IV. Kế hoạch hoá là “tất yếu”?
Chúng tôi là những người đầu tiên nói rằng
nền văn minh càng có những hình
thức phức tạp
thì tự do cá nhân càng phải bị
hạn chế.
Benito Mussolini
Rõ
ràng là hiện nay ít người ủng hộ kế hoạch hoá còn có thể vênh vang nói rằng kế
hoạch hoá tập trung là điều đáng mơ ước nữa. Hiện nay, đa phần những người đó
đều khẳng định rằng chúng ta không có lựa chọn nào khác, những hoàn cảnh nằm
ngoài tầm kiểm soát của chúng ta buộc chúng ta phải dùng kế họach hóa thay thế
cho cạnh tranh. Những người ủng hộ kế họach hóa tìm mọi cách nuôi dưỡng cái
huyền thọai rằng chúng ta đi theo đường lối mới không phải vì chúng ta muốn như
thế, mà sự thay đổi trong lĩnh vực công nghệ đã tự động loại bỏ dần cạnh tranh;
chúng ta không thể đảo ngược cũng như không thể ngăn chặn tiến trình tự nhiên
này. Lý lẽ chỉ dừng lại ở đây – đấy là một trong những khẳng định được hết
người cầm bút này tới người cầm bút khác sao chép lại, cho đến khi, nhờ lặp đi
lặp lại như thế mà được coi như sự kiện đã được xác lập. Tuy vậy, đây là một
khẳng định hòan tòan thiếu cơ sở. Xu hướng độc quyền và kế họach hóa hòan tòan
không phải là kết quả của “những sự kiện khách quan” nào đó nằm ngoài khả năng
kiểm soát của chúng ta mà là sản phẩm những quan điểm được quảng bá và tuyên
truyền trong suốt nửa thế kỉ qua, cho đến khi những quan điểm này chi phối tất
cả các chính sách của chúng ta.
Một
trong những luận cứ thường được sử dụng, một trong những luận cứ người ta
thường nói để chứng minh tính tất yếu của kế họach hóa là: Những thay đổi trong
lĩnh vực công nghệ làm cho cạnh tranh trở thành ngày càng bất khả thi trong
nhiều lĩnh vực, chúng ta chỉ có một trong hai lựa chọn, đấy là các công ty độc
quyền tư nhân hay chính phủ sẽ kiểm soát sản xuất mà thôi. Niềm tin này phát
sinh chủ yếu từ học thuyết Marxist về “tập trung sản xuất”, và, cũng như nhiều
tư tưởng Marxist khác, nó được nhiều người sao chép, vay mượn quá đến nỗi người
ta thường sử dụng mà chẳng biết xuất xứ từ đâu.
Các
công ty độc quyền ngày càng tăng cường sức mạnh đồng thời với việc thu hẹp lĩnh
vực cạnh tranh diễn ra trong suốt năm mươi năm qua là sự kiện lịch sử không thể
chối cãi, tuy mức độ đôi khi bị thổi phồng một cách quá đáng[1]. Nhưng vấn đề
quan trọng là sự gia tăng độc quyền có phải là hậu quả tất yếu của phát triển
công nghệ hay đấy là đơn giản chỉ kết qủa của chính sách mà nhiều nước đang
theo đuổi. Như chúng ta sẽ thấy ở đây, lịch sử phát triển ủng hộ giả thuyết thứ
hai. Nhưng trước hết chúng ta phải xem xét để trả lời câu hỏi liệu những tiến
bộ của kĩ thuật hiện đại có tất yếu dẫn đến việc mở rộng độc quyền hay không.
Người
ta thường nói rằng, ưu việt về mặt kĩ thuật của các xí nghiệp lớn là các dây
chuyền sản xuất hàng lọat với hiệu suất cao hơn là nguyên nhân chủ yếu đưa đến
sự gia tăng độc quyền. Người ta khẳng định rằng, trong phần lớn các ngành, các
phương pháp hiện đại đã tạo ra những điều kiện giúp cho các xí nghiệp lớn gia
tăng sản lượng, đồng thời giảm giá thành trên từng đơn vị sản phẩm. Kết quả là,
với giá cả thấp hơn, các hãng lớn sẽ hất cẳng các hãng nhỏ và với đà phát triển
như thế, trong mỗi ngành sẽ chỉ còn lại một hoặc một vài hãng khổng lồ mà thôi.
Luận cứ này chỉ xem xét có một xu hướng, đôi khi, song hành với tiến bộ kĩ
thuật và bỏ qua các xu hướng ngược lại, khi nghiên cứu kĩ ta sẽ tìm thấy ít sự
kiện ủng hộ cho giả thuyết này. Chúng ta không thể khảo sát vấn đề này một cách
chi tiết ở đây, đành phải hài lòng với bằng chứng tốt nhất hiện có. Ở Mỹ, một
công trình nghiên cứu tòan diện nhất các tác nhân liên quan đến vấn đề này được
Hội đồng Kinh tế Quốc gia Lâm thời tiến hành trong thời gian gần đây có nhan đề
Concentration of Economic Power (Sự tập
trung sức mạnh kinh tế). Báo cáo cuối cùng của Hội đồng (không thể bị tố
cáo là quá thiên về phái tự do) kết luận một cách rõ ràng rằng, quan điểm cho là
hiệu quả lớn hơn của sản xuất quy mô lớn là nguyên nhân thủ tiêu cạnh tranh
“không được các sự kiện mà chúng ta có trong tay ủng hộ[2]”. Cuốn sách
chuyên khảo chi tiết được chuẩn bị cho Hội đồng đã tổng kết cuộc thảo luận về
vấn đề này như sau:
“Hiệu
quả vượt trội của các xí nghiệp lớn chưa được chứng minh; các lợi thế được cho
là có thể huỷ hoại cạnh tranh đã không được thể hiện trong nhiều lĩnh vực. Các lợi
ích kinh tế nhờ quy mô lớn, nếu có, không nhất thiết dẫn tới độc quyền… Xí
nghiệp có thể có quy mô tối ưu trước khi phần lớn nguồn cung ứng bị kiểm sóat
theo lối độc quyền. Kết luận rằng lợi thế của sản xuất quy mô lớn nhất định sẽ
dẫn đến tiêu diệt cạnh tranh là không thể chấp nhận được. Hơn nữa, cần ghi nhận
rằng độc quyền thường xuất hiện dưới tác động của các tác nhân khác chứ không
phải là do giá cả thấp nhờ sản xuất với quy mô lớn. Độc quyền thường là kết quả
của những thoả thuận ngầm và được thúc đẩy bởi chính sách của chính phủ. Khi
các thoả thuận này bị xóa bỏ và khi những chính sách này được xem xét lại một
cách toàn diện thì có thể tái lập được những điều kiện cho cạnh tranh[3]”.
Nghiên
cứu tình hình ở Anh cũng sẽ dẫn đến các kết quả tương tự. Bất kì người nào từng
chứng kiến sự nhiệt tình của các doanh nhân độc quyền trong việc tìm kiếm sự
ủng hộ của nhà nước và việc họ thường nhận được sự ủng hộ cần thiết trong việc
duy trì sự kiểm soát đối với thị trường sẽ không còn một chút nghi ngờ nào về
tính tất yếu của quá trình phát triển như thế.
Ta
còn dễ dàng đồng ý với kết luận trên, nếu xét đến trình tự xuất hiện của quá
trình suy giảm cạnh tranh và mở rộng độc quyền ở những nước khác nhau. Nếu đấy
là kết quả của tiến bộ kĩ thuật hay sản phẩm tất yếu của “chủ nghĩa tư bản” thì
chắc chắn nó phải xảy ra trước tiên ở các nước có hệ thống kinh tế phát triển nhất.
Trên thực tế, lần đầu tiên quá trình này xuất hiện vào khoảng 30 năm cuối thế
kỉ XIX ở các nước có nền công nghiệp tương đối non trẻ, tức là ở Mỹ và Đức. Ở
Đức, nước được coi là hình mẫu của quy luật tiến hóa tất yếu của chủ nghĩa tư
bản, từ năm 1878 nhà nước đã thi hành một cách có hệ thống các chính sách nhằm
thúc đẩy sự phát triển của các cartel
và các nghiệp đoàn. Các chính phủ không chỉ sử dụng chính sách bảo hộ mà còn áp
dụng các biện pháp khuyến khích trực tiếp, thậm chí cưỡng ép với mục đích đẩy
nhanh quá trình thành lập các tập đoàn độc quyền nhằm điều tiết giá cả và lượng
hàng hóa bán ra. Chính
ở Đức, nhờ sự giúp đỡ của nhà nước, người ta đã tiến hành thí nghiệm vĩ đại đầu
tiên trong việc “lập kế hoạch một cách khoa học” và “tổ chức một cách có chủ ý
nền công nghiệp” dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền khổng lồ, các
công ty này được coi là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế năm mươi năm
trước khi những việc như thế được thực hiện ở Anh. Phần lớn là do ảnh hưởng của
những lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Sombart, những người đã khái
quát hóa kinh nghiệm nước mình, mà sự chuyển hóa tất yếu của hệ thống cạnh tranh
thành “chủ nghĩa tư bản độc quyền” mới được nhiều người chấp nhận. Ở Mỹ, chính
sách bảo hộ mạnh mẽ đã tạo ra quá trình phát triển tương tự như ở Đức dường như
khẳng định khái quát hóa nói trên. Nhưng Đức chứ không phải Mỹ được coi là đại
diện cho xu hướng phát triển phổ quát của chủ nghĩa tư bản và đương nhiên là có
thể nói – xin trích dẫn một tiểu luận được nhiều người đọc trong những ngày
chưa xa – “Đức là nước mà tất cả các lực lượng chính trị và xã hội của nền văn
minh hiện đại đã đạt được mức độ phát triển nhất[4]”.
Theo
dõi quá trình phát triển ở Anh trước và sau năm 1931, thời điểm đất nước chuyển
sang chủ nghĩa bảo hộ, sẽ cho chúng ta thấy tính tất yếu đóng góp chẳng bao
nhiêu, mà kết quả chủ yếu là do chính sách có chủ ý của chính phủ. Mới khoảng
mười hai năm trước đây, nền công nghiệp Anh, trừ một vài ngành đã nằm dưới sự
bảo hộ của chính phủ, nói chung là cạnh tranh, có thể nói, như bất kì giai đoạn
nào khác trong lịch sử. Và, mặc dù trong những năm 1920 đã bị khốn đốn vì hậu
quả của hai chương trình, lương và tiền, trái ngược nhau, nhưng, ít nhất, đến
năm 1929, tỉ lệ người có việc làm và hoạt động kinh tế không hề kém hơn những
năm 1930. Chỉ từ khi chuyển sang những biện pháp bảo hộ và những thay đổi khác
kèm theo trong chính sách kinh tế thì các công ty độc quyền mới có bước phát
triển nhanh đến chóng mặt và đã biến đổi nền công nghiệp Anh đến mức đa số dân
chúng còn chưa nhận thức được. Khẳng định rằng, các sự kiện này phụ thuộc -
trong chừng mực nào đó - vào sự tiến bộ kĩ thuật diễn ra trong cùng thời kì,
khẳng định rằng “cái tất yếu” từng xảy ra ở Đức hồi những năm 1880-1890 và bây
giờ bỗng xuất hiện ở Anh thì cũng lố bịch chẳng khác gì theo đuôi Mussolini mà
nhắc lại rằng nước Ý phải tiêu diệt tự do cá nhân trước các nước khác vì nền
văn minh của nó đã vượt xa nền văn minh của tất cả các dân tộc khác trên thế
giới!
Nói
riêng về nước Anh, một nước trong một thời gian dài vốn đứng bên ngòai các cuộc
thảo luận mang tính trí tuệ diễn ra trong nhiều nước khác, ta có cảm tưởng rằng
sự thay đổi các quan điểm và chính sách ở đây thường đi sau các sự kiện thực
tế, những sự kiện mà theo một ý nghĩa nào đó là tất yếu. Có thể khẳng định rằng
tổ chức theo lối độc quyền nền công nghiệp ở đây trái ngược hẳn với thái độ của
công chúng, vốn ưa thích cạnh tranh hơn; chính những sự kiện ở bên ngoài đã làm
lung lay ước muốn của họ. Nhưng muốn hiểu rõ quan hệ giữa lý thuyết và thực
tiễn thì phải nghiên cứu nước Đức vì Đức chính là nguyên mẫu cho quá trình phát
triển này. Không nghi ngờ gì rằng chính ở Đức, người ta đã cố tình ngăn cản
cạnh tranh nhân danh cái lý tưởng mà hiện nay chúng ta gọi là kế họach hóa. Đức
và các dân tộc bắt chước họ đang tiến một cách nhất quán đến xã hội được lập kế
họach về mọi phương diện, tức là họ đi theo đường lối do các nhà tư tưởng thế
kỉ XIX, mà đa số cũng là người Đức, vạch ra. Như vậy nghĩa là, lịch sử tư tưởng
trong sáu mươi – tám mươi năm qua là minh chứng hùng hồn cho luận điểm nói rằng,
trong sự phát triển của xã hội chẳng có gì có thể gọi là tất yếu hết, chính tư
duy đã làm cho nó trở thành như thế.
*
* *
Có
thể giải thích lời khẳng định rằng, tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ đã làm cho
kế họach hóa trở thành tất yếu theo một cách khác. Đấy là nền văn minh công
nghiệp phức tạp của chúng ta đã sản sinh ra nhiều vấn đề mới, không có một kế
họach tập trung thì không thể giải quyết được. Theo một nghĩa nào đó thì đúng
là như thế, nhưng không phải theo nghĩa rộng như hiện nay người ta đang hiểu. Ví
dụ, ai cũng biết rằng nhiều vấn đề của các thành phố lớn, cũng như những vấn đề
phát sinh do sự sinh sống trong không gian chật chội không thể giải quyết được
bằng biện pháp cạnh tranh. Nhưng những người nói đến sự phức tạp của nền văn
minh hiện đại nhằm biện giải cho tính tất yếu của kế họach hóa lại hòan tòan
không có ý nhắm tới các dịch vụ công cộng và các dịch vụ khác. Họ nói rằng,
ngày càng khó nắm bắt được bức tranh chung của nền kinh tế và nếu chúng ta
không lập ra một tổ chức điều phối trung tâm thì đời sống xã hội sẽ rơi vào hỗn
lọan.
Điều
đó chứng tỏ rằng người ta hòan tòan không hiểu họat động của cạnh tranh. Cạnh
tranh không chỉ được áp dụng trong những tình huống tương đối đơn giản, chính
sự phức tạp trong phân công lao động hiện nay làm cho người ta phải dùng cạnh
tranh, không có biện pháp phối hợp nào khác phù hợp hơn. Nếu các điều kiện đơn
giản đến mức một cá nhân hay cơ quan nào đó có thể theo dõi được tất cả các tác
nhân thì kiểm soát một cách hiệu quả hay kế hoạch hoá không phải là việc khó. Nhưng
nếu các tác nhân nhiều đến mức không thể bao quát được hết thì lối thóat duy
nhất là phi tập trung hóa. Nhưng, nếu phi tập trung hóa là cần thiết thì lại
nảy sinh vấn đề phối hợp - sự phối hợp mà các tác nhân độc lập được tự do điều
chỉnh họat động của mình cho phù hợp với những tình huống mà chỉ có họ mới biết
và điều chỉnh kế hoạch của mình cho phù hợp với kế họach của các tác nhân khác.
Cần phi tập trung hóa vì không ai có thể cân nhắc được hết những toan tính trong
quyết định của rất nhiều cá nhân khác nhau, rõ ràng là không thể phối hợp bằng “kiểm
soát có chủ ý”, mà bằng những sắp xếp bảo đảm cung cấp cho các cá nhân những
thông tin cần thiết để anh ta có thể điều chỉnh quyết định của của mình cho phù
hợp với quyết định của những người khác. Vì không có một trung tâm nào có thể
nắm bắt được chi tiết của những biến đổi ảnh hưởng tới cung cầu của các lọai
hàng hóa khác nhau và cũng không thể kịp thời thu thập và đưa những thông tin
đó đến các bên liên quan, cần một cơ chế tự động ghi nhận tất cả hậu quả liên
quan của từng hành động của từng người riêng biệt và thể hiện các hậu quả đó
dưới một hình thức chung nhất, vừa là kết quả của những quyết định trong quá
khứ vừa là định hướng cho tất cả những quyết định của cá nhân trong tương lai.
Trong
điều kiện cạnh tranh, hệ thống giá cả chính là cơ chế như thế và không có cơ
chế nào khác có thể thay thế được nó. Doanh nhân, bằng cách quan sát sự vận
động của một số tương đối ít giá cả, tương tự như người kĩ sư quan sát sự vận
hành của các bánh răng, có thể điều chỉnh hoạt động của anh ta cho phù hợp với
hoạt động của các doanh nhân khác. Điều quan trọng là hệ thống giá cả chỉ thực
hiện được trọn vẹn chức năng khi cạnh tranh giữ thế thượng phong, nghĩa là, nếu
mỗi nhà sản xuất đều phải thích ứng với sự biến đổi của giá cả, nhưng không thể
kiểm soát được nó. Cái tòan thể càng phức tạp thì chúng ta càng phải dựa vào sự
chia sẻ tri thức giữa các cá nhân, những cố gắng riêng lẻ của các cá nhân như
thế chỉ có thể được điều phối bằng cơ chế phi cá tính, làm nhiệm vụ chuyển tải
thông tin gọi là giá cả.
Không
hề phóng đại khi nói rằng nếu chúng ta phải dựa vào kế hoạch hoá tập trung để
phát triển thì hệ thống công nghiệp không thể nào đạt được mức độ đa dạng, phức
tạp và uyển chuyển như hiện nay. So với phương pháp giải quyết các vấn đề
kinh tế một cách phi tập trung cộng với việc điều phối tự động thì phương pháp
quản lý tập trung càng tỏ ra vụng về, thô thiển và có tầm hoạt động giới hạn
đến khó tin.
Phân
công lao động đã đạt đến mức làm cho sự tồn tại của nền văn minh hiện đại trở
thành khả dĩ, đấy chính là do nó đã không được lập kế họach một cách có chủ ý
mà được xây dựng bằng phương pháp trái ngược hẳn với kế họach hóa. Vì vậy, hệ
thống này càng phức tạp thì càng không cần có lãnh đạo tập trung, chúng ta càng
cần phải sử dụng những biện pháp độc lập với sự kiểm soát một cách có chủ ý.
*
* *
Còn
có một lý thuyết gán sự phát triển của các công ty độc quyền với tiến bộ kĩ
thuật mà lý lẽ trái ngược hòan tòan với những lý lẽ mà chúng ta vừa xem xét; mặc
dù thường không được tuyên bố một cách rõ ràng, nhưng cũng có ảnh hưởng đáng
kể. Lý thuyết này cho rằng không phải kĩ nghệ hiện đại phá hủy cạnh tranh, mà
ngược lại, không thể tận dụng được kĩ thuật hiện đại nếu không có những biện
pháp chống lại cạnh tranh, nghĩa là thiết lập độc quyền. Luận cứ này không hẳn
là bịp bợm, như những độc giả có đầu óc phê phán có thể nghĩ: nếu kĩ thuật mới
thực sự tốt hơn thì nhất định nó sẽ đứng vững trước mọi thách thức. Nhưng hóa
ra có những ví dụ mà nói như thế có vẻ không xuôi. Không nghi ngờ gì rằng trong
đa số trường hợp, đấy chỉ là biện pháp mà những người vụ lợi dùng để biện hộ mà
thôi. Có thể còn là do họ lẫn lộn giữa sự hòan hảo nếu xét từ quan điểm thuần
tuý kĩ thuật với lợi ích nếu xét từ quan điểm của toàn thể xã hội.
Có
một số trường hợp mà luận cứ này có thể được sử dụng. Ví dụ, nền công nghiệp
Anh có thể sản xuất được xe hơi tốt hơn và rẻ hơn xe hơi của Mỹ với điều kiện
là tất cả dân Anh đều chỉ đi một lọai xe duy nhất, hay điện năng rẻ hơn than đá
và khí đốt với điều kiện là tất cả đều chỉ sử dụng điện. Trong những ví dụ đó,
người ta đã đưa ra mô hình về khả năng cải thiện phúc lợi nếu thay vì lựa chọn
chúng ta sẵn sàng chấp nhận một hòan cảnh mới - nhưng vấn đề là chẳng có lựa
chọn nào ở đây hết, vì, hoặc là tất cả mọi người cùng đi trên một lọai xe giá
rẻ (hay sử dụng điện giá rẻ) hoặc có điều kiện lựa chọn các mẫu khác nhau của
cùng một lọai hàng hóa nhưng giá đắt hơn. Tôi không rõ những ví dụ bên trên
đúng đến mức nào. Nhưng phải nói thêm rằng việc buộc người ta dùng hàng theo
tiêu chuẩn hay ngăn cấm sự đa dạng vượt quá một mức nào đó có thể tạo ra sự dồi
dào trong một số lĩnh vực nhất định, đủ bù lại sự hạn chế lựa chọn của người
tiêu dùng. Thậm chí có thể giả định rằng một ngày nào đó người ta sẽ đưa ra
phát minh có lợi lớn cho xã hội với điều kiện là tất cả hay gần như tất cả mọi
người đều sử dụng phát minh đó cùng một lúc.
Dù
có quan trọng và kéo dài đến đâu, các ví dụ này cũng không cho chúng ta quyền
khẳng định rằng tiến bộ kĩ thuật nhất định sẽ dẫn đến kế họach hóa tập trung.
Đơn giản là trong những trường hợp như thế ta buộc phải lựa chọn: được lợi
nhưng bị ép buộc hoặc chẳng được gì cả - hoặc có thể sau này, khi khắc phục
được các khó khăn về kĩ thuật, sẽ được lợi đôi chút. Đúng là đôi khi chúng ta
vì tự do mà phải hi sinh lợi ích trực tiếp, nhưng, mặt khác, chúng ta phải
tránh để làm sao cho sự phát triển không phụ thuộc vào kiến thức mà hiện nay
một số người đã nắm được. Bằng cách hi sinh những lợi ích khả dĩ tức thời,
chúng ta giữ được tiềm lực quan trọng cho phát triển trong tương lai. Mặc dù
trong ngắn hạn, đôi khi giá phải trả cho sự đa dạng và tự do lựa chọn có thể là
cao, nhưng trong dài hạn, ngay cả tiến bộ về vật chất cũng phụ thuộc vào chính sự
đa dạng này, vì chúng ta không thể nào dự đoán được hình thức hàng hoá hay dịch
vụ nào có thể cung cấp những điều kiện phát triển tốt hơn. Dĩ nhiên là, không
thể khẳng định rằng trong mọi trường hợp, sự hi sinh một số lợi thế hiện tại
nhân danh tự do sẽ được tưởng thưởng trong tương lai. Nhưng, vấn đề chủ yếu là
lúc nào chúng ta cũng phải tạo cơ hội cho các xu hướng phát triển mà ta không
thể nào dự đoán được. Điều này đúng, ngay cả khi theo hiểu biết hiện có của
chúng ta thì ép buộc sẽ chỉ đem lại lợi ích hoặc ngay cả khi trong những trường
hợp cụ thể nó không gây bất kì tác hại nào.
Trong
các cuộc thảo luận về ảnh hưởng của tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ hiện nay,
tiến bộ thường được lý giải như là một cái gì đó nằm ngoài chúng ta và buộc
chúng ta phải sử dụng kiến thức mới theo một cách nhất định nào đó. Dĩ nhiên,
đúng là các phát minh khác nhau đã cho chúng ta sức mạnh vô cùng to lớn, nhưng thật
vô lí khi cho rằng chúng ta phải sử dụng sức mạnh này để phá huỷ cái di sản quí
giá nhất của chúng ta: Tự do. Tuy nhiên, nó có nghĩa rằng nếu muốn bảo vệ tự do,
hơn lúc nào hết, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ nó và phải luôn luôn sẵn sàng hi
sinh vì tự do. Phát triển của kĩ thuật hiện đại không đẩy chúng ta vào con
đường kế hoạch hoá toàn bộ nền kinh tế, trong khi đó, chính sự phát triển của
kĩ thuật lại làm cho quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trở thành vô cùng nguy
hiểm.
*
* *
Bây
giờ, sau khi chẳng còn mấy nghi ngờ rằng chuyển động theo hướng kế hoạch hoá là
kết quả của hành động cố ý và không có nhu cầu tất yếu ngoại tại nào buộc chúng
ta phải làm như thế, cần phải xem xét vì sao các chuyên gia trong lĩnh vực kĩ
thuật lại chiếm tỉ lệ lớn đến như thế trên tuyến đầu của những người ủng hộ kế
hoạch hoá. Việc giải thích hiện tượng này liên quan mật thiết đến một sự kiện
quan trọng mà những người phê phán phải luôn ghi nhớ: Vấn đề là mọi lý tưởng kĩ
thuật của các chuyên gia của chúng ta đều có thể được thực hiện trong một thời
gian tương đối ngắn nếu có thể buộc cả loài người coi đấy là mục tiêu duy nhất.
Trên đời có rất nhiều thứ đáng mơ ước, thậm chí có thể đạt được, nhưng trong
đời mình chúng ta chỉ có thể đạt được vài thứ mà thôi hoặc chúng ta có thể hi
vọng đạt được nhưng rất không hoàn hảo. Chỉ có sự vỡ mộng của một chuyên gia kĩ
thuật trong lĩnh vực của mình mới buộc anh ta đứng lên chống lại trật tự hiện
hữu. Tất cả chúng ta đều khó chấp nhận các công việc chưa hoàn thiện, đặc biệt
khi đấy là những việc được mọi người coi là vừa đáng có vừa nằm trong tầm tay.
Vấn đề là, không thể làm tất cả cùng một lúc, muốn hoàn thành một công việc thì
phải hi sinh những công việc khác – chỉ có thể nhìn thấy điều này nếu ta chú ý
đến các nhân tố nằm ngoài tầm mắt của giới chuyên môn hạn hẹp; càng đau đớn hơn
khi nó buộc ta phải nỗ lực tư duy trên một bình diện rộng lớn vì ta phải xem
xét kỹ lưỡng các mục tiêu mà phần lớn chúng ta đang hướng công sức vào và cân
đối chúng với những công việc khác vốn ít được chú ý vì nằm ngoài sự quan tâm
trực tiếp của chúng ta.
Mỗi
một mục tiêu, nếu xem xét một cách riêng rẽ, có thể đạt được trong xã hội kế
hoạch hóa sẽ sinh ra hàng loạt những người nhiệt tình, đấy là những người tin
rằng họ sẽ thuyết phục được giới lãnh đạo tương lai giá trị của mục tiêu này;
và chắc chắn là một số người trong bọn họ sẽ thành công bởi vì xã hội kế hoạch hóa
sẽ thúc đẩy một số mục tiêu nào đó nhanh hơn là hiện nay. Sẽ là ngốc nghếch khi
phủ nhận những trường hợp mà các nước kế hoạch hóa hoặc kế hoạch hoá một phần
cung cấp - để minh họa - cho dân chúng một số hàng hoá hoặc dịch vụ tốt mà nhờ
kế hoạch hóa họ mới được hưởng. Người ta thường đưa những con đường ô tô cao
tốc ở Đức và Ý ra làm dẫn chứng, mặc dù những con đường như thế là sản phẩm của
những kế hoạch có thể được thực hiện cả trong những xã hội tự do. Lấy những
thành tựu kĩ thuật trong những lĩnh vực riêng biệt làm dẫn chứng, chứng minh
tính ưu việt của nền kinh tế kế hoạch hoá cũng là việc làm ngốc nghếch tương
tự. Đúng ra, khi thấy một vài thành tựu kĩ thuật nổi bật trên nền bức tranh
phát triển khiêm tốn chung thì ta phải nói: đấy chính là bằng chứng chứng tỏ
rằng các nguồn lực đã bị sử dụng sai. Những ai đã từng đi trên các con đường
cao tốc nổi tiếng ở Đức đều thấy rằng mật độ xe cộ ở đó còn ít hơn mật độ xe cộ
trên những con đường loại hai ở Anh, sẽ đồng ý rằng việc xây những con đường
như thế, từ quan điểm của thời bình, là khó có thể biện hộ được. Những người
lập kế hoạch làm việc này vì nhu cầu của “đại bác” thay vì nhu cầu của “bánh
mì” lại là chuyện khác[5]. Nhưng theo
tiêu chuẩn của chúng ta thì đấy không phải là việc đáng vui mừng.
Ảo
tưởng của các chuyên gia khi cho rằng, trong xã hội kế hoạch hoá, họ sẽ giành
được nhiều nguồn lực để đạt cho được các mục tiêu mà họ quan tâm là hiện tượng
bao quát hơn là thuật ngữ “chuyên gia” ngầm định. Tất cả chúng ta đều quan tâm
đến một vấn đề nào đó, đều thích một cái gì đó hơn; theo nghĩa này thì tất cả
chúng ta đều là chuyên gia. Tất cả chúng ta thường nghĩ rằng thang giá trị
riêng của chúng ta có ý nghĩa không chỉ với chúng ta và nếu được thảo luận một
cách tự do với những người duy lý, chúng ta có thể thuyết phục được họ rằng thang
giá trị của chúng ta là đúng. Dù đấy là người yêu phong cảnh thiên nhiên đang
kêu gọi bảo vệ sự trong lành nguyên thuỷ của nó và loại bỏ sự ô nhiễm của nền
công nghiệp hay người kêu gọi một cách sống sạch sẽ cho rằng cần phải phá bỏ
tất cả những ngôi nhà thôn dã sinh động nhưng thiếu vệ sinh hay một người lái
xe đang mơ ước làm sao khắp nơi đều có những con đường cao tốc rộng lớn và
thuận lợi; hay một người chỉ chăm chăm vào việc nâng cao năng suất lao động,
luôn luôn kêu gọi phải chuyên môn hoá và cơ khí hoá tất tần tật; hay một người
mộng mơ cho rằng cần phải giữ cho được càng nhiều thợ thủ công độc lập thì càng
tốt, vì chỉ có như thế thì các cá nhân mới có thể phát triển toàn diện được -
tất cả những người đó đều biết rằng chỉ có kế hoạch hoá thì mục đích của họ mới
có thể thành tựu hoàn toàn và tất cả bọn họ đều ủng hộ kế hoạch hoá là vì thế.
Nhưng chắc chắn là kế hoạch hoá xã hội, nếu được áp dụng, sẽ làm lộ ra những
mâu thuẫn ngấm ngầm giữa các mục đích của chính họ.
Phong
trào ủng hộ kế hoạch hoá mạnh như thế là vì hiện nay đây mới chỉ là tham vọng,
nó lôi kéo được hầu như tất cả những người có lý tưởng, sẵn sàng hi sinh cả
cuộc đời cho một nhiệm vụ nào đó. Tuy nhiên, hi vọng mà họ đặt vào kế hoạch hoá
là kết quả của một cách hiểu xã hội rất hạn hẹp của họ, và thường là kết quả
của một sự khuyếch đại quá mức những mục tiêu mà họ cho là quan trọng nhất.
Điều đó thực ra không làm giảm giá trị của họ trong xã hội tự do, như xã hội của
chúng ta, ở đây họ còn được mọi người thán phục nữa. Nhưng, nếu như kế hoạch
hóa được phép làm thì chính những người kêu gào kế hoạch hoá to mồm nhất sẽ trở
thành những kẻ nguy hiểm nhất, và là những kẻ không khoan nhượng nhất đối với
kế hoạch của những người khác. Từ người mộng mơ thánh thiện đến kẻ cuồng tín chỉ
là một bước ngắn. Và, mặc dù hiện nay các chuyên gia bất mãn chính là những
người kêu gọi kế hoạch hoá to mồm nhất, thật khó tưởng tượng nổi sự khủng khiếp
và phi lý của cái thế giới, nơi mà giả dụ, các chuyên gia lớn nhất trong những
lĩnh vực khác nhau được tự do thực hiện các lý tưởng của mình mà không có sự
kiểm soát nào. Và dù những người ủng hộ kế hoạch hoá có nói gì đi nữa thì “điều
phối” cũng không thể trở thành một chuyên ngành mới được. Các nhà kinh tế học
biết rõ hơn ai hết rằng họ không có kiến thức mà “điều phối viên” cần. Họ ủng
hộ biện pháp điều phối mà không cần nhà độc tài toàn trí toàn năng. Nhưng điều
đó chỉ có nghĩa là duy trì sự kiểm soát vô nhân tính, thường là khó hiểu đối
với những nỗ lực của các cá nhân, sự kiểm soát mà các nhà chuyên môn kịch liệt
phản đối.
[1] Vấn đề này được giáo sư Leonel Robins thảo
luận kĩ trong trong tiểu luận: “The Inevitability of Monopoly”, Economic Basis of Class Conflict (1939),
p. 45-80.
[2] Final Report and Recommendations of the
Temporary National Economic Committee. 77th Congress, 1st Session, Senate
Document, No 35, 1941. P. 89
[3] Wilcox С. Competition and Monopoly in American
Industry. -- "Temporary National Economic Committee", Monograph, No.
21, 1940. P. 314
[4] Reinhold Niebuhr. Moral Man and Immoral Society (Con
người đức hạnh và xã hội vô luân) (1932)
[5] Khi tôi tôi đọc bản in thử cuốn sách này thì nhận
được tin là công việc duy tu bảo dưỡng các xa lộ ở Đức đã tạm ngưng!
bài viết rất hay
ReplyDelete