để mua. Người bán báo thích các món tạp hóa hơn số tiền mà anh ta bỏ ra. Thị trường hoạt động - và chỉ hoạt động - vì mỗi người đánh giá những món đồ đó một cách khác nhau. Thật vậy, người ta càng không đồng ý với nhau về giá trị và khoảng cách giữa những đánh giá của họ càng lớn thì lợi ích mà họ nhận được từ cuộc trao đổi sẽ càng nhiều. Mỗi người đều mang cái mà họ hoàn toàn không đánh giá cao để đổi lấy cái mà họ muốn.

 Nguồn gốc của giá 

Chúng ta có thể không bao giờ biết được lợi nhuận mà mỗi bên thu được từ những vụ trao đổi này, vì chúng ta không chui vào đầu óc của họ và đo lường được giá trị của những thứ mà họ coi trọng. Nhưng trong nền kinh tế hiện đại, chí ít, chúng ta cũng có thể nhìn thấy và đo lường được số lượng của một món hàng mà họ sẵn sàng bỏ đi để được nhận một món hàng khác - cụ thể là số tiền, nói ví dụ thế, mà người bán báo đòi cho một tờ tạp chí hay số tiền mà người bán tạp hóa đòi cho món hàng mà họ cung cấp. Chúng ta có thể nhìn thấy tỉ lệ mà người ta sẵn sàng trao đổi với nhau. Và chúng ta gọi tỉ lệ trao đổi giữa tiền và những món đồ đó là giá của chúng. Trong nền kinh tế hàng đổi hàng, giá của món hàng nào đó là tỉ lệ trao đổi của nó với gia súc, vỏ sò hay da động vật. Trong nền kinh tế hiện đại, giá được thể hiện bằng tỉ lệ trao đổi với đồng bảng Anh hay đồng USD hoặc bất cứ đồng nội tệ nào khác. 

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng giá - mặc dù có thể quan sát được một cách rõ ràng - không phải là thước đo giá trị của đồ vật. Giá trị mang tính cá nhân, cảm tính và đa dạng. Giá cả chỉ là tỉ lệ trao đổi, là kết quả của nhiều người đang mua bán tất cả mọi thứ trên thương trường - mua bán xảy ra chỉ vì người ta đánh giá các món hàng hóa một cách khác nhau. Mỗi giao dịch diễn ra chỉ với một giá, nhưng hàm ý hai cách đánh giá trái ngược nhau. 

Thị trường hoàn hảo trong các cuốn sách giáo khoa 

Tất cả những điều vừa nói làm cho quan điểm của Trường phái kinh tế học Áo về các thị trường khác hẳn với cách giải thích trong các cuốn sách giáo khoa. Tất nhiên, mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong sách giáo khoa chỉ là mô hình - đơn giản hóa thế giới thực. Nhưng mô hình, trong đó người mua và người bán được cho là giống hệt nhau thì không phải là đơn giản hóa thế giới thực, mà là chối bỏ hoàn toàn thế giới thực. Thị trường chỉ hoạt động vì người ta là những người khác nhau và có những quan điểm khác nhau về giá trị của các đồ vật. 

Các mô hình trong sách giáo khoa cũng giả định giá cả là đại lượng “có trước”. Nhưng giá cả không phải là đại lượng “cho trước” - giá cả là kết quả của vô số các giao dịch giữa những con người khác nhau, mỗi người lại thay đổi ưu tiên khi thời gian và hoàn cảnh thay đổi. Và giá cả dao động theo. Cũng không có “giá cân bằng”, tức là giá, mà ở đó, thị trường đạt trạng thái cân bằng hoàn hảo, vì hoàn hảo ngụ ý không có lí do để thay đổi. Các mô hình này gây ra hiểu lầm nghiêm trọng vì giả định sai về tất cả mọi thứ làm cho thị trường hoạt động trên thực tế.

No comments:

Post a Comment