June 10, 2020

Đường về nô lệ (5)



 
 Đường về nô lệ, bản in của NXB Kiến Tạo, 2019

II. Giấc mơ địa đàng

Chính con người đã biến nhà nước thành địa ngục trần gian
 khi cố gắng biến nó thành thiên đàng trên cõi thế

F. Hölderlin
Chủ nghĩa xã hội đã loại bỏ được chủ nghĩa tự do và trở thành học thuyết được đa số những người tiến bộ ủng hộ không đơn giản có nghĩa là người ta đã quên những lời cảnh báo của các triết gia tự do vĩ đại về hậu quả của chủ nghĩa tập thể. Chuyện đó xảy ra là vì người ta đã thuyết phục được họ rằng hậu quả sẽ khác hẳn với tiên đoán của các triết gia kia. Điều kì quặc là chính cái chủ nghĩa xã hội vốn được coi là mối đe doạ nghiêm trọng nhất của tự do và đã thể hiện công khai như là lực lượng phản động chống lại chủ nghĩa tự do trong cuộc cách mạng Pháp, lại được nhiều người đứng dưới ngọn cờ tự do chấp nhận. Hiện nay, ít người nhớ rằng, khởi thuỷ, chủ nghĩa xã hội đã là một phong trào độc đoán. Các nhà tư tưởng Pháp, những người đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội hiện đại, không hề nghi ngờ gì rằng phải có một chính phủ độc tài cứng rắn thì tư tưởng của họ mới có thể trở thành hiện thực được. Đối với họ, chủ nghĩa xã hội chỉ là một thử nghiệm nhằm “chấm dứt cách mạng”, thông qua việc tái cấu trúc xã hội trên cơ sở đẳng cấp và áp đặt một quyền lực “tinh thần” bằng vũ lực. Dự định của những người sáng lập chủ nghĩa xã hội về tự do là rất rõ ràng. Họ coi tự do tư tưởng là cội nguồn của tất cả những điều xấu xa trong xã hội thế kỉ XIX, còn Saint-Simon, ông tổ của những người ủng hộ kế họach hóa thời nay, thậm chí còn tiên đoán rằng những người không tuân phục các bộ phận lập kế hoạch mà ông ta đề nghị sẽ bị “đối xử như súc vật”. 


Chỉ sau khi chịu tác động của những trào lưu dân chủ đầy quyền lực, diễn ra trước cuộc cách mạng năm 1848, chủ nghĩa xã hội mới bắt đầu liên kết với các lực lượng yêu chuộng tự do. Nhưng cái “chủ nghĩa xã hội dân chủ” đổi mới này phải mất một thời gian dài mới xua tan được những mối nghi ngờ mà nó đã gây ra trong quá khứ. Ngoài ra, dân chủ vốn là một thiết chế mang tính cá nhân chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn không thể giải quyết được. De Tocqueville, nhà chính trị học vĩ đại, hơn bất kì ai khác đã nhận thức được rằng dân chủ vốn là một thiết chế mang tính cá nhân chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội là không thể nào dung hòa được:
“Dân chủ mở rộng không gian tự do cá nhân”, ông nói như thế vào năm 1848, “trong khi chủ nghĩa xã hội hạn chế tự do. Dân chủ trao cho mỗi người tất cả các giá trị khả dĩ, còn chủ nghĩa xã hội lại biến mỗi người thành một kẻ thừa hành, thành một con số. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chỉ có một cái chung, đấy là từ: bình đẳng. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm bình đẳng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm bình đẳng trong xiềng xích và nô lệ[1]”.  

Nhằm làm dịu bớt những mối ngờ vực và nhằm biến khát vọng tự do, một trong những động lực chính trị mạnh mẽ nhất, thành lực kéo cỗ xe của mình, những người xã hội chủ nghĩa bắt đầu sử dụng lời hứa về một nền “tự do mới” một cách thường xuyên hơn. Sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội sẽ là bước nhảy ngọan mục từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Chủ nghĩa xã hội sẽ đem đến cho con người “tự do kinh tế”, thiếu nó thì tự do chính trị mà người ta đã giành được là “vô nghĩa”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng đưa cuộc đấu tranh vì tự do diễn ra trong nhiều thế kỉ đến thắng lợi cuối cùng, trong đó, tự do chính trị mới chỉ là bước đầu tiên mà thôi.

Để cho lập luận của mình nghe có vẻ xuôi tai, người ta đã khéo léo thay đổi cả ý nghĩa của từ “tự do”. Đối với các thánh tông đồ của tự do chính trị, từ này vốn có nghĩa là tự do khỏi những hành động cưỡng bách, tự do khỏi quyền lực độc đoán của những người khác, là giải thóat khỏi những trói buộc không để cho cá nhân một tí quyền lựa chọn nào, cá nhân phải chấp hành mệnh lệnh của những kẻ mà anh ta bị cột chặt vào. Còn cái tự do mới mà người ta hứa hẹn lại là giải phóng khỏi nghèo túng, giải phóng khỏi những trói buộc của hoàn cảnh, là những thứ nhất định sẽ hạn chế khả năng lựa chọn của tất cả chúng ta, mức độ dĩ nhiên là khác nhau, tùy người. Phải đập tan “sự áp bức của nhu cầu vật chất”, phải tháo bớt “gông xiềng của hệ thống kinh tế” thì mới có tự do thật sự.

Tự do, với ý nghĩa như thế, thật ra chỉ là tên gọi khác của quyền lực[2] hoặc của cải. Nhưng, mặc dù lời hứa hẹn về cái tự do mới này thường đi kèm với lời hứa vô trách nhiệm về sự gia tăng chưa từng có của cải vật chất trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nguồn gốc của tự do kinh tế lại không phải là chiến thắng trước sự nghèo nàn của tự nhiên. Trên thực tế lời hứa chỉ có nghĩa là sự chênh lệch quá đáng về khả năng lựa chọn của những con người khác nhau phải được xóa bỏ. Đòi hỏi cái tự do mới này thực ra chỉ là tên gọi khác của đòi hỏi cũ, tức là đòi hỏi phân phối một cách công bằng của cải mà thôi. Nhưng tên gọi mới lại tạo điều kiện cho những người xã hội chủ nghĩa sử dụng một từ nữa của chủ nghĩa tự do và tìm mọi cách tận dụng nó. Mặc dù từ này được hai phe sử dụng theo nghĩa hoàn toàn khác nhau, ít người để ý đến chuyện đó, và lại càng có ít người nghi vấn liệu hai loại tự do đó có liên kết được với nhau hay là không.

Không nghi ngờ gì rằng, lời hứa về quyền tự do rộng lớn hơn, đã trở thành một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất của bộ máy tuyên truyền xã hội chủ nghĩa và niềm tin cho rằng chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại tự do là niềm tin chân thành và chân thật. Bị kịch vì vậy sẽ trở thành nặng nề hơn khi người ta nhận ra rằng Đường đến Tự do mà người ta hứa hẹn, trên thực tế lại là Đại lộ dẫn về Nô lệ. Không nghi ngờ gì rằng lời hứa nhiều tự do hơn chính là con chim mồi dụ được ngày càng nhiều người theo phái tự do bước chân lên con đường xã hội chủ nghĩa, đã làm mờ mắt người ta, không cho người ta nhận ra xung đột giữa các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do, và tạo điều kiện cho những người xã hội chủ nghĩa chiếm đoạt tên gọi của các đảng theo trường phái tự do trước đây. Kết quả là, ngày càng có nhiều người trong giới trí thức chấp nhận chủ nghĩa xã hội vì họ coi nó là sự tiếp tục của truyền thống tự do: đối với họ, chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn đến mất tự do là ý tưởng không thể nào tưởng tượng được.
* * *
Nhưng trong mấy năm gần đây, các ý kiến bàn về những hậu quả không thể dự đoán trước được của chủ nghĩa xã hội, tưởng như đã rơi vào quên lãng từ lâu, lại được gióng lên với một sức mạnh mới và từ những hướng bất ngờ nhất. Các nhà quan sát, hết người này đến người khác - mặc dù khi tiếp cận với vấn đề, người đó đã có những kì vọng hoàn toàn khác - đã nhận ra sự tương đồng đến kinh ngạc giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Trong khi những người “tiến bộ” ở Anh và ở một số nơi khác tiếp tục tự lừa mình rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít là những cực trái ngược nhau thì ngày càng có nhiều người tự hỏi rằng phải chăng các chính thể chuyên chế mới nổi đó là kết quả của cùng những xu hướng giống hệt nhau. Lời chứng của Max Eastman, một người bạn cũ của Lenin, mà ông ta thấy có trách nhiệm phải nói ra đã làm cho ngay cả những người cộng sản cũng phải choáng váng: “Chủ nghĩa Stalin, không những không tốt hơn mà còn xấu hơn cả chủ nghĩa phát xít vì nó tàn nhẫn hơn, dã man hơn, bất công hơn, vô luân và phản dân chủ hơn, không thể được biện hộ bằng bất kì hi vọng hay sám hối nào”. Rồi ông viết tiếp: “Đúng hơn, phải gọi nó là siêu phát xít” và khi tác giả này công nhận rằng “chủ nghĩa Stalin chính là chủ nghĩa xã hội, theo nghĩa đấy là kết quả tất yếu, dù không thể dự đoán được, của quá trình quốc hữu hoá và tập thể hoá, tức là thành phần của kế hoạch xây dựng xã hội phi giai cấp của ông ta[3] ”, thì kết luận của Max Eastman rõ ràng đã vươn tới mức độ quan trọng hơn hẳn. 

Trường hợp Eastman có lẽ là đáng chú ý nhất, nhưng đây không phải là trường hợp duy nhất khi một nhà quan sát vốn có thiện cảm với các cuộc thí nghiệm ở Nga rút ra kết luận tương tự. Mấy năm trước, Chamberlin W., một nhà báo Mỹ từng sống ở Nga suốt mười hai năm, khi thấy tất cả các lý tưởng của mình đổ vỡ, đã tổng kết những nghiên cứu của mình ở Liên Xô với  Đức và Ý: “Chủ nghĩa xã hội, ít nhất là trong những giai đoạn đầu, không phải là con đường dẫn tới tự do mà là tới chế độ độc tài và các phong trào chống lại độc tài, dẫn tới những cuộc nội chiến khốc liệt nhất. Giành và giữ chủ nghĩa xã hội bằng các phương pháp hoà bình dĩ nhiên là điều không tưởng[4]”. Voigt F.A., một nhà báo người Anh, sau khi quan sát các sự kiện ở châu Âu, cũng rút ra kết luận tương tự như thế: “Chủ nghĩa Marx đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia vì về bản chất nó chính là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia[5]”. Còn Walter Lippmann thì tin rằng: “Thế hệ chúng ta, bằng chính kinh nghiệm của mình, sẽ nhận ra rằng từ bỏ tự do nhân danh tổ chức cưỡng bức sẽ đưa người ta đến đâu. Tưởng rằng sẽ được giàu sang, ai ngờ trên thực tế người ta lại trở thành nghèo túng. Còn khi lãnh đạo có tổ chức được tăng cường thì cũng là lúc đa dạng phải nhường chỗ cho đơn điệu. Đấy là cái giá phải trả cho xã hội được lập kế họach và nguyên tắc độc tài trong việc tổ chức công việc của con người[6]” 

Có thể tìm thấy vô số những điều khẳng định tương tự trong các tác phẩm được công bố trong mấy năm gần đây, đặc biệt là của những người vốn là công dân của các nước đã bước chân lên con đường phát triển tòan trị, những người từng trải qua giai đọan chuyển đổi và kinh nghiệm đã buộc họ phải xem xét lại nhiều niềm tin mà họ từng ấp ủ trong lòng. Xin dẫn ra ở đây một lời phát biểu nữa, của một người Đức, có thể cũng nói ý tương tự, nhưng thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề. 

Peter Drucker viết: “Niềm tin vào tính khả thi của tự do và công bằng theo lý luận của Marx đã sụp đổ hòan tòan, buộc nước Nga bước phải đi theo con đường dẫn tới xã hội toàn trị, tuyệt đối tiêu cực, phi kinh tế, thiếu tự do và đầy bất công mà nước Đức đã theo. Không, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, như đã từng xảy ra ở Nga dưới thời Stalin cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền[7]

Sự chuyển hóa về mặt trí tuệ của các lãnh tụ quốc xã và phát xít cũng có ý nghĩa không kém. Những người theo dõi quá trình phát triển của các phong trào này ở Ý[8] hay ở Đức, không thể không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều lãnh tụ, từ Mussolini trở xuống (kể cả Laval và Quisling), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa, để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay quốc xã. Và điều gì đúng đối với các lãnh tụ thì còn đúng hơn đối với các đảng viên thường của phong trào. Nhiều người ở Đức, nhất là những cán bộ tuyên truyền của cả hai đảng, đều biết việc những người cộng sản trẻ tuổi dễ dàng chạy sang đảng quốc xã hoặc ngược lại. Nhiều giảng viên trong các trường đại học ở Anh và Mỹ còn nhớ hiện tượng là trong những năm 1930, nhiều sinh viên trở về từ châu Âu, không rõ là cộng sản hay phát xít, nhưng chắc chắn đấy là những người có thái độ thù địch với nền văn minh tự do phương Tây. 

Đúng là, ở Đức trước năm 1933 và ở Ý trước năm 1922, cộng sản và quốc xã hay phát xít thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác. Đấy là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo. Nhưng hành động của họ lại chứng tỏ rằng họ là những người gần gũi nhau tới mức nào. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng, người chẳng có gì chung với họ, người mà họ chẳng thể nào thuyết phục được lại chính là người theo chủ nghĩa tự do kiểu cũ. Trong khi quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa, những người có cùng phẩm chất như họ, là đội hậu bị tiềm năng của mình thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thoả hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.

Để cho các độc giả, những người đã bị bộ máy tuyên truyền của một trong hai phía làm cho rối trí, không còn chút nghi ngờ nào, tôi xin được phép trích dẫn một tác phẩm có uy tín nữa. Giáo sư Eduard Heimann, một trong các lãnh tụ của phong trào xã hội chủ nghĩa mang màu sắc tôn giáo ở Đức, trong bài báo với tựa đề tuyệt vời là Tái phát hiện chủ nghĩa tự do (The Rediscovery of Liberalism) đã viết như sau: “Chủ nghĩa Hitler tự tuyên bố là học thuyết dân chủ và chủ nghĩa xã hội đích thực, sự thật kinh khủng nhất là có một phần, một phần rất nhỏ sự thật trong lời tuyên bố đó, song thế là đủ để có thể tạo ra đủ thứ xuyên tạc hoang đường rồi. Chủ nghĩa Hitler còn đi xa hơn khi tuyên bố là người bảo vệ Kitô giáo, và sự thật kinh hoàng là ngay cả sự diễn giải sai lầm thô bạo như thế vẫn tạo ấn tượng đối với một số người. Giữa sự mù mờ và tráo trở đó vẫn có một điều cực kì rõ ràng: Hitler không bao giờ tuyên bố là người ủng hộ chủ nghĩa tự do chân chính. Nghĩa là chủ nghĩa tự do có vinh dự là học thuyết bị Hitler căm ghét nhất[9]”. Cần nói thêm rằng Hitler không có điều kiện thể hiện lòng căm thù của mình vì khi hắn lên cầm quyền thì chủ nghĩa tự do ở Đức hầu như đã chết hẳn rồi. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết nó.
* * *
Đối với những người có điều kiện quan sát sự chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít ở khoảng cách tương đối gần thì mối liên hệ của hai học thuyết này càng đặc biệt rõ, chỉ có ở những nước dân chủ thì mới có nhiều người tiếp tục nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội và tự do có thể kết hợp được với nhau mà thôi. Không nghi ngờ gì rằng phần lớn những người xã hội chủ nghĩa ở đây vẫn tin tưởng sâu sắc vào lý tưởng tự do và sẵn sàng đoạn tuyệt với các quan điểm của mình nếu họ nhận ra rằng hiện thực hoá cương lĩnh của họ đồng nghĩa với việc phá hủy tự do. Nhưng vấn đề này hiện vẫn được nhận thức một cách rất hời hợt, nhiều lý tưởng không thể dung hoà vẫn dễ dàng song song tồn tại, và chúng ta vẫn thường nghe thấy người ta thảo luận những khái niệm mâu thuẫn, ví dụ, “chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc cá nhân chủ nghĩa”. Nếu đấy là tình trạng trí tuệ sẽ lèo lái tương lai của chúng ta thì nghiên cứu một cách nghiêm túc quá trình phát triển ở các nước khác phải là nhiệm vụ cấp bách nhất. Cho dù kết luận của chúng ta chỉ là sự khẳng định những nhận thức mà người khác đã nói rồi thì để tin chắc rằng các sự kiện đó không phải là ngẫu nhiên cũng cần phân tích toàn diện những khía cạnh chính yếu của quá trình chuyển biến này trong đời sống xã hội. Khi tất cả các mối liên hệ của các sự kiện chưa được làm rõ thì nhiều người sẽ không tin rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là giấc mơ địa đàng (utopia) vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ là bất khả thi, mà cố gắng nhằm hiện thực hoá nó nhất định sẽ dẫn đến những kết quả tồi tệ khác hẳn và hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với những người hôm nay đang ủng hộ nó. 


[1] “Discours prononcé a l’assemblée constituante le 12 septembre 1848 sur la question du droit au travail”, Oeuvres completes d'Alexis de Tocqueville, vol. IX, 1866. P. 546.
[2] Sự lẫn lộn đặc trưng giữa tự do và quyền lực mà chúng ta sẽ còn nói tới nhiều lần, là một đề tài rất phức tạp, không thể thảo luận một cách kĩ lưỡng ở đây. Sự lẫn lộn này cũng lâu đời như chủ nghĩa xã hội và có liên hệ mật thiết với nó, đến mức cách đây bảy mươi năm một nhà nghiên cứu người Pháp, khi nghiên cứu các tác phẩm của Saint-Simon đã phải nói rằng lý thuyết tự do kiểu đó “tự nó đã chứa đựng tòan bộ chủ nghĩa xã hội rồi” (Janet P., Saint-Simon et le Saint-Simonisme, 1878. P. 26, ghi chú. Đáng chú ý là người bảo vệ công khai nhất cho sự lẫn lộn ấy lại là ông John Dewey, một triết gia tả khuynh nổi tiếng người Mỹ. “Tự do”, John Dewey viết, “là quyền lực thực sự nhằm thực hiện những việc nhất định”. Vì vậy “đòi hỏi tự do chính là đòi hỏi quyền lực” (“Liberty and Social Control”, The Social Frontier, November. 1935, p. 41).
[3] Eastman M. Stalin's Russia and the Crisis of Socialism, 1940. P. 82.

[4] Chamberlin W.H. A False Utopia, 1937, p. 202--203
[5] Voigt F.A. Unto Caesar. 1939, p. 95.
[6] Atlantic Monthly, November. 1936, p. 552.
[7] The End of Economic Man (1939) p. 230
[8] Có thể thấy bức tranh rõ ràng về sự chuyển hóa tư tưởng của các lãnh tụ phát xít trong tác phẩm của Michels R. (khởi kì thủy là một người mác-xít rồi trở thành phát xít) (Michels R. Sozialismus und Faszismus. Munich, 1925. Vol. II. P. 264--266; 311--312)
[9] Social Research. Vol. VIII. N 4, November 1941. Liên quan đến chuyện này, có thể nhắc lại rằng trong một bài phát biểu vào cuối tháng 2 năm 1941 Hitler thấy cần phải tuyên bố rằng “ Về bản chất chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa Marx chỉ là một” (xem The Bulletin of International News. XVIII, N 5, 269. – do Royal Institute of International Affairs xuất bản)

1 comment: