June 17, 2020

Đường về nô lệ (7)


IV. Kế hoạch hoá là “tất yếu”?

Chúng tôi là những người đầu tiên nói rằng
nền văn minh càng có những hình thức phức tạp
thì tự do cá nhân càng phải bị hạn chế.

Benito Mussolini

Rõ ràng là hiện nay ít người ủng hộ kế hoạch hoá còn có thể vênh vang nói rằng kế hoạch hoá tập trung là điều đáng mơ ước nữa. Hiện nay, đa phần những người đó đều khẳng định rằng chúng ta không có lựa chọn nào khác, những hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta buộc chúng ta phải dùng kế họach hóa thay thế cho cạnh tranh. Những người ủng hộ kế họach hóa tìm mọi cách nuôi dưỡng cái huyền thọai rằng chúng ta đi theo đường lối mới không phải vì chúng ta muốn như thế, mà sự thay đổi trong lĩnh vực công nghệ đã tự động loại bỏ dần cạnh tranh; chúng ta không thể đảo ngược cũng như không thể ngăn chặn tiến trình tự nhiên này. Lý lẽ chỉ dừng lại ở đây – đấy là một trong những khẳng định được hết người cầm bút này tới người cầm bút khác sao chép lại, cho đến khi, nhờ lặp đi lặp lại như thế mà được coi như sự kiện đã được xác lập. Tuy vậy, đây là một khẳng định hòan tòan thiếu cơ sở. Xu hướng độc quyền và kế họach hóa hòan tòan không phải là kết quả của “những sự kiện khách quan” nào đó nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta mà là sản phẩm những quan điểm được quảng bá và tuyên truyền trong suốt nửa thế kỉ qua, cho đến khi những quan điểm này chi phối tất cả các chính sách của chúng ta. 


Một trong những luận cứ thường được sử dụng, một trong những luận cứ người ta thường nói để chứng minh tính tất yếu của kế họach hóa là: Những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ làm cho cạnh tranh trở thành ngày càng bất khả thi trong nhiều lĩnh vực, chúng ta chỉ có một trong hai lựa chọn, đấy là các công ty độc quyền tư nhân hay chính phủ sẽ kiểm soát sản xuất mà thôi. Niềm tin này phát sinh chủ yếu từ học thuyết Marxist về “tập trung sản xuất”, và, cũng như nhiều tư tưởng Marxist khác, nó được nhiều người sao chép, vay mượn quá đến nỗi người ta thường sử dụng mà chẳng biết xuất xứ từ đâu. 

Các công ty độc quyền ngày càng tăng cường sức mạnh đồng thời với việc thu hẹp lĩnh vực cạnh tranh diễn ra trong suốt năm mươi năm qua là sự kiện lịch sử không thể chối cãi, tuy mức độ đôi khi bị thổi phồng một cách quá đáng[1]. Nhưng vấn đề quan trọng là sự gia tăng độc quyền có phải là hậu quả tất yếu của phát triển công nghệ hay đấy là đơn giản chỉ kết qủa của chính sách mà nhiều nước đang theo đuổi. Như chúng ta sẽ thấy ở đây, lịch sử phát triển ủng hộ giả thuyết thứ hai. Nhưng trước hết chúng ta phải xem xét để trả lời câu hỏi liệu những tiến bộ của kĩ thuật hiện đại có tất yếu dẫn đến việc mở rộng độc quyền hay không. 

Người ta thường nói rằng, ưu việt về mặt kĩ thuật của các xí nghiệp lớn là các dây chuyền sản xuất hàng lọat với hiệu suất cao hơn là nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự gia tăng độc quyền. Người ta khẳng định rằng, trong phần lớn các ngành, các phương pháp hiện đại đã tạo ra những điều kiện giúp cho các xí nghiệp lớn gia tăng sản lượng, đồng thời giảm giá thành trên từng đơn vị sản phẩm. Kết quả là, với giá cả thấp hơn, các hãng lớn sẽ hất cẳng các hãng nhỏ và với đà phát triển như thế, trong mỗi ngành sẽ chỉ còn lại một hoặc một vài hãng khổng lồ mà thôi. Luận cứ này chỉ xem xét có một xu hướng, đôi khi, song hành với tiến bộ kĩ thuật và bỏ qua các xu hướng ngược lại, khi nghiên cứu kĩ ta sẽ tìm thấy ít sự kiện ủng hộ cho giả thuyết này. Chúng ta không thể khảo sát vấn đề này một cách chi tiết ở đây, đành phải hài lòng với bằng chứng tốt nhất hiện có. Ở Mỹ, một công trình nghiên cứu tòan diện nhất các tác nhân liên quan đến vấn đề này được Hội đồng Kinh tế Quốc gia Lâm thời tiến hành trong thời gian gần đây có nhan đề Concentration of Economic Power (Sự tập trung sức mạnh kinh tế). Báo cáo cuối cùng của Hội đồng (không thể bị tố cáo là quá thiên về phái tự do) kết luận một cách rõ ràng rằng, quan điểm cho là hiệu quả lớn hơn của sản xuất quy mô lớn là nguyên nhân thủ tiêu cạnh tranh “không được các sự kiện mà chúng ta có trong tay ủng hộ[2]”. Cuốn sách chuyên khảo chi tiết được chuẩn bị cho Hội đồng đã tổng kết cuộc thảo luận về vấn đề này như sau:

“Hiệu quả vượt trội của các xí nghiệp lớn chưa được chứng minh; các lợi thế được cho là có thể huỷ hoại cạnh tranh đã không được thể hiện trong nhiều lĩnh vực. Các lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn, nếu có, không nhất thiết dẫn tới độc quyền… Xí nghiệp có thể có quy mô tối ưu trước khi phần lớn nguồn cung ứng bị kiểm sóat theo lối độc quyền. Kết luận rằng lợi thế của sản xuất quy mô lớn nhất định sẽ dẫn đến tiêu diệt cạnh tranh là không thể chấp nhận được. Hơn nữa, cần ghi nhận rằng độc quyền thường xuất hiện dưới tác động của các tác nhân khác chứ không phải là do giá cả thấp nhờ sản xuất với quy mô lớn. Độc quyền thường là kết quả của những thoả thuận ngầm và được thúc đẩy bởi chính sách của chính phủ. Khi các thoả thuận này bị xóa bỏ và khi những chính sách này được xem xét lại một cách toàn diện thì có thể tái lập được những điều kiện cho cạnh tranh[3]”. 

Nghiên cứu tình hình ở Anh cũng sẽ dẫn đến các kết quả tương tự. Bất kì người nào từng chứng kiến sự nhiệt tình của các doanh nhân độc quyền trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của nhà nước và việc họ thường nhận được sự ủng hộ cần thiết trong việc duy trì sự kiểm soát đối với thị trường sẽ không còn một chút nghi ngờ nào về tính tất yếu của quá trình phát triển như thế.
 
Ta còn dễ dàng đồng ý với kết luận trên, nếu xét đến trình tự xuất hiện của quá trình suy giảm cạnh tranh và mở rộng độc quyền ở những nước khác nhau. Nếu đấy là kết quả của tiến bộ kĩ thuật hay sản phẩm tất yếu của “chủ nghĩa tư bản” thì chắc chắn nó phải xảy ra trước tiên ở các nước có hệ thống kinh tế phát triển nhất. Trên thực tế, lần đầu tiên quá trình này xuất hiện vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX ở các nước có nền công nghiệp tương đối non trẻ, tức là ở Mỹ và Đức. Ở Đức, nước được coi là hình mẫu của quy luật tiến hóa tất yếu của chủ nghĩa tư bản, từ năm 1878 nhà nước đã thi hành một cách có hệ thống các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các cartel và các nghiệp đoàn. Các chính phủ không chỉ sử dụng chính sách bảo hộ mà còn áp dụng các biện pháp khuyến khích trực tiếp, thậm chí cưỡng ép với mục đích đẩy nhanh quá trình thành lập các tập đoàn độc quyền nhằm điều tiết giá cả và lượng hàng hóa bán ra. Chính ở Đức, nhờ sự giúp đỡ của nhà nước, người ta đã tiến hành thí nghiệm vĩ đại đầu tiên trong việc “lập kế hoạch một cách khoa học” và “tổ chức một cách có chủ ý nền công nghiệp” dẫn đến việc hình thành các công ty độc quyền khổng lồ, các công ty này được coi là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế năm mươi năm trước khi những việc như thế được thực hiện ở Anh. Phần lớn là do ảnh hưởng của những lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Sombart, những người đã khái quát hóa kinh nghiệm nước mình, mà sự chuyển hóa tất yếu của hệ thống cạnh tranh thành “chủ nghĩa tư bản độc quyền” mới được nhiều người chấp nhận. Ở Mỹ, chính sách bảo hộ mạnh mẽ đã tạo ra quá trình phát triển tương tự như ở Đức dường như khẳng định khái quát hóa nói trên. Nhưng Đức chứ không phải Mỹ được coi là đại diện cho xu hướng phát triển phổ quát của chủ nghĩa tư bản và đương nhiên là có thể nói – xin trích dẫn một tiểu luận được nhiều người đọc trong những ngày chưa xa – “Đức là nước mà tất cả các lực lượng chính trị và xã hội của nền văn minh hiện đại đã đạt được mức độ phát triển nhất[4]”.

Theo dõi quá trình phát triển ở Anh trước và sau năm 1931, thời điểm đất nước chuyển sang chủ nghĩa bảo hộ, sẽ cho chúng ta thấy tính tất yếu đóng góp chẳng bao nhiêu, mà kết quả chủ yếu là do chính sách có chủ ý của chính phủ. Mới khoảng mười hai năm trước đây, nền công nghiệp Anh, trừ một vài ngành đã nằm dưới sự bảo hộ của chính phủ, nói chung là cạnh tranh, có thể nói, như bất kì giai đoạn nào khác trong lịch sử. Và, mặc dù trong những năm 1920 đã bị khốn đốn vì hậu quả của hai chương trình, lương và tiền, trái ngược nhau, nhưng, ít nhất, đến năm 1929, tỉ lệ người có việc làm và hoạt động kinh tế không hề kém hơn những năm 1930. Chỉ từ khi chuyển sang những biện pháp bảo hộ và những thay đổi khác kèm theo trong chính sách kinh tế thì các công ty độc quyền mới có bước phát triển nhanh đến chóng mặt và đã biến đổi nền công nghiệp Anh đến mức đa số dân chúng còn chưa nhận thức được. Khẳng định rằng, các sự kiện này phụ thuộc - trong chừng mực nào đó - vào sự tiến bộ kĩ thuật diễn ra trong cùng thời kì, khẳng định rằng “cái tất yếu” từng xảy ra ở Đức hồi những năm 1880-1890 và bây giờ bỗng xuất hiện ở Anh thì cũng lố bịch chẳng khác gì theo đuôi Mussolini mà nhắc lại rằng nước Ý phải tiêu diệt tự do cá nhân trước các nước khác vì nền văn minh của nó đã vượt xa nền văn minh của tất cả các dân tộc khác trên thế giới!

Nói riêng về nước Anh, một nước trong một thời gian dài vốn đứng bên ngòai các cuộc thảo luận mang tính trí tuệ diễn ra trong nhiều nước khác, ta có cảm tưởng rằng sự thay đổi các quan điểm và chính sách ở đây thường đi sau các sự kiện thực tế, những sự kiện mà theo một ý nghĩa nào đó là tất yếu. Có thể khẳng định rằng tổ chức theo lối độc quyền nền công nghiệp ở đây trái ngược hẳn với thái độ của công chúng, vốn ưa thích cạnh tranh hơn; chính những sự kiện ở bên ngoài đã làm lung lay ước muốn của họ. Nhưng muốn hiểu rõ quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn thì phải nghiên cứu nước Đức vì Đức chính là nguyên mẫu cho quá trình phát triển này. Không nghi ngờ gì rằng chính ở Đức, người ta đã cố tình ngăn cản cạnh tranh nhân danh cái lý tưởng mà hiện nay chúng ta gọi là kế họach hóa. Đức và các dân tộc bắt chước họ đang tiến một cách nhất quán đến xã hội được lập kế họach về mọi phương diện, tức là họ đi theo đường lối do các nhà tư tưởng thế kỉ XIX, mà đa số cũng là người Đức, vạch ra. Như vậy nghĩa là, lịch sử tư tưởng trong sáu mươi – tám mươi năm qua là minh chứng hùng hồn cho luận điểm nói rằng, trong sự phát triển của xã hội chẳng có gì có thể gọi là tất yếu hết, chính tư duy đã làm cho nó trở thành như thế.

* * *
Có thể giải thích lời khẳng định rằng, tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ đã làm cho kế họach hóa trở thành tất yếu theo một cách khác. Đấy là nền văn minh công nghiệp phức tạp của chúng ta đã sản sinh ra nhiều vấn đề mới, không có một kế họach tập trung thì không thể giải quyết được. Theo một nghĩa nào đó thì đúng là như thế, nhưng không phải theo nghĩa rộng như hiện nay người ta đang hiểu. Ví dụ, ai cũng biết rằng nhiều vấn đề của các thành phố lớn, cũng như những vấn đề phát sinh do sự sinh sống trong không gian chật chội không thể giải quyết được bằng biện pháp cạnh tranh. Nhưng những người nói đến sự phức tạp của nền văn minh hiện đại nhằm biện giải cho tính tất yếu của kế họach hóa lại hòan tòan không có ý nhắm tới các dịch vụ công cộng và các dịch vụ khác. Họ nói rằng, ngày càng khó nắm bắt được bức tranh chung của nền kinh tế và nếu chúng ta không lập ra một tổ chức điều phối trung tâm thì đời sống xã hội sẽ rơi vào hỗn lọan.

Điều đó chứng tỏ rằng người ta hòan tòan không hiểu họat động của cạnh tranh. Cạnh tranh không chỉ được áp dụng trong những tình huống tương đối đơn giản, chính sự phức tạp trong phân công lao động hiện nay làm cho người ta phải dùng cạnh tranh, không có biện pháp phối hợp nào khác phù hợp hơn. Nếu các điều kiện đơn giản đến mức một cá nhân hay cơ quan nào đó có thể theo dõi được tất cả các tác nhân thì kiểm soát một cách hiệu quả hay kế hoạch hoá không phải là việc khó. Nhưng nếu các tác nhân nhiều đến mức không thể bao quát được hết thì lối thóat duy nhất là phi tập trung hóa. Nhưng, nếu phi tập trung hóa là cần thiết thì lại nảy sinh vấn đề phối hợp - sự phối hợp mà các tác nhân độc lập được tự do điều chỉnh họat động của mình cho phù hợp với những tình huống mà chỉ có họ mới biết và điều chỉnh kế hoạch của mình cho phù hợp với kế họach của các tác nhân khác. Cần phi tập trung hóa vì không ai có thể cân nhắc được hết những toan tính trong quyết định của rất nhiều cá nhân khác nhau, rõ ràng là không thể phối hợp bằng “kiểm soát có chủ ý”, mà bằng những sắp xếp bảo đảm cung cấp cho các cá nhân những thông tin cần thiết để anh ta có thể điều chỉnh quyết định của của mình cho phù hợp với quyết định của những người khác. Vì không có một trung tâm nào có thể nắm bắt được chi tiết của những biến đổi ảnh hưởng tới cung cầu của các lọai hàng hóa khác nhau và cũng không thể kịp thời thu thập và đưa những thông tin đó đến các bên liên quan, cần một cơ chế tự động ghi nhận tất cả hậu quả liên quan của từng hành động của từng người riêng biệt và thể hiện các hậu quả đó dưới một hình thức chung nhất, vừa là kết quả của những quyết định trong quá khứ vừa là định hướng cho tất cả những quyết định của cá nhân trong tương lai. 

Trong điều kiện cạnh tranh, hệ thống giá cả chính là cơ chế như thế và không có cơ chế nào khác có thể thay thế được nó. Doanh nhân, bằng cách quan sát sự vận động của một số tương đối ít giá cả, tương tự như người kĩ sư quan sát sự vận hành của các bánh răng, có thể điều chỉnh hoạt động của anh ta cho phù hợp với hoạt động của các doanh nhân khác. Điều quan trọng là hệ thống giá cả chỉ thực hiện được trọn vẹn chức năng khi cạnh tranh giữ thế thượng phong, nghĩa là, nếu mỗi nhà sản xuất đều phải thích ứng với sự biến đổi của giá cả, nhưng không thể kiểm soát được nó. Cái tòan thể càng phức tạp thì chúng ta càng phải dựa vào sự chia sẻ tri thức giữa các cá nhân, những cố gắng riêng lẻ của các cá nhân như thế chỉ có thể được điều phối bằng cơ chế phi cá tính, làm nhiệm vụ chuyển tải thông tin gọi là giá cả.

Không hề phóng đại khi nói rằng nếu chúng ta phải dựa vào kế hoạch hoá tập trung để phát triển thì hệ thống công nghiệp không thể nào đạt được mức độ đa dạng, phức tạp và uyển chuyển như hiện nay. So với phương pháp giải quyết các vấn đề kinh tế một cách phi tập trung cộng với việc điều phối tự động thì phương pháp quản lý tập trung càng tỏ ra vụng về, thô thiển và có tầm hoạt động giới hạn đến khó tin. Phân công lao động đã đạt đến mức làm cho sự tồn tại của nền văn minh hiện đại trở thành khả dĩ, đấy chính là do nó đã không được lập kế họach một cách có chủ ý mà được xây dựng bằng phương pháp trái ngược hẳn với kế họach hóa. Vì vậy, hệ thống này càng phức tạp thì càng không cần có lãnh đạo tập trung, chúng ta càng cần phải sử dụng những biện pháp độc lập với sự kiểm soát một cách có chủ ý.
* * *

Còn có một lý thuyết gán sự phát triển của các công ty độc quyền với tiến bộ kĩ thuật mà lý lẽ trái ngược hòan tòan với những lý lẽ mà chúng ta vừa xem xét; mặc dù thường không được tuyên bố một cách rõ ràng, nhưng cũng có ảnh hưởng đáng kể. Lý thuyết này cho rằng không phải kĩ nghệ hiện đại phá hủy cạnh tranh, mà ngược lại, không thể tận dụng được kĩ thuật hiện đại nếu không có những biện pháp chống lại cạnh tranh, nghĩa là thiết lập độc quyền. Luận cứ này không hẳn là bịp bợm, như những độc giả có đầu óc phê phán có thể nghĩ: nếu kĩ thuật mới thực sự tốt hơn thì nhất định nó sẽ đứng vững trước mọi thách thức. Nhưng hóa ra có những ví dụ mà nói như thế có vẻ không xuôi. Không nghi ngờ gì rằng trong đa số trường hợp, đấy chỉ là biện pháp mà những người vụ lợi dùng để biện hộ mà thôi. Có thể còn là do họ lẫn lộn giữa sự hòan hảo nếu xét từ quan điểm thuần tuý kĩ thuật với lợi ích nếu xét từ quan điểm của toàn thể xã hội.

Có một số trường hợp mà luận cứ này có thể được sử dụng. Ví dụ, nền công nghiệp Anh có thể sản xuất được xe hơi tốt hơn và rẻ hơn xe hơi của Mỹ với điều kiện là tất cả dân Anh đều chỉ đi một lọai xe duy nhất, hay điện năng rẻ hơn than đá và khí đốt với điều kiện là tất cả đều chỉ sử dụng điện. Trong những ví dụ đó, người ta đã đưa ra mô hình về khả năng cải thiện phúc lợi nếu thay vì lựa chọn chúng ta sẵn sàng chấp nhận một hòan cảnh mới - nhưng vấn đề là chẳng có lựa chọn nào ở đây hết, vì, hoặc là tất cả mọi người cùng đi trên một lọai xe giá rẻ (hay sử dụng điện giá rẻ) hoặc có điều kiện lựa chọn các mẫu khác nhau của cùng một lọai hàng hóa nhưng giá đắt hơn. Tôi không rõ những ví dụ bên trên đúng đến mức nào. Nhưng phải nói thêm rằng việc buộc người ta dùng hàng theo tiêu chuẩn hay ngăn cấm sự đa dạng vượt quá một mức nào đó có thể tạo ra sự dồi dào trong một số lĩnh vực nhất định, đủ bù lại sự hạn chế lựa chọn của người tiêu dùng. Thậm chí có thể giả định rằng một ngày nào đó người ta sẽ đưa ra phát minh có lợi lớn cho xã hội với điều kiện là tất cả hay gần như tất cả mọi người đều sử dụng phát minh đó cùng một lúc. 

Dù có quan trọng và kéo dài đến đâu, các ví dụ này cũng không cho chúng ta quyền khẳng định rằng tiến bộ kĩ thuật nhất định sẽ dẫn đến kế họach hóa tập trung. Đơn giản là trong những trường hợp như thế ta buộc phải lựa chọn: được lợi nhưng bị ép buộc hoặc chẳng được gì cả - hoặc có thể sau này, khi khắc phục được các khó khăn về kĩ thuật, sẽ được lợi đôi chút. Đúng là đôi khi chúng ta vì tự do mà phải hi sinh lợi ích trực tiếp, nhưng, mặt khác, chúng ta phải tránh để làm sao cho sự phát triển không phụ thuộc vào kiến thức mà hiện nay một số người đã nắm được. Bằng cách hi sinh những lợi ích khả dĩ tức thời, chúng ta giữ được tiềm lực quan trọng cho phát triển trong tương lai. Mặc dù trong ngắn hạn, đôi khi giá phải trả cho sự đa dạng và tự do lựa chọn có thể là cao, nhưng trong dài hạn, ngay cả tiến bộ về vật chất cũng phụ thuộc vào chính sự đa dạng này, vì chúng ta không thể nào dự đoán được hình thức hàng hoá hay dịch vụ nào có thể cung cấp những điều kiện phát triển tốt hơn. Dĩ nhiên là, không thể khẳng định rằng trong mọi trường hợp, sự hi sinh một số lợi thế hiện tại nhân danh tự do sẽ được tưởng thưởng trong tương lai. Nhưng, vấn đề chủ yếu là lúc nào chúng ta cũng phải tạo cơ hội cho các xu hướng phát triển mà ta không thể nào dự đoán được. Điều này đúng, ngay cả khi theo hiểu biết hiện có của chúng ta thì ép buộc sẽ chỉ đem lại lợi ích hoặc ngay cả khi trong những trường hợp cụ thể nó không gây bất kì tác hại nào.

Trong các cuộc thảo luận về ảnh hưởng của tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ hiện nay, tiến bộ thường được lý giải như là một cái gì đó nằm ngoài chúng ta và buộc chúng ta phải sử dụng kiến thức mới theo một cách nhất định nào đó. Dĩ nhiên, đúng là các phát minh khác nhau đã cho chúng ta sức mạnh vô cùng to lớn, nhưng thật vô lí khi cho rằng chúng ta phải sử dụng sức mạnh này để phá huỷ cái di sản quí giá nhất của chúng ta: Tự do. Tuy nhiên, nó có nghĩa rằng nếu muốn bảo vệ tự do, hơn lúc nào hết, chúng ta phải kiên quyết bảo vệ nó và phải luôn luôn sẵn sàng hi sinh vì tự do. Phát triển của kĩ thuật hiện đại không đẩy chúng ta vào con đường kế hoạch hoá toàn bộ nền kinh tế, trong khi đó, chính sự phát triển của kĩ thuật lại làm cho quyền lực của cơ quan lập kế hoạch trở thành vô cùng nguy hiểm.
* * *
Bây giờ, sau khi chẳng còn mấy nghi ngờ rằng chuyển động theo hướng kế hoạch hoá là kết quả của hành động cố ý và không có nhu cầu tất yếu ngoại tại nào buộc chúng ta phải làm như thế, cần phải xem xét vì sao các chuyên gia trong lĩnh vực kĩ thuật lại chiếm tỉ lệ lớn đến như thế trên tuyến đầu của những người ủng hộ kế hoạch hoá. Việc giải thích hiện tượng này liên quan mật thiết đến một sự kiện quan trọng mà những người phê phán phải luôn ghi nhớ: Vấn đề là mọi lý tưởng kĩ thuật của các chuyên gia của chúng ta đều có thể được thực hiện trong một thời gian tương đối ngắn nếu có thể buộc cả loài người coi đấy là mục tiêu duy nhất. Trên đời có rất nhiều thứ đáng mơ ước, thậm chí có thể đạt được, nhưng trong đời mình chúng ta chỉ có thể đạt được vài thứ mà thôi hoặc chúng ta có thể hi vọng đạt được nhưng rất không hoàn hảo. Chỉ có sự vỡ mộng của một chuyên gia kĩ thuật trong lĩnh vực của mình mới buộc anh ta đứng lên chống lại trật tự hiện hữu. Tất cả chúng ta đều khó chấp nhận các công việc chưa hoàn thiện, đặc biệt khi đấy là những việc được mọi người coi là vừa đáng có vừa nằm trong tầm tay. Vấn đề là, không thể làm tất cả cùng một lúc, muốn hoàn thành một công việc thì phải hi sinh những công việc khác – chỉ có thể nhìn thấy điều này nếu ta chú ý đến các nhân tố nằm ngoài tầm mắt của giới chuyên môn hạn hẹp; càng đau đớn hơn khi nó buộc ta phải nỗ lực tư duy trên một bình diện rộng lớn vì ta phải xem xét kỹ lưỡng các mục tiêu mà phần lớn chúng ta đang hướng công sức vào và cân đối chúng với những công việc khác vốn ít được chú ý vì nằm ngoài sự quan tâm trực tiếp của chúng ta.

Mỗi một mục tiêu, nếu xem xét một cách riêng rẽ, có thể đạt được trong xã hội kế hoạch hóa sẽ sinh ra hàng loạt những người nhiệt tình, đấy là những người tin rằng họ sẽ thuyết phục được giới lãnh đạo tương lai giá trị của mục tiêu này; và chắc chắn là một số người trong bọn họ sẽ thành công bởi vì xã hội kế hoạch hóa sẽ thúc đẩy một số mục tiêu nào đó nhanh hơn là hiện nay. Sẽ là ngốc nghếch khi phủ nhận những trường hợp mà các nước kế hoạch hóa hoặc kế hoạch hoá một phần cung cấp - để minh họa - cho dân chúng một số hàng hoá hoặc dịch vụ tốt mà nhờ kế hoạch hóa họ mới được hưởng. Người ta thường đưa những con đường ô tô cao tốc ở Đức và Ý ra làm dẫn chứng, mặc dù những con đường như thế là sản phẩm của những kế hoạch có thể được thực hiện cả trong những xã hội tự do. Lấy những thành tựu kĩ thuật trong những lĩnh vực riêng biệt làm dẫn chứng, chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế kế hoạch hoá cũng là việc làm ngốc nghếch tương tự. Đúng ra, khi thấy một vài thành tựu kĩ thuật nổi bật trên nền bức tranh phát triển khiêm tốn chung thì ta phải nói: đấy chính là bằng chứng chứng tỏ rằng các nguồn lực đã bị sử dụng sai. Những ai đã từng đi trên các con đường cao tốc nổi tiếng ở Đức đều thấy rằng mật độ xe cộ ở đó còn ít hơn mật độ xe cộ trên những con đường loại hai ở Anh, sẽ đồng ý rằng việc xây những con đường như thế, từ quan điểm của thời bình, là khó có thể biện hộ được. Những người lập kế hoạch làm việc này vì nhu cầu của “đại bác” thay vì nhu cầu của “bánh mì” lại là chuyện khác[5]. Nhưng theo tiêu chuẩn của chúng ta thì đấy không phải là việc đáng vui mừng.

Ảo tưởng của các chuyên gia khi cho rằng, trong xã hội kế hoạch hoá, họ sẽ giành được nhiều nguồn lực để đạt cho được các mục tiêu mà họ quan tâm là hiện tượng bao quát hơn là thuật ngữ “chuyên gia” ngầm định. Tất cả chúng ta đều quan tâm đến một vấn đề nào đó, đều thích một cái gì đó hơn; theo nghĩa này thì tất cả chúng ta đều là chuyên gia. Tất cả chúng ta thường nghĩ rằng thang giá trị riêng của chúng ta có ý nghĩa không chỉ với chúng ta và nếu được thảo luận một cách tự do với những người duy lý, chúng ta có thể thuyết phục được họ rằng thang giá trị của chúng ta là đúng. Dù đấy là người yêu phong cảnh thiên nhiên đang kêu gọi bảo vệ sự trong lành nguyên thuỷ của nó và loại bỏ sự ô nhiễm của nền công nghiệp hay người kêu gọi một cách sống sạch sẽ cho rằng cần phải phá bỏ tất cả những ngôi nhà thôn dã sinh động nhưng thiếu vệ sinh hay một người lái xe đang mơ ước làm sao khắp nơi đều có những con đường cao tốc rộng lớn và thuận lợi; hay một người chỉ chăm chăm vào việc nâng cao năng suất lao động, luôn luôn kêu gọi phải chuyên môn hoá và cơ khí hoá tất tần tật; hay một người mộng mơ cho rằng cần phải giữ cho được càng nhiều thợ thủ công độc lập thì càng tốt, vì chỉ có như thế thì các cá nhân mới có thể phát triển toàn diện được - tất cả những người đó đều biết rằng chỉ có kế hoạch hoá thì mục đích của họ mới có thể thành tựu hoàn toàn và tất cả bọn họ đều ủng hộ kế hoạch hoá là vì thế. Nhưng chắc chắn là kế hoạch hoá xã hội, nếu được áp dụng, sẽ làm lộ ra những mâu thuẫn ngấm ngầm giữa các mục đích của chính họ.

Phong trào ủng hộ kế hoạch hoá mạnh như thế là vì hiện nay đây mới chỉ là tham vọng, nó lôi kéo được hầu như tất cả những người có lý tưởng, sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời cho một nhiệm vụ nào đó. Tuy nhiên, hi vọng mà họ đặt vào kế hoạch hoá là kết quả của một cách hiểu xã hội rất hạn hẹp của họ, và thường là kết quả của một sự khuyếch đại quá mức những mục tiêu mà họ cho là quan trọng nhất. Điều đó thực ra không làm giảm giá trị của họ trong xã hội tự do, như xã hội của chúng ta, ở đây họ còn được mọi người thán phục nữa. Nhưng, nếu như kế hoạch hóa được phép làm thì chính những người kêu gào kế hoạch hoá to mồm nhất sẽ trở thành những kẻ nguy hiểm nhất, và là những kẻ không khoan nhượng nhất đối với kế hoạch của những người khác. Từ người mộng mơ thánh thiện đến kẻ cuồng tín chỉ là một bước ngắn. Và, mặc dù hiện nay các chuyên gia bất mãn chính là những người kêu gọi kế hoạch hoá to mồm nhất, thật khó tưởng tượng nổi sự khủng khiếp và phi lý của cái thế giới, nơi mà giả dụ, các chuyên gia lớn nhất trong những lĩnh vực khác nhau được tự do thực hiện các lý tưởng của mình mà không có sự kiểm soát nào. Và dù những người ủng hộ kế hoạch hoá có nói gì đi nữa thì “điều phối” cũng không thể trở thành một chuyên ngành mới được. Các nhà kinh tế học biết rõ hơn ai hết rằng họ không có kiến thức mà “điều phối viên” cần. Họ ủng hộ biện pháp điều phối mà không cần nhà độc tài toàn trí toàn năng. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là duy trì sự kiểm soát vô nhân tính, thường là khó hiểu đối với những nỗ lực của các cá nhân, sự kiểm soát mà các nhà chuyên môn kịch liệt phản đối.


[1] Vấn đề này được giáo sư Leonel Robins thảo luận kĩ trong trong tiểu luận: “The Inevitability of Monopoly”, Economic Basis of Class Conflict (1939), p. 45-80.
[2] Final Report and Recommendations of the Temporary National Economic Committee. 77th Congress, 1st Session, Senate Document, No 35, 1941. P. 89
[3] Wilcox С. Competition and Monopoly in American Industry. -- "Temporary National Economic Committee", Monograph, No. 21, 1940. P. 314
[4] Reinhold Niebuhr. Moral Man and Immoral Society (Con người đức hạnh và xã hội vô luân) (1932)
[5] Khi tôi tôi đọc bản in thử cuốn sách này thì nhận được tin là công việc duy tu bảo dưỡng các xa lộ ở Đức đã tạm ngưng!

1 comment: