July 3, 2020

Đường về nô lệ (13)


X. Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo lên cao nhất?


Quyền lực dẫn đến tha hoá, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hoá tuyệt đối

Lord Acton

Bây giờ chúng ta phải xem xét niềm tin làm chỗ dựa cho những người cho rằng chế độ toàn trị là tất yếu; nó làm suy sụp sức kháng cự của nhiều người khác, những người sẽ chiến đấu một mất một còn với nó nếu họ hiểu được bản chất của nó. Đấy là niềm tin cho rằng các đặc điểm kinh tởm nhất của các chế độ toàn trị xảy ra là do sự ngẫu nhiên của lịch sử, ở đâu cũng đều do những người đê tiện và lưu manh thiết lập nên. Và nếu, thí dụ, ở Đức, những người như Streicher và Killinger, Ley và Heine, Himler và Heydrich nắm được quyền lực, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng người Đức là một dân tộc xấu xa chứ không phải việc nổi lên của những kẻ như thế là kết quả tất yếu của hệ thống toàn trị. Vì sao hệ thống kiểu này – nếu nó muốn thực hiện những mục tiêu quan trọng – lại không thể được lãnh đạo bởi những người tử tế, luôn luôn vì lợi ích của cộng đồng? 

Chúng ta chớ có tự dối lòng, không phải cứ người tốt là dân chủ và không phải tất cả người tốt đều muốn tham gia quản lý nhà nước. Không nghi ngờ gì rằng, nhiều người thích giao việc đó cho những người mà họ cho là có hiểu biết hơn. Mặc dù, nghe có vẻ không hợp lý lắm, nhưng không có gì sai hay nhục nhã khi ủng hộ chế độ độc tài do những người tốt cầm quyền. Chế độ toàn trị, là một hệ thống hữu hiệu, nó có thể làm cả việc tốt lẫn việc xấu, tất cả phụ thuộc vào nhà độc tài, chúng ta có thể đã từng nghe người ta khẳng định như thế. Và những người cho rằng không cần sợ hệ thống, mà chỉ sợ nguy cơ là hệ thống bị những người lãnh đạo không ra gì điều khiển, thậm chí có thể còn muốn chặn đứng nguy cơ này bằng cách khi thời cơ đến phải làm sao để quyền lực rơi vào tay những người tốt là được.

 

Không nghi ngờ gì rằng hệ thống “phát xít” ở Anh hay ở Mỹ sẽ khác rất xa mô hình của Ý hay Đức; không nghi ngờ gì rằng nếu việc chuyển hoá được thực hiện một cách phi bạo lực thì chúng ta có thể hy vọng có được những nhà lãnh đạo tử tế hơn. Và nếu một lúc nào đó số phận buộc tôi phải sống dưới chế độ phát xít thì tôi sẽ thích chế độ phát xít do người Anh hay người Mỹ đứng đầu hơn bất kì người đứng đầu nào khác. Nhưng, xét theo tiêu chuẩn hiện nay thì điều đó cũng không có nghĩa là hệ thống phát xít của chúng ta sẽ hoàn toàn khác hay sẽ dễ chịu hơn nguyên mẫu của chúng. Có đầy đủ lý do để tin rằng những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên mà là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra. Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế thì ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa chọn: chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ kế hoạch, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì chẳng bao lâu sau sẽ phải lựa chọn giữa giẫm đạp lên đạo đức truyền thống hay thất bại. Đấy là lý do vì sao trong các xã hội có khuynh hướng toàn trị những kẻ vô đạo đức, những kẻ coi trời bằng vung thường dễ thành công hơn. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được rằng đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng của chủ nghĩa cá nhân của nền văn minh phương Tây.

“Cơ sở đạo đức của chủ nghĩa tập thể” đã từng là đề tài của nhiều cuộc thảo luận, nhưng điều chúng ta quan tâm ở đây không phải là cơ sở đạo đức của nó mà là những kết quả đạo đức của nó. Các cuộc thảo luận về khía cạnh đạo đức của chủ nghĩa tập thể thường bàn vấn đề là liệu chủ nghĩa tập thể và các nguyên tắc đạo đức hiện hành có tương thích với nhau hay không hay là muốn cho chủ nghĩa tập thể thực hiện được những điều mà người ta kỳ vọng thì cần phải có những nguyên tắc đạo đức mới. Nhưng câu hỏi của chúng ta là, tổ chức xã hội theo lối tập thể sẽ đưa đến những nguyên tắc đạo đức nào hay quan điểm đạo đức nào sẽ ngự trị? Tác động tương hỗ giữa đạo đức và các thiết chế xã hội có thể dẫn đến hệ quả là đạo đức do chủ nghĩa tập thể tạo ra có thể sẽ khác hoàn toàn với những lý tưởng đạo đức đã từng làm cho người ta thấy cần phải có chủ nghĩa tập thể. Trong khi chúng ta thường nghĩ rằng nếu lòng khao khát chủ nghĩa tập thể của chúng ta bắt nguồn từ những động cơ đạo đức cao thượng thì hệ thống đó phải là nơi vun trồng phẩm hạnh, nhưng trên thực tế, chẳng có lý do gì để một hệ thống phải đề cao những phẩm chất nhằm phục vụ cho các mục tiêu mà người ta dự kiến cho nó. Quan điểm đạo đức ngự trị sẽ phụ thuộc một phần vào những phẩm chất có thể dẫn các cá nhân đến thành công trong hệ thống toàn trị hay hệ thống tập thể và phụ thuộc một phần vào đòi hỏi của bộ máy toàn trị.
* * *
Xin quay lại trong chốc lát với tình hình trước khi diễn ra việc đàn áp các thiết chế dân chủ và thiết lập chế độ toàn trị. Đấy là lúc sự bất mãn của toàn dân đối với chính phủ, một chính phủ vừa chậm chạp, vừa thụ động, bị trói chân trói tay vì các thủ tục dân chủ rắc rối, hành động chỉ để hành động; người ta đòi hỏi chính phủ hành động mau lẹ và quyết đoán. Trong tình hình như thế, một chính khách hay một đảng tỏ ra mạnh mẽ và sẵn sàng “hành động sẽ là người có sức hấp dẫn nhất đối với quần chúng. “Mạnh mẽ” ở đây hoàn toàn không có nghĩa là nắm được đa số - chính sự bất lực của đa số trong quốc hội đã làm người ta bất mãn. Điều quan trọng là người cầm đầu có được hậu thuẫn mạnh mẽ, một sự hậu thuẫn cho người ta cảm tưởng rằng ông sẽ thực hiện được mọi điều ông ta muốn. Đảng kiểu mới, được tổ chức theo lối nhà binh, xuất hiện trên cái vũ đài chính trị như thế đấy. 

Tại các nước thuộc khu vực Trung Âu, nhờ nỗ lực của những người xã hội chủ nghĩa mà quần chúng đã quen với những tổ chức chính trị theo kiểu nhà binh, những tổ chức tìm mọi cách quản lý đời sống riêng tư của tất cả các thành viên của nó. Vì vậy, nếu một nhóm nào đó muốn chiếm đoạt quyền lực không hạn chế thì nó phải sử dụng nguyên tắc này, rồi tiến xa thêm và dựa không phải vào lá phiếu của những người ủng hộ trong những cuộc bầu cử thỉnh thoảng mới được tiến hành, mà phải dựa vào sự ủng hộ tuyệt đối và vô điều kiện của một tổ chức, không cần phải lớn nhưng được tổ chức tốt. Khả năng thiết lập chế độ toàn trị trên cả nước phần lớn phụ thuộc vào khả năng tập hợp xung quanh lãnh tụ một nhóm những kẻ tự nguyện phục tùng cái kỷ luật toàn trị mà họ sẽ dùng vũ lực áp đặt lên toàn thể nhân dân. 

Mặc dù các đảng xã hội chủ nghĩa là những đảng khá mạnh, nếu quyết định sử dụng bạo lực thì họ có thể giành được tất cả những thứ mà họ muốn, nhưng họ đã dao động. Chính họ cũng không ngờ rằng đã tự đặt ra cho mình nhiệm vụ mà chỉ có những kẻ tàn nhẫn, nhũng kẻ sẵn sàng bước qua mọi rào cản về đạo đức mới có thể thực hiện được. 

Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa phản đối, đấy chính là bài học mà nhiều nhà cải cách xã hội trong quá khứ đã học được. Các đảng xã hội chủ nghĩa thời xưa hoạt động trong khuôn khổ của các lý tưởng dân chủ; họ không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi các nhiệm vụ mà họ đã chọn. Điều đặc biệt là cả ở Đức lẫn ở Ý, chủ nghĩa phát xít đã thành công sau khi các đảng xã hội chủ nghĩa từ chối nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo chính phủ. Họ vẫn hy vọng vào phép màu rằng, đa số sẽ đồng ý về một kế hoạch tổ chức toàn bộ xã hội, nhưng những người khác thì đã học được bài học rằng trong xã hội được kế hoạch hoá vấn đề không còn là đa số sẽ đồng ý mà là nhóm lớn nhất là nhóm nào, chỉ cần các thành viên của nó đồng ý là đủ để hình thành đường lối thống nhất cho tất cả mọi công việc hoặc nếu chưa có một nhóm như thế thì ai và làm thế nào để thành lập ra một nhóm như thế. 

Có ba lý do chính, giải thích vì sao cái nhóm đông và mạnh, với những thành viên có quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội. Theo tiêu chuẩn của chúng ta, cái nhóm như thế chỉ có thể hình thành trên những nguyên lý hoàn toàn mang tính tiêu cực.     

Thứ nhất, có khả năng là, nói chung, những người có trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm càng phân hoá và khó có thể thống nhất về bất cứ thang giá trị cụ thể nào. Kết quả tất yếu là, muốn tìm thấy thống nhất cao và tương đồng về quan điểm thì chúng ta phải tìm trong những tầng lớp xã hội với tiêu chuẩn đạo đức và tri thức không cao, nơi thị hiếu và bản năng nguyên thuỷ và thô lậu giữ thế thượng phong. Điều đó không có nghĩa là đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp; nó chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực giá trị giống nhau là những người có tiêu chuẩn đạo đức không cao. Có thể nói chính cái mẫu số chung đạo đức cực kì thấp đã liên kết rất nhiều người lại với nhau. Nếu cần tìm một nhóm tương đối đông và đủ mạnh, để buộc những người khác phải chấp nhận các quan điểm và giá trị của mình thì không bao giờ chúng ta tìm tới những người có thị hiếu phát triển cao và phân hoá một cách sâu sắc - chúng ta sẽ tìm đến “quần chúng”, với ý nghĩa tiêu cực của từ này, tìm đến những người kém độc đáo nhất và ít độc lập nhất, những người có thể dùng số lượng làm bệ đỡ cho lý tưởng của họ. 

Nhưng, nếu nhà độc tài tương lai chỉ dựa vào những người có những bản năng đơn giản và nguyên thủy thì số người như thế sẽ không thể đủ để thực hiện nhiệm vụ đặt ra. Hắn sẽ phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng tín điều đơn giản của hắn.
Tiêu chuẩn chọn lựa tiêu cực thứ hai: Hắn phải tìm được sự ủng hộ của những kẻ dễ bảo và cả tin, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có, miễn là được rót vào tai họ một cách ồn ào và liên tục. Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào lại là thành phần đông nhất của các đảng toàn trị.
 
Thành tố thứ ba, và có lẽ là thành tố tiêu cực quan trọng nhất để một kẻ mị dân lão luyện có thể tập họp quanh mình một nhóm cố kết những người ủng hộ. Dường như bản chất của con người là dễ dàng đồng thuận trên cơ sở một cương lĩnh mang tính tiêu cực - chí căm thù giặc, lòng ghen tức với những kẻ khá giả - hơn là trên cơ sở một nhiệm vụ mang tính tích cực. Do đó, sự tương phản giữa “chúng ta” và “chúng nó”, cuộc chiến đấu chống lại những kẻ nằm bên ngoài tổ chức dường như là chất kết dính chủ yếu trong mọi giáo lý, chính nó sẽ gắn chặt người ta thành một nhóm cho những hành động chung. Những kẻ cầm đầu muốn săn tìm không chỉ sự ủng hộ về mặt chính trị mà còn săn tìm lòng trung thành vô điều kiện của quần chúng đã cố tình lợi dụng cái phần tiêu cực đó. Theo họ, các cương lĩnh tiêu cực có ưu điểm là dành cho họ quyền tự do hành động hơn bất kì cương lĩnh tích cực nào. Kẻ thù, bất kể ở bên trong như “Do Thái” ở Đức hay “kulak” ở Nga, hay bên ngoài – là một trong những phương tiện thiết yếu trong kho vũ khí của lãnh tụ toàn trị. 

Việc người Do Thái ở Đức bị tuyên bố là kẻ thù trước khi các nhà tài phiệt thế chỗ cho họ cũng chỉ là kết quả của xu hướng bài tư bản của phong trào, chẳng khác gì việc chọn tầng lớp phú nông (kulak) ở Nga. Ở Đức và Áo, người Do Thái bị coi là đại diện của chủ nghĩa tư bản vì sự thù địch thâm căn cố đế của quần chúng đối với thương nghiệp đã làm cho lĩnh vực này trở dễ thâm nhập hơn đối với những nhóm người không có quyền lựa chọn những nghề cao qúy hơn. Đây là câu chuyện cũ về các sắc dân ngụ cư: Họ chỉ được làm những nghề hèn mọn và thế là người ta càng căm ghét vì họ làm những nghề đó. Chủ nghĩa bài Do Thái và bài tư bản ở Đức có cùng một nguồn gốc là sự kiện cực kì quan trọng, nó giúp ta hiểu được các sự việc đang diễn ra trên đất nước này; nhưng nói chung, những người quan sát nước ngoài đã không nhận ra điều đó. 

* * *
Coi khuynh hướng biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa dân tộc đang diễn ra khắp nơi chỉ là do người ta muốn nhận được sự ủng hộ dứt khoát của những tầng lớp xã hội nhất định nào đó là bỏ sót một tác nhân không kém phần quan trọng. Thật vậy, người ta có thể hỏi rằng liệu có người nào tưởng tượng nổi một cương lĩnh của chủ nghĩa tập thể mà không nhằm phục vụ cho một nhóm hạn chế nào đó hay không, liệu chủ nghĩa tập thể có thể tồn tại dưới một hình thức nào khác ngoài hình thức của một chủ nghĩa phân lập (particularism) nào đó hay không, thí dụ như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay là chủ nghĩa giai cấp. Niềm tin rằng các thành viên trong cộng đồng cùng có chung mục đích và quyền lợi làm người ta dễ dàng thống nhất về quan điểm và tư tưởng hơn là những người bình thường khác. Và nếu không biết mặt tất cả các thành viên của nhóm thì ít nhất chúng ta cũng phải tin rằng họ giống những người xung quanh ta, họ nói và nghĩ theo cùng một cách và về cùng những thứ như ta, thì ta mới có thể đồng nhất mình với họ. Không thể hình dung nổi chủ nghĩa tập thể ở quy mô toàn cầu, trừ phi nó được dùng để bảo vệ quyền lợi của một nhóm ưu tú cực kì nhỏ. Đây không phải là vấn đề kĩ thuật mà trước hết là vấn đề đạo đức, mà tất cả những người xã hội chủ nghĩa đều không muốn đối mặt. Nếu, thí dụ, người vô sản Anh được hưởng ngang nhau phần thu nhập có xuất xứ từ nguồn lực tư bản của nước mình và có quyền tham gia kiểm soát việc sử dụng tư bản vì nó là kết quả của sự bóc lột thì cũng theo nguyên tắc đó, tất cả người Ấn Độ không chỉ có quyền hưởng thu nhập từ tư bản mà còn có cả quyền sử dụng tỉ lệ tương ứng của tư bản Anh nữa. 

Nhưng những người xã hội chủ nghĩa dự định phân chia đồng đều nguồn vốn tư bản hiện có trên thế giới cho các dân tộc như thế nào? Tất cả đều cho rằng tư bản không phải là tài sản của toàn nhân loại mà là tài sản của quốc gia, nhưng, ngay cả trong khuôn khổ của các quốc gia cũng ít người dám đặt vấn đề tước bớt một phần tư bản “của họ” để giúp cho các vùng nghèo hơn. Những người xã hội chủ nghĩa cũng không sẵn sàng bảo đảm cho người nước ngoài cái mà họ tuyên bố là trách nhiệm trước các công dân nước mình. Nếu theo quan điểm của chủ nghĩa tập thể một cách nhất quán thì phải công nhận rằng những đòi hỏi phân chia lại thế giới do các dân tộc nghèo nàn đưa ra là hoàn toàn hợp lý - mặc dù nếu tư tưởng này mà được áp dụng một cách nhất quán thì những quốc gia ủng hộ nhiệt tình nhất sẽ bị mất mát chẳng khác gì các quốc gia giầu có nhất. Vì vậy, họ luôn tỏ ta thận trọng, họ không đặt nặng yêu cầu vào nguyên tắc bình quân, nhưng lại làm ra vẻ rằng không có ai có thể tổ chức đời sống của các dân tộc trên thế giới tốt hơn là họ. 

Một trong những mâu thuẫn nội tại của triết lý của chủ nghĩa tập thể là, bản thân nó dựa trên một nền đạo đức nhân văn, tức là nền đạo đức phát triển trong khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân, lại chỉ có thể được áp dụng cho những nhóm tương đối nhỏ mà thôi. Về lý thuyết, chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa quốc tế, nhưng khi đem ra áp dụng thì dù là ở Nga hay ở Đức nó đều biến thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhất, đấy là một trong những lý do vì sao “chủ nghĩa xã hội tự do”, như nhiều người châu Âu hình dung, chỉ là sản phẩm thuần tuý lý thuyết, trong khi trên thực tế, chủ nghĩa xã hội luôn luôn đồng hành với chủ nghĩa toàn trị[1]. Chủ nghĩa tập thể không chấp nhận chủ nghĩa nhân đạo theo nghĩa rộng của chủ nghĩa tự do, nó chỉ có thể chấp nhận chủ nghĩa biệt lập hẹp hòi toàn trị mà thôi. 

Nếu “cộng đồng” hay nhà nước đứng cao hơn cá nhân và có những mục tiêu không ăn nhập gì với các mục tiêu của cá nhân và cao hơn các mục tiêu cá nhân thì chỉ những người hoạt động cho các mục tiêu đó mới được coi là thành viên của cộng đồng. Hậu quả tất yếu của quan điểm này là chỉ khi là thành viên của nhóm cá nhân mới được tôn trọng, tức là chỉ khi và trong chừng mực cá nhân đó có tác dụng thúc đẩy cho việc thực hiện các mục tiêu được tất cả mọi người thừa nhận và người đó có phẩm giá là vì là thành viên của nhóm đó chứ không đơn giản chỉ vì anh ta là một con người. Vì vậy, tất cả các khái niệm nhân văn, kể cả chủ nghĩa quốc tế, vốn là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân, đều không có chỗ trong triết lý của chủ nghĩa tập thể[2]

Ngoài sự kiện nền tảng là, cộng đồng theo chủ nghĩa tập thể chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả các thành viên của nó có hoặc có thể đạt được sự nhất trí về tất cả các mục tiêu, còn có một loạt tác nhân thúc đẩy chủ nghĩa tập thể trở thành khép kín và biệt lập. Điều quan trọng nhất trong số đó là, cá nhân khát khao đồng nhất mình với nhóm là hậu quả của cảm giác bất toàn của chính mình và vì vậy, ước muốn của anh ta sẽ được thỏa mãn nếu tư cách thành viên làm cho anh ta cảm thấy ưu thế của mình so với những người bên ngoài. Đôi khi, dường như, chính bản năng gây hấn mà người ta biết rằng phải bị kiềm chế trong nội bộ nhóm lại được thả lỏng trong hành động của tập thể nhằm chống lại những người bên ngòai đã giúp cho cá nhân hoà đồng hơn với tập thể. Moral Man and Immoral Society (Con người đức hạnh và xã hội vô luân) là nhan đề tuyệt với và rất chính xác của một tác phẩm của Reinhold Niebuhr, mặc dù chúng ta không thể đồng ý với tất cả các kết luận của ông. Nhưng, đúng như ông đã nói: “Con người hiện nay thường có xu hướng coi mình là có đức vì họ đã chuyển sự đồi bại của mình cho những nhóm người ngày càng đông hơn[3]”. Khi hành động nhân danh nhóm, người ta thường rũ bỏ được nhiều hạn chế về mặt đạo đức, vốn là những thứ vẫn đóng vai trò kiềm chế hành vi của người ta trong nội bộ nhóm.

Thái độ thù địch không che dấu đối với chủ nghĩa quốc tế của phần đông những người ủng hộ kế hoạch hoá có thể được lý giải - bên cạnh các nguyên nhân khác - trong thế giới hiện đại mọi mối liên hệ với bên ngoài đều ngăn cản việc tiến hành kế hoạch hoá một cách hiệu quả. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà biên tập viên của một trong những công trình nghiên cứu tập thể toàn diện nhất về vấn đề kế hoạch hoá đã vô cùng thất vọng khi phát hiện ra rằng: “Phần lớn những người ủng hộ kế hoạch hoá lại là những người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa hiếu chiến nhất[4]”. 

Thiên hướng dân tộc và đế quốc chủ nghĩa thường thấy ở những người xã hội chủ nghĩa hơn là đa số vẫn tưởng, mặc dù không phải lúc nào cũng thể hiện công khai, thí dụ như hai ông bà Webb hay một số người thuộc hội Fabian trước đây; ở những người này, lòng nhiệt tình với kế hoạch hoá thường kết hợp với lòng sùng kính đặc thù trước những quốc gia lớn mạnh và khinh thường những nước nhỏ. Hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với ông bà Webb bốn mươi năm về trước, sử gia Élie Halévy nhận xét rằng tinh thần xã hội chủ nghĩa của họ hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa tự do: “Ông bà ấy không căm ghét những người bảo thủ (Tories), thậm chí còn tỏ ra độ lượng đối với họ, nhưng lại không chấp nhận chủ nghĩa tự do của Gladston. Lúc đó đang diễn ra cuộc chiến tranh Anh-Boer (người Phi gốc Hà Lan- ND) và những người tự do tiến bộ nhất cùng với những người đang đứng ra thành lập Công Đảng (Labor Paty) đã ủng hộ người Boer chống lại đế quốc Anh, nhân danh tự do và lòng nhân đạo. Nhưng ông bà Webb và bạn họ là nhà văn Bernard Shaw lại đứng tách ra. Họ đã thể hiện tinh thần đế quốc một cách đầy khiêu khích. Nền độc lập của các dân tộc nhỏ bé có thể có ý nghĩa nào đó đối với một người cá nhân chủ nghĩa theo phái tự do. Nhưng lại chẳng có ý nghĩa gì đối với những người theo chủ nghĩa tập thể như họ. Bên tai tôi vẫn văng vẳng lời giải thích của Sidney Webb rằng tương lai thuộc về các nước lớn, các quan chức sẽ cai trị, còn cảnh sát sẽ giữ trật tự”. Ở một chỗ khác, Halévy còn dẫn lại lời của B. Shaw, cũng nói về khoảng thời gian đó: “Thế giới nhất định thuộc về các nước lớn và mạnh, các nước nhỏ phải ở trong biên giới của mình, hoặc là sẽ bị bóp chết[5]”.
Tôi đã trích dẫn một đoạn dài, nếu đấy là phát biểu của những bậc tiền bối người Đức của chủ nghĩa xã hội quốc gia thì sẽ chẳng làm ai ngạc nhiên vì nó là thí dụ điển hình của thái độ tôn thờ quyền lực, thái độ đó dễ dàng đưa người ta từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đạo đức của những người theo chủ nghĩa tập thể. Nói đến quyền của các dân tộc nhỏ thì quan điểm của Marx và Engels cũng chẳng khác gì quan điểm của những người theo chủ nghĩa tập thể khác, những lời phát biểu của họ về người Czech và người Ba Lan giống hệt như những gì mà các đảng viên xã hội chủ nghĩa quốc gia hiện nay đang nói[6]

* * *
Nếu đối với các triết gia cá nhân chủ nghĩa vĩ đại thế kỉ XIX, bắt đầu từ Lord Acton và Burckhardt và đến những người xã hội chủ nghĩa đương đại, như Bertran Russell - những người kế thừa các truyền thống của chủ nghĩa tự do - quyền lực là cái ác tuyệt đối, thì đối với những người theo chủ nghĩa tập thể thuần thành, quyền lực lại là mục đích tự thân. Vấn đề không chỉ là, như Russell đã chỉ rõ, bản thân ước muốn tổ chức đời sống xã hội theo một kế hoạch duy nhất bắt nguồn từ khát vọng quyền lực[7]. Điều quan trọng hơn là, để đạt được mục tiêu của mình, những người theo chủ nghĩa tập thể phải tạo ra quyền lực - thứ quyền lực do con người áp đặt lên con người – với sức mạnh chưa từng được biết đến trước đây, thành công của họ phụ thuộc vào mức độ quyền lực mà họ giành được.
 
Điều này vẫn đúng dẫu cho nhiều người xã hội chủ nghĩa có tư tưởng tự do đang nỗ lực làm việc vì bị dẫn dắt bởi cái ảo tưởng đầy bi kịch rằng tước đoạt quyền lực mà các cá nhân sở hữu trong trong hệ thống cá nhân chủ nghĩa và chuyển quyền lực này vào tay xã hội là họ có thể xóa bỏ được quyền lực. Những người lý sự như thế đã bỏ qua sự kiện rõ ràng sau đây: Tập trung quyền lực để nó có thể phục vụ cho một kế hoạch duy nhất thì quyền lực không những không được chuyển hoá mà còn trở thành quyền lực tuyệt đối; tập trung vào tay một tổ chức duy nhất cái quyền lực trước đó vẫn nằm trong tay nhiều người hoạt động độc lập với nhau, thì quyền lực chẳng những đã tăng lên đến mức chưa từng có trước đây, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến mức gần như trở thành khác hẳn về chất. Thật sai lầm khi cho rằng quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trung ương cũng “không hơn gì quyền lực tập thể của ban giám đốc xí nghiệp tư nhân[8]”. Thực tế là, trong xã hội cạnh tranh, không người nào có thể nắm được dù chỉ một phần quyền lực mà ủy ban kế hoạch xã hội chủ nghĩa có thể sở hữu và nếu không có người nào có thể tự ý sử dụng quyền lực thì lời khẳng định rằng các nhà tư bản có một quyền lực cộng đồng thì đấy đơn giản chỉ là trò đánh tráo thuật ngữ mà thôi[9]. Câu “quyền lực bị hội đồng các giám đốc tư nhân cùng nhau thao túng”, trong khi họ chưa thực hiện các hành động có phối hợp, chỉ là một trò chơi chữ, còn khi họ đã phối hợp hành động thì cũng có nghĩa là sự cáo chung của nền kinh tế cạnh tranh và bắt đầu nền kinh tế kế hoạch hoá. Muốn giảm quyền lực tuyệt đối thì phải chia nhỏ nó ra hay là phi tập trung hoá nó và hệ thống cạnh tranh là hệ thống duy nhất được thiết kế nhằm phi tập trung hóa quyền lực và bằng cách đó làm giảm tối đa quyền lực của người này đối với một số người khác.

Như chúng ta đã thấy, việc tách các mục tiêu kinh tế ra khỏi mục tiêu chính trị là sự bảo đảm thiết yếu cho tự do cá nhân, và do đó, nó trở thành đối tượng tấn công của tất cả những người theo phái tập thể. Cần phải nói thêm rằng khẩu hiệu thịnh hành hiện nay “đưa quyền lực chính trị thay thế cho quyền lực kinh tế” có nghĩa là đem cái gông xiềng không ai có thể chạy thoát được thế chỗ cho quyền lực về bản chất là có giới hạn. Mặc dù cái gọi là quyền lực kinh tế có thể là một công cụ áp bức, nhưng khi còn nằm trong tay những cá nhân riêng lẻ, nó không thể là vô giới hạn và không thể bao trùm lên toàn bộ đời sống của một con người. Nhưng khi tập trung vào tay một nhóm người như là một công cụ của quyền lực chính trị thì nó sẽ biến người ta thành những người phụ thuộc chẳng khác gì nô lệ.
* * *
Từ hai đặc điểm trung tâm của mọi hệ thống tập thể chủ nghĩa tức là nhu cầu phải có một hệ thống các mục tiêu được tất cả mọi người trong nhóm chấp nhận và ước mơ của nhóm có một quyền lực tuyệt đối, nhằm thực thi các mục tiêu đó chắc chắn sẽ nảy sinh ra một hệ thống đạo đức rõ ràng với một số điểm trùng hợp, trong khi một số điểm lại khác hẳn với nền đạo đức của chúng ta - có một điểm mà sự khác biệt rõ ràng đến nỗi có thể làm người ta ngờ rằng đây có phải là đạo đức hay không: Nó không để cho lương tâm của cá nhân được áp dụng các quy tắc của chính mình và nó cũng không chấp nhận bất kì quy tắc chung nào mà cá nhân phải hoặc được tuân theo trong mọi hoàn cảnh. Điều này làm cho đạo đức tập thể trở thành khác hẳn với cái mà chúng ta vẫn gọi là đạo đức và thật khó mà tìm được bất kì nguyên tắc nào dù rằng đạo đức tập thể vẫn có những nguyên tắc như thế. 

Sự khác biệt về nguyên tắc cũng gần giống như trường hợp chế độ pháp quyền mà chúng ta đã có dịp xem xét trước đây. Tương tự như các đạo luật hình thức, các tiêu chuẩn đạo đức cá nhân chủ nghĩa, dù không phải lúc nào cũng cụ thể chi ly, nhưng là các tiêu chuẩn chung và vô điều kiện khi áp dụng; các tiêu chuẩn này qui định hoặc cấm đoán một số hành động nhất định, không phụ thuộc vào mục đích mà những hành động ấy theo đuổi. Thí dụ ăn cắp hay nói dối, tra tấn hoặc phản bội được coi là xấu, không phụ thuộc vào việc, trong những trường hợp cụ thể nào đó những hành động như thế có gây ra thiệt hại hay không. Dù không có ai phải chịu đau khổ hay ngay cả đấy là những hành động nhân danh một mục đích cao đẹp nào đó thì cũng không thể làm thay đổi được sự kiện: đấy là những hành động xấu. Mặc dù đôi khi chúng ta phải lựa chọn, phải làm một việc đỡ xấu hơn, nhưng dù sao đấy vẫn là việc xấu. 

Trong đạo đức học cá nhân chủ nghĩa, nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi tiêu chuẩn đạo đức. Trong đạo đức của chủ nghĩa tập thể nguyên tắc này nhất định phải trở thành quy tắc tối thượng; một người theo chủ nghĩa tập thể kiên định phải sẵn sàng làm tất cả mọi việc nếu đó là việc mang lại “hạnh phúc cho tất cả mọi người”, vì, đối với anh ta, đấy là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá tính đạo đức của hành động. Đạo đức tập thể thể hiện rõ ràng nhất trong công thức raison d'Etat (Nhu cầu của nhà nước- Tiếng Pháp –ND), một nhu cầu không chấp nhận bất kì giới hạn nào, ngòai tính vụ lợi – sự phù hợp của hành động để đạt cho bằng được mục tiêu trước mắt. Cách mà reason d’etat thực hiện trong quan hệ giữa các quốc gia cũng được đem ra áp dụng trong quan hệ giữa các công dân trong các nước theo chủ nghĩa tập thể. Trong các nước theo chủ nghĩa tập thể, lương tâm cũng như tất cả các tác nhân khác đã không còn đóng vai trò kiềm chế các hành động của con người, nếu như đấy là các hành động nhằm thực hiện các mục tiêu do cộng đồng hay do cấp trên giao.

* * *
Sự thiếu vắng các quy tắc đạo đức tuyệt đối mang tính hình thức dĩ nhiên không có nghĩa là xã hội theo chủ nghĩa tập thể không khuyến khích một số thói quen có ích của các công dân và không đè nén một số thói quen khác. Ngược lại, xã hội theo đường lối tập thể quan tâm tới thói quen của con người hơn là xã hội theo đường lối cá nhân chủ nghĩa. Để trở thành người có ích cho xã hội theo đường lối tập thể, cần phải có một số phẩm chất, những phẩm chất này lại đòi hỏi phải được rèn luyện thường xuyên. Chúng ta gọi đó là “những thói quen có ích” chứ không phải là đức hạnh vì trong bất kì trường hợp nào chúng cũng không được phép trở thành chướng ngại vật trên con đường tiến đến mục đích chung hay là cản trở việc thực thi mệnh lệnh của cấp trên. Các thói quen đó chỉ làm mỗi một nhiệm vụ là lấp đầy khoảng trống mà các mệnh lệnh hay các mục tiêu chưa nói tới, chứ không bao giờ được mâu thuẫn với ý chí của nhà cầm quyền. 

Sự khác nhau giữa những phẩm chất sẽ được đánh giá cao trong xã hội theo chủ nghĩa tập thể và những phẩm chất nhất định sẽ phải biến mất được thể hiện rõ bằng cách so sánh những phẩm chất đạo đức đặc trưng của ngươi Đức, hay nói đúng hơn “đặc trưng Phổ” được cả những kẻ thù không đội trời chung của họ công nhận và những phẩm chất mà theo ý kiến chung là họ không có, mà, thí dụ, người Anh lấy làm tự hào. Chẳng mấy người phủ nhận rằng người Đức, nói chung, yêu lao động và có kỉ luật, cẩn trọng và nghị lực đến mức tàn nhẫn, tận tuỵ và ngay thẳng trong mọi công việc, họ có ý thức cao về trật tự, trách nhiệm và thói quen tuân phục chính quyền, họ sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân và tỏ ra là những người cực kì dũng cảm khi tính mạng bị đe doạ. Tất cả những điều đó đã biến người Đức thành công cụ hữu hiệu trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ do nhà cầm quyền đặt ra, chính phủ Phổ và Đế chế mới, trong đó, xu hướng Phổ giữ thế thượng phong, đã giáo dục họ theo đúng tinh thần như thế. Trong khi đó người ta lại cho rằng “người Đức điển hình” thiếu những phẩm chất của chủ nghĩa cá nhân như tinh thần bao dung, thái độ tôn trọng người khác, tôn trọng ý kiến của người khác, sự độc lập về trí tuệ, tính ngay thẳng và sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình trước những người có quyền lực, chính người Đức cũng nhận thấy như thế và gọi nó là Zivilcourage  (Dũng cảm công dân - Tiếng Đức–ND) họ thiếu sự quan tâm đến những kẻ yếu đuối, thiếu sự nghi ngờ lành mạnh đối với quyền lực, không thích quyền lực, những phẩm chất chỉ có thể được hình thành bởi truyền thống tự do cá nhân lâu đời. Dường như người Đức còn thiếu các phẩm chất, có thể là không dễ nhận ra, nhưng rất quan trọng, nếu xét từ quan điểm quan hệ giữa những người sống trong xã hội tự do, đấy là lòng nhân từ, cảm giác khôi hài, cởi mở và tôn trọng đời sống cá nhân của người khác, cũng như niềm tin vào ý định tốt đẹp của những người xung quanh.

Sau tất cả những điều đã trình bày, có thể không ngạc nhiên rằng những phẩm hạnh mang tính cá nhân cũng đồng thời là những phẩm hạnh mang tính xã hội này giúp cho tương tác xã hội diễn ra thuận lợi hơn, nhờ thế mà không cần và rất khó kiểm soát từ bên trên. Những phẩm hạnh này chỉ phát triển trong các xã hội mang tính cá nhân chủ nghĩa hoặc đã phát triển về mặt thương mại, và không hiện diện trong xã hội, nơi chủ nghĩa tập thể hay quân phiệt giữ thế thượng phong. Có thể nhận thấy rõ sự khác biệt này ở những vùng khác nhau của Đức, và hiện nay chúng ta cũng có thể thấy khi so sánh Đức với các nước phương Tây. Cho mãi đến tận thời gian gần đây, tại những vùng phát triển nhất về thương mại, tức là tại những thành phố buôn bán ở phía Nam và phía Tây, cũng như các thành phố vùng Hanse, các quan niệm đạo đức vẫn gần với tiêu chuẩn của phương Tây hơn là những tiêu chuẩn đang giữ thế thượng phong ở Đức hiện nay. 

Tuy vậy, sẽ cực kì bất công khi cho rằng khối quần chúng ủng hộ chế độ trong các nhà nước toàn trị, mà chúng ta coi là sự phủ nhận hầu hết các giá trị đạo đức, là những người chẳng còn động lực đạo đức nào. Đối với đa số thì tình hình hoàn toàn ngược lại: Chỉ có thể so sánh những xúc cảm về mặt đạo đức đằng sau các phong trào như chủ nghĩa xã hội quốc gia hay cộng sản với những trải nghiệm của những người đã từng tham gia các phong trào tôn giáo vĩ đại trong lịch sử. Nhưng một khi đã thừa nhận rằng cá nhân chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục tiêu của một thực thể cao quí hơn, gọi là xã hội hay quốc gia thì cũng thế, thì phần lớn những đặc điểm của chế độ tòan trị, làm chúng ta kinh hoàng, nhất định sẽ xuất hiện. Từ quan điểm của chủ nghĩa tập thể, thái độ bất dung và đàn áp thô bạo bất đồng quan điểm, khinh thường đời sống và hạnh phúc cá nhân chính là những hậu quả thiết yếu và không thể tránh khỏi của những tiền đề lý luận nền tảng; và người ủng chủ nghĩa tập thể đồng ý như thế, nhưng đồng thời họ lại khẳng định rằng chế độ này tiến bộ hơn là chế độ, nơi những quyền lợi “ích kỉ” của từng cá nhân có thể cản trở các mục tiêu mà cộng đồng theo đuổi. Các triết gia Đức là những người chân thành khi họ cố gắng chứng minh hết lần này đến lần khác rằng phấn đấu cho hạnh phúc cá nhân là việc làm phi đạo đức và chỉ có thực hiện nghĩa vụ trước xã hội mới là việc làm đáng tôn trọng, nhưng những người được giáo dục theo truyền thống khác thì khó mà hiểu nổi chuyện đó.

Ở đâu chỉ tồn tại một mục tiêu chung cao quí duy nhất thì ở đó không còn chỗ cho bất kì tiêu chuẩn hay qui phạm đạo đức nào. Trong thời kì chiến tranh chúng ta cũng từng trải nghiệm những điều như thế ở một mức độ nào đó. Nhưng ngay cả chiến tranh với những mối hiểm nguy vốn có của nó cũng chỉ tạo ra trong lòng các nước dân chủ một phiên bản tòan trị tương đối ôn hòa: Chỉ một vài giá trị cá nhân bị đặt sang một bên để dành chỗ cho mục tiêu duy nhất lúc đó mà thôi. Nhưng, khi tòan xã hội chỉ theo đuổi một vài mục tiêu chung nào đó thì nhất định đôi khi sự tàn bạo sẽ được coi là nhiệm vụ và những hành động làm chúng ta kinh tởm như bắn giết con tin, giết người già hay người ốm được coi là những việc làm thích hợp; di dân cưỡng bức và bắt lưu đầy hàng trăm ngàn người trở thành biện pháp chính trị được hầu như tất cả mọi nguời, trừ các nạn nhân, ủng hộ; thậm chí người ta còn nghiên cứu cả những đề nghị như “gọi đàn bà nhập ngũ để sinh con đẻ cái nữa”. Những người theo chủ nghĩa tập thể chỉ nhìn thấy những mục tiêu vĩ đại, đối với họ là đủ sức biện hộ cho những hành động như thế vì không có quyền con người nào hay giá trị cá nhân nào có thể trở thành lực cản cho sự nghiệp phụng sự xã hội của họ. 

Nhưng, trong khi đối với phần đông công dân của nhà nước tòan trị, lý tưởng, mặc dù đối với chúng ta đấy là lý tưởng chẳng ra gì, chính là thứ họ sẵn sàng hy sinh hết mình, là thứ khiến họ ủng hộ, thậm chí thực hiện những hành động bất nhân nói trên, thì đối với những kẻ điều hành chính sách đó lại không hẳn như thế. Muốn trở thành người trợ thủ đắc lực trong việc điều hành nhà nước tòan trị thì sẵn sàng chấp nhận những lời giải thích có vẻ hợp lý cho những việc làm đốn mạt là chưa đủ, y còn phải sẵn sàng chà đạp lên mọi quy tắc đạo đức từng được biết đến, nếu đấy là việc cần thiết để đạt mục tiêu đề ra cho y. Vì lãnh tụ tối cao là người duy nhất có quyền đặt ra mục tiêu, cho nên các công cụ trong tay ông ta không được có quan điểm đạo đức riêng của mình. Yêu cầu quan trọng nhất đối với người cán bộ là lòng trung thành tuyệt đối đối với cá nhân lãnh tụ, kèm theo lòng trung thành là tính vô nguyên tắc và sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Cán bộ không được có lý tưởng thầm kín của riêng mình hoặc quan điểm riêng về thiện ác, có thể ảnh hưởng tới các dự định của lãnh tụ. Từ đó có thể thấy rằng các chức vụ cao khó có sức hấp dẫn đối với những người có quan điểm đạo đức từng là kim chỉ nam cho hành động trong quá khứ của người Âu châu, vì khó có thể thể bù đắp được cho những hành động bất lương mà họ nhất định phải làm, sẽ không còn cơ hội theo đuổi những ước mơ lý tưởng hơn, chẳng có gì có thể đền bù được những mạo hiểm không thể nào tránh khỏi, chẳng có gì có thể đến bù được những niềm vui của cuộc sống riêng tư và sự độc lập của cá nhân mà chức vụ lãnh đạo cao nhất định phải làm. Chỉ có một khát khao, đấy là khát khao quyền lực theo nghĩa đen của từ này và cái khoái cảm được người khác phục tùng và được là một phần của một cỗ máy quyền lực khổng lồ không ai có thể cản trở được, là có thể được thoả mãn theo cách đó mà thôi. 

Nếu các chức vụ cao trong bộ máy quyền lực toàn trị không hấp dẫn được những người xứng đáng, theo tiêu chuẩn của chúng ta, thì điều đó có nghĩa là những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ sẽ có nhiều cơ hội. Không nghi ngờ gì rằng sẽ có nhiều việc gọi là “bẩn thỉu”, nhưng cần phải làm vì mục đích cao thượng và phải làm một cách dứt khoát và chuyên nghiệp như bất kì công việc nào khác. Sẽ có rất nhiều hành động tự bản thân chúng là những hành động xấu, mà những người còn có quan niệm đạo đức truyền thống sẽ không chịu làm, sẵn sàng làm những việc xấu xa như thế sẽ là tấm giấy thông hành cho người ta thăng tiến và đi đến quyền lực. Trong xã hội toàn trị nhất định sẽ có nhiều chức vụ đòi hỏi sự tàn nhẫn, doạ nạt, lừa dối và chỉ điểm. Gestapo hay các ban quản lý các trại tập trung, Bộ tuyên truyền hay SA hoặc SS (hoặc những cơ quan tương ứng ở Ý hay ở Nga) không phải là chỗ thể hiện lòng nhân đạo của con người. Nhưng đấy chính là con đường tiến thân trong ban lãnh đạo của nhà nước toàn trị. Một nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ sau khi xem xét sơ qua trách nhiệm của chính quyền trong xã hội theo chế độ tập thể đã rút ra kết luận rất đúng rằng: “Dù muốn hay không họ cũng phải làm những việc đó: xác suất những người nắm chính quyền là các cá nhân không thích giữ và thể hiện quyền lực cũng ngang bằng với xác suất một người cực kì dịu dàng muốn làm công việc của cai đội trong đồn điền nô lệ[10]”. 

Nhưng như thế chưa phải đã hết. Vấn đề lựa chọn người lãnh đạo là một phần của một vấn đề lớn hơn, tức là vấn đề lựa chọn người phù hợp với quan điểm của họ hay nói đúng hơn là lựa chọn những người sẵn sàng thích nghi với học thuyết thường xuyên thay đổi của họ. Và điều đó dẫn chúng ta đến một trong những đặc điểm nổi bật nhất của đạo đức của chủ nghĩa toàn trị: quan hệ của nó với và ảnh hưởng của nó lên những đức tính được gọi với một tên chung là tính trung thực. Nhưng đây là đề tài lớn, cần phải cả một chương mới  nói hết được.


[1] Xem cuộc thảo luận rất đáng nghiên cứu trong tác phẩm của Franz Borkenau: Socialism. National or International? (1942).
[2] Zarathustra của Nietzsche đã nói đúng theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể: “Cho đến nay đã từng tồn tại cả ngàn mục tiêu vì đã tồn tại cả ngàn người. Nhưng vẫn chưa có một cái cùm chung cho cả ngàn cái cổ, chưa có một mục tiêu duy nhất. Nhân loại chưa có một mục tiêu. Tôi cầu xin các người anh em, hãy nói đi: nhân loại không có mục tiêu, thế chẳng phải là không có nhân loại đó ư?”
[3] Trích dẫn từ Carr E.H. The Twenty Year's Crisis, 1941. Р. 203
[4] Findlay Mackenzie (ed). Planned Society. Yesterday, Today, Tomorrow: A Simposium. 1937. P. XX
[5] Halévy E. L'Ere des Tyrannies. Paris, 1938; History of the English People. Epilogue, vol. I. P. 105—106.
[6] Xem K. Marx. Revolution and Counter-revolution, và Engels’ letter to Marx, May 23, 1851.
[7] Russell В. The Scientific Outlook. (1931). Р. 211
[8] Lippincott B.E. Introduction to: Lange O., Taylor F.M. On the Economic Theory of Socialism. Minneapolis, 1938. P. 35
[9] Chúng ta không được phép để mình bị mắc lừa bởi sự kiện là từ “lực”, ngòai ý nghĩa được sử dụng liên quan đến con người, còn được sử dụng theo nghĩa phi nhân cách (đúng hơn là đã được nhân cách hóa) đối với bất kì nguyên nhân nào. Dĩ nhiên là luôn luôn có một cái gì đó là nguyên nhân cho tất cả những cái khác, theo nghĩa đó thì tổng quyền lực phải luôn luôn là một hằng số. Nhưng điều này không liên quan gì đến quyền lực mà một số người cố ý áp đặt lên một số người khác.
[10] Knight F.H. in the Journal of Politico Economy. 1938. December. P. 869.

1 comment: