(Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
CHƯƠNG 13
Nghi ngờ, hoài
nghi và không tin
Dẫn nhập
Bản ngã/tâm trí nhận thức
được rằng nó dễ bị thái độ thất vọng do lầm lỗi làm cho tổn thương. Trong khi
tìm cách tự bảo vệ mình để không bị tổn thương, nó nghĩ rằng hoài nghi hoặc nghi
ngờ là biện pháp bảo vệ như thế. Dễ tin cũng phản ánh chất lượng của tương tác
giữa cha mẹ và con cái trong những giai đoạn đầu đời. Tình yêu nâng đỡ thái độ tin
tưởng và đức tin, trong khi khắc nghiệt hoặc hờ hững dẫn đến quan niệm tiêu cực
về cuộc đời. Mô thức xử lý thông tin mới xuất hiện dựa trên đánh giá về mức độ
tin cậy, có thể thay đổi từ cả tin ngây thơ đến thách thức mang tính thù địch, đả
phá tín ngưỡng, hay thậm chí là khinh thường phụ nữ.
Vì không thể sống sót nếu
không có ý thức thực tế về thực tại, tâm trí của người trung bình phát triển hệ
thống xử lý dựa trên các giả định và khả năng có thể sử dụng được và tránh những
cực đoan thái quá. Thông qua trải nghiệm, tâm trí trưởng thành, phức tạp nắm giữ
thông tin mới như là thông tin có tính thăm dò hay tạm thời và chờ xác nhận
thêm thông qua bằng chứng hoặc trải nghiệm.
Tính chất bẩm sinh của
quá trình kiểm nghiệm thực tại này là dựa vào các giác quan và quá trình xử lý
trong tâm trí thế giới tuyến tính của hình tướng, cùng với những hình ảnh và
khái niệm của tâm trí đại diện cho thế giới. Phạm vi của hiểu biết và lĩnh hội lại
tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sinh lý não, như đã trình bày, mà sinh lý não lại phụ
thuộc vào tầng của chính ý thức. Như vậy là, kiểu xử lý của bán cầu não trái
thiên về bản năng động vật là do hạn chế của quá trình tiến hóa, nó không thể
hiểu được bối cảnh phi tuyến tính, trong đó có các chiều kích tâm linh. (Các hệ
thống các đường biên não mang tính bản năng có điểm hiệu chỉnh 120). Bán cầu
não trái tìm kiếm nội dung tuyến tính; bán cầu não phải tìm kiếm ý nghĩa và hiểu
biết (nội dung phi tuyến tính).
Do đó, với sự kế thừa thuận
lợi về nghiệp lực/sinh học và năng lực phát triển niềm tin; người ta có thể chấp
nhận bối cảnh tâm linh và hiểu biết phi tuyến tính như là thực tại mà không cần
phải kiểm chứng theo lối chủ quan. Sau đó, thông tin được được lưu giữ như là
niềm tin và được bảo vệ như là sự thật. Ít người hiểu được sự phức tạp của lý
thuyết lượng tử cao cấp, nhưng họ đánh giá cao và chấp nhận thẩm quyền của các
chuyên gia. Vì vậy, người khôn ngoan tin tưởng vào người khôn ngoan hơn, ít nhất
là về mặt trí tuệ và trong hoạt động, và nhờ đó mà cuộc sống của chính họ lại được
nâng cao và được hưởng lợi.
Người
hoài nghi
Trong khi chủ nghĩa
hoài nghi như là thái độ giữ thế thượng phong có thể là kết quả của rối loạn cảm
xúc hoặc nhân cách (ví dụ, khái niệm “thách thức hậu môn” của Freud hay tính
cách nổi loạn “đối lập” chống lại uy quyền của cha mẹ), cũng là thái độ mang
tính trí tuệ ngang ngược (Bauer, 2006), nó có thể phát triển thành cuộc tranh
luận và suy luận dài dòng, chẳng hạn như đang xảy ra trong khoa học về tính xác
thực của trải nghiệm chủ quan và lời khai của “người làm chứng”. Có thể coi mâu
thuẫn này là hệ quả của sự giới hạn về hệ hình.
Giáo sư Charles
Eisenstein của Pennsylvania State University đã tiến hành nghiên cứu chi tiết về
chủ nghĩa hoài nghi (“Trạng thái niềm tin là trạng thái của Hiện hữu”) và chỉ
ra rằng “ảnh hưởng của người làm thí nghiệm” tạo ra vấn đề về sự tín nhiệm
trong khoa học dòng chính, Nguyên lý Bất định Heisenberg đã có tác động lớn đối
với nó. Công trình nghiên cứu của ông tiết lộ rằng, bên dưới thái độ hoài nghi về
trí tuệ được cho là hợp lý, có trường động lực của thái độ và thế giới quan được
che giấu, ác ý, “xấu tính”, thường được thể hiện là “hoang mang, kiêu ngạo,
giáo điều, tự mãn và dễ xúc động”, như những “kẻ vạch trần chuyên nghiệp” thường
thể hiện.
Tất cả những điều vừa
nói được chứng minh bởi những người hoài nghi chuyên nghiệp, họ đã dành nhiều
năm nhằm bác bỏ Einstein (có lẽ ở đây ám chỉ công thức E=MC2- ND)
- thông qua các bài giảng và sách
báo - tất cả đều mô tả Einstein như là kẻ “giả mạo”, “kẻ mạo danh” và “Hoàng đế
cởi truồng”. Mặc dù bị người đời tiếp nhận một cách tiêu cực, các tác giả tiếp
tục công kích mà không hề nản lòng (điểm hiệu chỉnh 190) và dường như mù tịt về
việc quá trình phát triển năng lượng hạt nhân đã xác nhận công thức của Einstein.
Trong tâm thần học, hiện
tượng này được gọi là “rối loạn hoang tưởng về bằng chứng logic” (Muller,
2006), như ta đã thấy trong những niềm tin koểu như “Holocaust chưa bao giờ xảy
ra,” hay “Chính phủ Mỹ tạo ra sự kiện 11/9”. Những người bị chứng rối loạn tâm
thần này coi thế giới là lừa dối, trong khi thế giới quan của người đó là có
giá trị. Như vậy là, rối loạn xuất phát từ thái độ tự cao tự đại, không có lý
trí và được thúc đẩy bởi thái độ đố kỵ và kèm theo là ác ý và bóp méo. Về mặt
hoạt động, đấy là do chức năng não có khiếm khuyết và cho rằng mình là toàn
năng theo lối ái kỷ trẻ con chưa trưởng thành và thái độ thù địch trẻ con đối với
những nhân vật có uy quyền.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, skeptikos là triết lý nói rằng không thể
biết được sự thật và kiến thức là hoàn toàn không chắc chắn (như những đệ tử của
Pyrrho từng tuyên bố). Như Descartes đã chỉ ra, nếu không có trợ giúp, tâm trí
của con người không thể phân biệt được res
cogitans interna (mọi thứ xuất hiện trong tâm trí, chẳng hạn như nhận thức
hoặc ý kiến) với res externa (bản chất,
thực tại). Socrates cũng nhận xét rằng con người tìm kiếm cái tốt nhưng không
thể phân biệt được cái tốt viển vông (vẻ ngoài) với bản chất (cái tốt “thực sự”).
Trong khi đó, về mặt vận
hành, thái độ hoài nghi hợp lý đem lại lợi ích: cho thấy những tuyên bố sai lầm
và ngu ngốc, nhưng chính hoài nghi thường lại là ngu ngốc. Trong quá khứ nó thường
chỉ trích tất cả những khám phá quan trọng, từ chuyến bay của anh em nhà Wright
ở Kittyhawk đến đài phát thanh và hiện nay là trong các ngành khoa học, như y học
và vật lý học, trong đó có thuyết lượng tử. Tất nhiên, đó cũng là truyền thống
(de rigueur- có tính bắt buộc) của những
người hoài nghi, phủ nhận thực tại của hệ hình tâm linh phi tuyến tính của bối
cảnh cũng như chính Thần tính.
Nếu, như thái độ hoài
nghi tin tưởng rằng, không thể biết được sự thật, thì rõ ràng là, những tiền đề
và lập luận của chính nó cũng là sai; do đó, thái độ hoài nghi chính là gậy ông
đập lưng ông.
Một trong những lý do vì
sao tầng sự thật của thái độ hoài nghi lại có điểm hiệu chỉnh thấp, chỉ có 160,
vì nó trước hết là biến thể của Chủ nghĩa hư vô (điểm hiệu chỉnh 120). Thái độ
hoài nghi không phụng sự được mục đích của mình, nó bẩm sinh đã không có các
công cụ để giải quyết hoặc điều tra những thực tại của bối cảnh, đặc biệt là những
bối cảnh có điểm hiệu chỉnh ở các tầng 500, 600 và cao hơn nữa. Ngoài ra, chủ
nghĩa hoài nghi chỉ nói đến nội dung mà không nhận ra rằng giá trị của chính ý
nghĩa hoàn toàn phụ thuộc vào bối cảnh. Đến lượt mình, bối cảnh phản ánh ý định,
như Nguyên lý bất định Heisenberg đã chứng minh và hòa điệu với sức mạnh bên
trong của tầng ý thức của người quan sát.
Trái ngược với ngây thơ
hay hoài nghi, nghiên cứu ý thức không nhằm mục đích chứng minh hay bác bỏ bất
cứ thứ gì; nghiên cứu ý thức là để phân biệt hoặc xác nhận tầng của thông tin mà
tư duy, lý trí hoặc giả định không phát hiện ra được, vì nghiên cứu ý thức nằm
ngoài tri giác và ý kiến. Hiệu chỉnh là khách quan và chỉ đơn giản là đưa ra một
con số, ý nghĩa của con số đó được thể hiện bởi vị trí của nó trên Bản đồ Ý thức
đã được hiệu chỉnh.
Chủ nghĩa hoài nghi bị
giới hạn vì nó phụ thuộc vào miền tư duy tuyến tính, mà chính chủ nghĩa hoài
nghi cho rằng nó là mơ hồ. Mục tiêu của người hoài nghi sẽ được hoàn thành một
cách trọn vẹn hơn nếu họ sử dụng lợi thế của kỹ thuật phi tuyến tính, và bằng
cách đó, có thể xác định được ảnh hưởng sâu sắc của bối cảnh. Tương tự như thế,
người ta không thể sử dụng vật lý Newton hay phép tính vi phân nhằm chứng minh
hay bác bỏ cơ học lượng tử. Chủ nghĩa hoài nghi cần sự giúp đỡ của kiến thức
cao hơn hẳn thì mới bắt kịp với thông tin ngày càng gia tăng, tạo điều kiện cho
người ta truy cập vào hệ hình về thực tại ngày càng mở rộng hơn.
Một điều kỳ quặc khác của
chủ nghĩa hoài nghi là không nhận ra rằng phủ định cái tiêu cực không tạo ra được
cái tích cực, như được chứng minh bằng chiếc hộp nghịch lý cổ điển nổi tiếng: Người
ta làm ra một cái hộp và đặt vào bên trong tờ giấy với dòng chữ: “Tất cả các tuyên
bố trong cái hộp này đều sai”.
Không
có khả năng công nhận sự thật
Không có khả năng công nhận
sự thật có thể là do (1) rối loạn cảm xúc, (2) xung đột về mặt tâm lý, (3) trưởng
thành mà vẫn bị chứng ái kỷ chi phối quá mạnh, hoặc, phổ biến nhất là, (4) đơn
giản là do tầng tiến hóa của ý thức. Như đã được mô tả trong Transcending
the Levels of Consciousness,
chức năng của tâm trí bị chi phối bởi các trường năng lượng điểm hút được gọi
là Tâm trí Thấp hơn (điểm hiệu chỉnh 155) và Tâm trí Cao hơn (điểm hiệu chỉnh
275). Đặc điểm của những kiểu tâm trí này được in lại ở đây.
Chức năng của tâm trí
Tâm trí thấp hơn (điểm hiệu chỉnh 155) Nội dung Cụ thể |
Tâm trí cao hơn Nội dung cộng với trường Điều kiện |
Tích
tụ |
Phát
triển |
Thu
thập |
Thưởng
thức |
Giữ
nguyên |
Tiến
hóa |
Suy
nghĩ |
Quá
trình |
Biểu
hiện |
Hàm
ý |
Thời
gian = hạn chế |
Thời
gian = cơ hội |
Tập
trung vào hiện tại/quá khứ |
Tập
trung vào hiện tại/tương lai |
Bị
cai trị bởi tình cảm/ước muốn |
Bị
cai trị bởi lý trí/cảm hứng |
Đổ lỗi |
Nhận
trách nhiệm |
Cẩu
thả |
Có kỷ
luật |
Cụ
thể, theo nghĩa đen |
Trừu
tượng, tưởng tượng |
Giới
hạn, thời gian, không gian |
Không
giới hạn |
Cá
nhân |
Phi
cá nhân |
Hình
tướng, sự kiện |
Tầm
quan trọng, ý nghĩa |
Tập
trung vào chi tiết |
Tổng
thể |
Ví dụ
chọn lọc |
Phân
loại, dung hợp |
Hận
thù |
Bác
bỏ |
Phản
ứng |
Không
dính chấp |
Thụ
động/hung hăng |
Bảo
vệ |
Nhớ
lại sự kiện |
Đưa
tầm quan trọng vào bối cảnh |
Lập
kế hoạch |
Tạo
ra |
Định
nghĩa |
Bản
chất, ý nghĩa |
Cụ
thể hóa |
Khái
quát hóa |
Chán
ngắt |
Siêu
việt |
Đạo
đức |
Luân
lý |
Ví dụ |
Nguyên
tắc |
Sống
sót về thể xác và tình cảm |
Phát
triển trí tuệ |
Khoái
lạc và thỏa mãn |
Hoàn
thành tiềm năng |
Cực
đoan tôn giáo |
Cân
bằng tâm linh |
Chủ
nghĩa hoài nghi |
Nghiên
cứu tri thức |
Ngây
thơ |
Tinh
tế |
Hiện tượng có ý nghĩa vô
cùng quan trọng là Tâm trí Thấp hơn giữ thế thượng phong trong 55% dân chúng
Hoa Kỳ và khoảng 85% người dân và xã hội trên toàn thế giới. Nền văn hóa và những
người bị Tâm trí Cao hơn và Thấp hơn chi phối có thế giới quan rất khác nhau (“xung
đột”). Thú vị là, sự chênh lệch này không thể hiện bằng tầng IQ, mà thể hiện ở khả
năng phân biệt bản chất với hình thức bên ngoài và thái độ ích kỷ, chỉ biết có
mình.
Có thể mô tả như sau, Tâm
trí Thấp hơn có đặc điểm là chán ngắt, hiểu theo nghĩa đen, trần tục và có xu
hướng hợp lý hóa mang tính chính trị hóa và đao to búa lớn, trong khi Tâm trí Cao
hơn có khả năng phân biệt, trừu tượng, có nguyên tắc, có kỷ luật. Tâm trí Thấp hơn
thường có những cảm xúc tiêu cực, đặc biệt là hận thù. Ngược lại, Tâm trí Cao hơn
có thái độ tích cực hơn, nhân từ hơn và tìm kiếm đồng thuận và tha thứ.
Giá trị mang tính tiên
lượng đáng sợ là Tâm trí Thấp hơn có xu hướng sử dụng lực lượng bên ngòai để thống
trị vì nó gắn liền với bán cầu não trái, xử lý thông tin chẳng khác gì động vật.
Tâm trí Cao hơn tìm cách gây ảnh hưởng bằng những tầng cao hơn: sự thật và lý
trí. Như vậy là, Tâm trí Thấp hơn thường có thái độ hung hăng và thích sử dụng
bạo lực, trong khi Tâm trí Cao hơn thúc đẩy hòa bình và miễn cưỡng phòng thủ
khi bị tấn công. Có thể so sánh với thế giới động vật, động vật ăn cỏ luôn bị những
loài ăn thịt đe dọa tấn công. Trong thế giới ngày nay, động vật ăn thịt đe dọa
tấn công bằng vũ khí hạt nhân, trong khi động vật ăn cỏ thì rụt rè, không thể
quyết định sử dụng hệ thống cảnh báo tên lửa phòng vệ hoặc thậm chí “gọi cái thuổng
là cái thuổng” vì sợ “xúc phạm” người khác.
Bác bỏ
sự thật
Quá trính tiến hóa tâm
linh tương quan với tầng ý thức và do đó, thể hiện sự cân bằng giữa lòng trung
thành với bản ngã và lòng trung thành với sự thật, cân bằng là thực tại tâm
linh. Tầng ý thức có thể hiệu chỉnh được phản ánh sự thống trị của trường điểm hút
năng lượng, kết quả là nó bao gồm một loạt những tùy chọn phù hợp. Như vậy là, thế
giới quan của người nằm trên tầng ý thức khoảng 450 lại bị những người nằm trên
tầng ý thức từ 170 đến 195 coi là sai, đây không chỉ hiện tượng rất phổ biến mà
còn là cốt lõi của những vụ xung đột chính trị-xã hội trong lịch sử nhân loại.
Những tầng ý thức thấp
nhất của con người là các tầng tội phạm, được thể hiện bằng sự kiện là không thể
trì hoãn hay kiểm soát những cơn bốc đồng chẳng khác gì động vật, niềm vui khi
tỏ ra thách thức và không có khả năng học hỏi từ kinh nghiệm. Khiếm khuyết thể
hiện trong việc không có khả năng phân biệt đúng sai, đây là khiếm khuyết mang
tính bẩm sinh và thường là do di truyền. Về mặt lâm sàng, tình trạng này được gọi
là “rối loạn hành vi” hay “rối loạn nhân cách tâm thần”, và chất nền sinh học của
nó thường liên quan tới khuyết tật bẩm sinh của chất xám trong vùng vỏ não trước
trán. Có thể chẩn đoán được ngay từ tuổi lên ba và nói chung, rất khó điều trị
về mặt lâm sàng và không thể sửa được.
Tác giả đã quan sát một
trường hợp như thế trên máy bay, ngay ghế bên cạnh có một bà già để đứa trẻ ngồi
trên đùi của mình. Đứa trẻ liên tục nắm và kéo chiếc vòng cổ đính cườm của bà già,
còn bà ta thì nói, “Không được làm thế” và tát đứa trẻ. Nhưng đứa trẻ vẫn tiếp
tục và kéo nhiều lần nữa, mỗi lần đều bị tát và bị mắng, nhưng nó tiếp tục làm
như thế. Bà giá tát nó và nói “không” hơn một trăm lần trong vòng có một nửa giờ,
nhưng đứa trẻ này dường như không thể dừng lại hay học hỏi từ kinh nghiệm. Những
nhà độc tài và các nhà lãnh đạo của các quốc gia bất hảo là những người thể hiện
rõ ràng nhất việc họ không thể học được gì từ những trải nghiệm tiêu cực, những
người này sẵn sàng hủy diệt hàng loạt đồng bào của mình.
Thái độ ngoan cố và
thách thức không thể kiểm soát được thể hiện trong giai đoạn “hai tuổi khủng
khiếp”, trong đó bản ngã “ông trời con” của đứa trẻ gặp phải sự kiểm soát của
cha mẹ. Cha mẹ có thể không đủ nghị lực hay ý chí để có thể phản hồi một cách
thích hợp, vì vậy mà đứa trẻ không học được biện pháp kiểm soát xung lực và không
thể nhận ra bài học sinh tồn cơ bản về đúng và sai. Nó phù hợp với tầng ý thức
rất thấp, đặc biệt là những người có điểm hiệu chỉnh dưới 90, tức là những kẻ tội
phạm. Tình trạng tương tự cộng với những bài nói tràng giang đại hải mà chúng
ta thấy trong biểu hiện chính trị của nó, gọi là “ái kỷ theo lối cứu thế ác
tính (megalomania), được trình bày trong tác phẩm Truth vs. Falsehood (in lại ở bên dưới) và đấy là đặc điểm của tất
cả các nhà độc tài; họ thường không có lòng nhân từ hoặc thiện chí và do đó,
giành được quyền lực chính trị dựa trên hận thù.
Tính cách của các nhà lãnh đạo chính trị
nguy hiểm
Tàn nhẫn, hời hợt, xảo
quyệt |
Không tôn trọng đời sống
của con người |
Không đánh giá cao sự
thật |
Nói dối thường xuyên
và là tiêu chuẩn |
Sự kiện bị coi là
không liên quan |
Chiến thắng bằng mọi
giá, lợi dụng người khác |
Không có đạo đức hay
luân lý |
Không có các giá trị
tâm linh |
Không có lý tưởng
nhân đạo |
Không quan tâm tới
người khác |
Tự hào khi giành được
kết thúc tốt hơn |
Hả hê trước mánh khóe
bịp bợm thông minh |
Chỉ đánh giá cao
chinh phục, chiến thắng, đánh bại |
Sẵn sàng hy sinh gia
đình, xã hội |
Quỷ quyệt, thông
minh, tàn nhẫn |
Hướng tới quyền lực,
không có giới hạn |
Tham lam được đánh
giá cao |
Cho rằng mọi người đều
đang nói dối |
Không đánh giá cao
tính trung thực |
Chế nhạo kẻ yếu |
Tàn bạo, hung ác |
Vui sướng trước đau
khổ của người khác |
Phát đạt nhờ xung đột |
Không đồng cảm với
nhân loại |
Hòa bình là không
liên quan |
Không có danh dự cá
nhân |
Tự phụ, khoa trương,
bạo ngược |
Vô thần, hám lợi |
Tôn giáo chỉ là
phương tiện |
Muốn báo thù, đố kỵ |
Ghen tỵ, ác tâm, hận
thù |
Ác ý, khắc nghiệt |
Không có khả năng yêu
thương |
Ngôn từ đao to búa lớn,
khoa trương |
Giả vờ trung thực, lừa
dối |
Lợi khẩu và khoa
trương |
Không cảm thấy tội lỗi,
bất lương |
Khinh bỉ phụ nữ và trẻ
con |
Ích kỷ, ngã ái |
Tự phụ, tự coi mình
là trung tâm |
Đưa ra những lời kết
án sai |
Coi người khác cũng
như mình |
Cuốn hút những người ủng
hộ ngây thơ |
Vượt mọi giới hạn của
logic và lý trí |
Có khả năng mắc sai lầm
rất lớn |
Không nhận thức được
hậu quả, phản tác dụng |
Hoang tưởng, cảnh
giác, đề phòng |
Coi binh lính là bia
đỡ đạn |
Cuối cùng phản ứng
quá mức và thất bại |
Kẻ yếu “xứng đáng” với
số phận dành cho họ |
Đối với những người có
thái độ thách thức, sự thật hoặc uy quyền chỉ làm cho họ bực bội vì nó đại diện
cho sự kiểm soát độc đoán của cha mẹ. Nhân cách kém thường coi sự thật chính trực
là đe dọa và do đó, dễ dàng bác bỏ, coi nó là sai lầm.
Mức độ khiếm khuyết ít
hơn tương quan với quan điểm chính trị xã hội được thể hiện dưới dạng thế hệ “tôi”/”nhạy
cảm”. Hiện tượng bất bình thường như thế xuất hiện dưới dạng chú tâm theo lối
gây sự vào “quyền” của chủ nghĩa ái kỷ và chủ nghĩa khoái lạc đã bị thổi phồng
lên. Quan điểm này được thể hiện một cách rõ ràng dưới dạng thế tục, bài tôn
giáo, bài Thiên Chúa và quan điểm xã hội bài-hiện-thực-tâm-linh. Sự ngóc đầu dậy
của các hệ thống triết học (Marxist) của cái gọi là tương đối luận đạo đức “hậu
hiện đại” (điểm hiệu chỉnh từ 160 đến 190) càng hỗ trợ cho những quan điểm này.
Lúc đó sự phồng lên quá mức của bản ngã được thể hiện bằng cách gọi tập hợp những
quan điểm ích kỷ bị thổi phồng này là “cao cấp”, “tinh hoa” hoặc “chính xác”.
Quan trọng nhất là, tập hợp các xu hướng này dẫn đến yếu kém trong việc kiểm nghiệm
thực tại, nó lại được hệ tư tưởng mang tính hàn lâm/dân túy và chính trị xã hội
và ngụy biện chống lưng, tất cả đều khoe khoang là “ngôn luận tự do”.
Quá trình xâm nhập của
những ngôn từ đao to búa lớn đầy thiên vị như thế vào giới hàn lâm đã làm cho
thành tích của giới hàn lâm suy giảm nghiêm trọng, không chỉ “khoan dung” mà
còn ở tôn vinh một loạt bài giảng có điểm hiệu chỉnh 130, hoặc thậm chí thấp hơn,
chỉ ở tầng 90. (Câu hỏi lại được đặt ra: Liệu bạn có muốn một bác sĩ phẫu thuật
não có điểm hiệu chỉnh 90 phẫu thuật cho bạn; hoặc nhân viên tư vấn đầu tư có
điểm hiệu chỉnh 90 giải quyết vấn đề tiền bạc của bạn; hay thậm chí là người giữ
trẻ có điểm hiệu chỉnh 90 chăm sóc con bạn hay không?).
Nghịch lý của quan điểm
chống độc tài và những người ủng hộ nó là chính nó lại cực kỳ độc đoán và toàn
trị, cũng như thù địch và có xu hướng ác ý và căm thù. Những cảm xúc kèm theo
là hệ quả và bẩm sinh của trường điểm hút của các tầng ý thức thấp hơn. Những
cuộc tranh cãi chính trị mà chúng ta từng trải qua như là cuộc đấu tranh gay gắt
để thể hiện lòng trung thành giữa các nhóm dân cư có điểm hiệu chỉnh trên và dưới
tầng ý thức tới hạn 200.
Mục tiêu chính của các
tranh chấp xã hội/chính trị tập trung vào khái niệm đạo đức. Vì vậy, có những
người biện hộ và ủng hộ những tên tội phạm man rợ, những kẻ đã làm cho hàng
ngàn người chết, hay đồng cảm với những tên khủng bố Hồi giáo (cũng làm cho
hàng ngàn người thiệt mạng), hay “quyền” của băng đảng MS-13[1], thành
viên của nó đã tra tấn và giết hại hàng ngàn người.
Sự suy giảm khả năng kiểm
nghiệm thực tại sau khi bị những lời đao to búa lớn của tương đối luận nhồi sọ
tạo ra những hiện tượng kỳ quặc, ví dụ như những người nổi tiếng kéo đàn kéo lũ
tới để bày tỏ thái độ đồng cảm với những kẻ ấu dâm, giết hại trẻ em hoặc những nhà
độc tài bị bệnh tâm thần, giết hại người hàng ngàn đồng bào của mình và thich
thú quan sát cảnh tra tấn tình dục một cách từ từ những phụ nữ bị treo bằng dây
từ trên trần nhà, cố ý làm cho mấy ngày sau họ mới chết.
Có thể không đồng ý với
uy quyền (ví dụ, người bất đồng chính kiến) mà không cần phải có quan điểm ngược
lại, quan điểm ngược lại sẽ đẩy bất đồng rơi vào tầng sai lầm. Tương tự như thế,
tâm từ bi phù hợp hơn hẳn, đấy là nói so với sự hòa điệu với dối trá vì bảo vệ
cái ác sẽ dẫn đến hòa điệu với cái ác. Thực tế là những tên tội phạm loạn trí
không thể không trở thành người mà chúng đang là không có nghĩa là ta phải đồng
ý với chúng.
Khả năng nhận biết thực
tại tâm linh bị suy giảm chủ yếu là do kết quả của công tác tuyên truyền không
ngừng nghỉ và lập trình do các phương tiện truyền thông tiến hành, lại được trợ
giúp bởi tâm trí ngây thơ của người bình thường, dễ bị mê hoặc và có thể bị những
điều dối trá bị thổi phồng và bóp méo lập trình - bóp méo lại khoác áo quan điểm
hợp thời và được ưa chuộng.
Sống
sót về mặt xã hội
Quan trọng là cuộc công
kích dữ dội của những thứ không chính trực được dân chúng ưa thích nhằm tới mục
tiêu là 55% người dân Mỹ có điểm hiệu chỉnh dưới tầng ý thức 200, và lại được
những người này ủng hộ. Tuy nhiên, tầng ý thức của người Mỹ nói chung vẫn có điểm
hiệu chỉnh 421. (Đã từng đạt tới tầng 426, nhưng đã hạ xuống vào mùa thu năm 2006).
Nguyên nhân tạo ra chênh lệch rõ ràng này là những tầng dưới 200, như có thể thấy
khi so sánh hàm số mũ, là những tầng không có năng lượng được bù đắp bằng những
tầng có điểm hiệu chỉnh cao của những người chính trực. Vì vậy, tầng rất cao với
sức mạnh bên trong của chỉ một số tương đối ít người trong toàn bộ dân cư cũng
giữ được khả năng sinh tồn của toàn bộ chỉnh thể và có thể đối trọng thành công
với những tác động tiêu cực. (Ví dụ, nếu 100 người có điểm hiệu chỉnh cao nhất
bị loại ra, thì tầng ý thức trung bình tổng thể của Mỹ giảm xuống chỉ còn 320.
Nếu loại bỏ 1.000 đứng đầu, thì tầng ý thức tổng thể sẽ giảm từ 421 xuống còn 220.)
Bác bỏ thực tại tâm
linh, đạo đức, tính chính trực và sự thật sẽ làm cho nền văn minh trở thành
điêu tàn. Trong khi tầng ý thức tổng thể của nhân loại là 204 (tháng 11 năm
2007), nếu 1.000 người nằm ở những tầng ý thức cao nhất trên thế giới đã bị loại
bỏ, thì tầng ý thức của nhân loại sẽ rơi xuống còn 198. Tâm từ bi dành cho những
người chậm tiến hóa thúc đẩy những nỗ lực không ngừng nghỉ của xã hội trong việc
sửa chữa và giúp đỡ những người kém may mắn hơn trong quá trình tiến hóa. Vì vậy,
cần có tâm từ bi, thái độ chấp nhận và khoan dung thì mới giữ được cho xã hội nằm
trong tạng thái cân bằng và hiệu quả, ở đây bao gồm nhận thức về thực tại xã hội/chính
trị/tôn giáo, chẳng hạn thái độ hân hoan về ngày tận thế của Hồi giáo, hiện có
điểm hiệu chỉnh 60 (tháng 11 năm 2007).
Chủ nghĩa vô thần, thuyết bất khả tri và không có tín ngưỡng
Thái độ nghi ngờ mang
tính trí tuệ đích thực là chính trực ở chỗ nó coi quyết định và niềm tin là
quan trọng và có ý nghĩa. Lý trí sử dụng quá trình xử lý mang tính trí tuệ dựa
trên giả định rằng, thông tin cộng với tư duy logic - thông qua quá trình xử lý
trong tâm trí - có thể dẫn đến sự thật. Cách làm như thế tạo điều kiện cho người
ta có thái độ khoan dung trước tình trạng lưỡng phân và mơ hồ, vốn là kết quả của
trải nghiệm tuyến tính trong quá trình trưởng thành và trí tuệ xuất hiện. Cuối
cùng, người ta phát hiện được rằng chỉ dùng trí tuệ thì không thể trả lời được
tất các câu hỏi có thể được đặt ra (giả thuyết), và do đó, đức tin đồng hành với
tất cả các tầng trong quá trình tiến hóa. Đức tin luôn luôn nằm trong tâm trí,
và do đó, vấn đề chỉ là tin vào cái gì mà thôi.
Cốt lõi của bản ngã ái kỷ
hòa điệu với việc trở thành người “đúng”, “đúng” có nghĩa là đồng ý với trí tuệ
hay bác bỏ nó vì cho rằng nó không có giá trị. Bằng thái độ khiêm tốn, người
tìm kiếm nghiêm túc phát hiện được rằng chỉ có tâm trí, dù có học đến đâu đi nữa
cũng thì cũng không thể giải quyết nan đề: làm sao xác định và xác nhận được sự
thật. Đây là quá trình xác nhận bằng trải nghiệm chủ quan, cũng như bằng những
tiêu chí khách quan, có thể chứng minh được.
Trong khi việc dựa vào uy
quyền thông qua đức tin là đủ cho phần lớn những người tìm kiếm chính trực thực
tại tâm linh và sự thật, nhưng tâm trí có thể vẫn còn tiếp tục nghi ngờ trong một
thời gian dài. Tuy nhiên, quyết tâm tìm kiếm vẫn tiếp tục nhờ những trải nghiệm
chủ quan trong quá trình tiến hóa tâm linh ở bên trong, đấy là kết quả của quá
trình siêu việt các tầng ý thức cộng với việc xác nhận thực tại tâm linh trong thế
giới ngày nay bằng phương pháp hiệu chỉnh ý thức. Sự kết hợp này, cộng với dâng
hiến cho sự thật, coi đó là con đường đến với Thiên Chúa, cuối cùng sẽ giúp người
ta vượt qua những “khối nghi ngờ” to lớn, mang tính kinh điển, bên kia khối
nghi ngờ này sẽ tự nhiên xuất hiện nhận thức và mặc khải. Tất cả nghi ngờ đều
xuất phát từ tự ngã và sẽ bị hòa tan vào Thực tại bao trùm của Đại ngã, nhờ đó,
cuối cùng người đó đã trở về nhà, thật bình yên vì không còn hồ nghi gì nữa.
Tâm trí không thể chứng
minh được một mệnh đề nào đó, không có nghĩa là mệnh đề đó sai. Đây là cạm bẫy
của những người vô thần, vì tâm trí không thể biết được sự thật. Đồng thời cũng
không thể bác bỏ nó, vì nếu bác bỏ nó sẽ rơi vào nghịch lý là phải chứng minh
điều ngược lại. Cốt lõi ái kỷ của bản ngã, do vô thức và ngây thơ, mà cho rằng nó
là toàn năng và do đó, không có thái độ khiêm tốn cần thiết để có thể vươn tới
Chân lý cao hơn. Thú vị là, những người vô thần không thể sử dụng kỹ thuật hiệu
chỉnh ý thức để phủ nhận Thiên Chúa cũng có nghĩa là phủ nhận Sự Thật.
Trong khi chủ nghĩa vô
thần có điểm hiệu chỉnh ý thức 190, thì thuyết bất khả tri có điểm hiệu chỉnh
200, nó phức tạp hơn, hòa điệu hơn với thực tại, và chỉ thừa nhận rằng bản thân
trí tuệ không thể giải đáp được câu hỏi về sự tồn tại thực tế của Thiên Chúa.
Thuyết bất khả tri có điểm hiệu chỉnh cao hơn thuyết hoài nghi, vì nó không có
thái độ mang tính cảm xúc tiêu cực trong khi chống lại Sự thật. Nó chỉ tuyên bố
một cách khiêm tốn rằng trí tuệ không có khả năng tìm được câu trả lời thỏa
đáng. Hạn chế của thuyết bất khả tri là dùng trí tuệ để tìm câu trả lời cho những
vấn đề không thể giải quyết được ở tầng trí tuệ.
Thuyết bất khả tri và
thuyết vô thần cũng có thể tương thích với tuổi tác và có xu hướng giảm dần cùng
với sự trưởng thành về mặt cảm xúc, từng trải hơn. Lúc đó người ta tìm kiếm sự
thật không phải chỉ ở chiều tuyến tính của nội dung, mà còn tìm trong địa hạt bối
cảnh phi tuyến tính, mở rộng khả năng nhận thức Sự Thật. Trong nhiều lĩnh vực của
đời sống, suy đoán được thay thế bằng thái độ tự tin và mở rộng năng lực nhận
thức về những chiều kích cao hơn, chúng tự bộc lộ thông qua mặc khải chứ không
thông qua quá trình xử lý tuyến tính.
Nghi ngờ và không tin
thường là điềm báo, nói rằng sẽ có những bước nhảy vọt trong ý thức, nó có thể xuất
phát từ việc tái khởi động vì thất vọng, tai họa, hoặc chỉ đơn giản là trưởng
thành và trí tuệ xuất hiện. Nhiều người đã nhận xét về hiện tượng như thế, ngay
cả các thánh nhân, những người đã từng trải qua những trải nghiệm có tính cải hóa,
trong đó có cả những điều kỳ diệu. Con đường như thế có thể liên quan đến việc
thảm họa làm cho người ta mất niềm tin tôn giáo đã có từ thời thơ ấu, sau đó là
những năm tháng tìm kiếm sự thật có thể xác nhận được. Quá trình khám phá bên
trong có thể được đẩy nhanh bằng thiền định mà không cần hệ thống niềm tin liên
quan nào. Vì vậy, đối với người không có niềm tin, Phật giáo thường có tính thực
tế và hấp dẫn, như Đức Phật đã dạy về Bát Chánh Đạo không cần niềm tin vào “Chúa”.
Một con đường khác
thích hợp cho những người không có niềm tin là kinh Vedas và Upanishads có từ
thời cổ đại, hai tác phẩm này đã dự đoán trước về việc phát hiện được cơ học lượng
tử. Hai cuốn Kinh này cũng nói về Thực tại Tối hậu của Nguyên lý Tuyệt đối và trường
vô biên vô tế của chính ý thức, như là Thực tại nguyên thủy, nằm bên ngoài vọng
tưởng của tri giác cũng như tư duy. Con đường Advaita (bất nhị) là con đường
nguyên sơ dành cho quá trình tìm kiếm chính trực Sự thật, bác bỏ tất cả các hệ
thống niềm tin. Con đường này đã được trình bày chi tiết trong các tác phẩm xuất
bản trước đây. Mặc dù bất nhị dẫn đến sự Chứng ngộ, việc nghiên cứu kinh Vedanta có thể dẫn đến sự tham gia quá sâu
vào các trường phái triết học khác nhau của Ấn Độ, có thể trở thành hệ thống niềm
tin làm cho người ta bối rối.
Đối với những người
hoài nghi/không tin tưởng, việc tìm kiếm bản chất của ý thức là con đường và
phương pháp nguyên sơ nhất, vì nó bỏ qua tất cả các hệ thống niềm tin và chỉ đòi
hỏi thái độ tò mò và chân thành chính trực.
Tất cả những mô tả của
tâm trí (tuyến tính) về sự thật tâm linh/tôn giáo đều có thể bị vô hiệu hóa, dẫn
đến tranh luận và tranh chấp. Ngược lại, chính ý thức (phi tuyến tính) nằm
ngoài định nghĩa hoặc mô tả và do đó không thể bị hoài nghi, nghi ngờ, hoặc
không tin.
Nghiên cứu bản chất của
ý thức dẫn trực tiếp đến cội nguồn của Chiếu sáng, vì Ánh sáng của Ý thức là điều
kiện của Chứng ngộ. Do Ánh sáng của nó, Người biết và Cái được biết hợp nhất
trong Nhận thức về Đại ngã như là Thiên Chúa Thường Hằng
[1] Mara Salvatrucha là một băng đảng
tội phạm lớn hoạt động trên khắp thế giới. Tên của băng đảng thường được viết tắt
là MS-13, Mara, MS chủ yếu là những người En Xanvađo. Băng đảng MS-13 có đồng bọn,
hoặc bè phái ở khắp nơi trên nước Mỹ nhưng vẫn giữ hoạt động chặt chẽ tại En
Xanvađo. Năm 2005, cơ quan FBI tuyên bố rằng Mara Salvatrucha được coi là băng
đảng tội phạm nguy hiểm nhất không chỉ trên đất nước Mỹ mà còn trên toàn thế giới.
Số thành viên tổng cộng chừng trên 50.000 ở Mỹ. Hoạt động tội phạm của chúng
bao gồm buôn lậu và bán thuốc phiện, bán súng nơi chợ đen, giết người thuê,
buôn người, cướp và hãm hiếp phụ nữ - ND.
No comments:
Post a Comment