I.
CON ĐƯỜNG BỊ CHỐI BỎ
Luận đề cơ bản của cương lĩnh này là, không phải hệ thống
kinh doanh tự do vì lợi nhuận đã thất bại ngay trong thế hệ này,
mà là cương lĩnh đó chưa được thực thi.
F. D.
Roosevelt
Đường về nô lệ, bản in cua NXB Kiến Tạo năm 2019
Trong quá trình phát triển, khi nền văn minh bỗng làm một cú rẽ ngoặt bất ngờ, khi đáng lẽ phải là tiến bộ thì ta lại phát hiện thấy những mối đe dọa, dường như đang đưa ta trở về thời kì mông muội, thế là chúng ta sẵn sàng kết án tất cả mọi thứ, trừ chính chúng ta. Tất cả chúng ta chẳng đã cố gắng hết mình với những lý tưởng trong sáng nhất đó sao? Để cải tạo thế giới, những con người thông thái nhất chẳng đã suy nghĩ nát óc đó sao? Chúng ta chẳng đã hi vọng và làm tất cả mọi việc để có nhiều tự do hơn, nhiều công bằng hơn và sung túc hơn đó sao? Và nếu kết quả khác xa với mục tiêu - nếu thay cho tự do và thịnh vượng lại là cảnh nô lệ và bần hàn - thì đấy có phải rõ ràng là sự can thiệp của những lực lượng đen tối, làm hỏng các dự định của chúng ta, có phải là chúng ta đã trở thành nạn nhân của một thế lực độc ác nào đó, phải đánh bại nó thì mới mong trở lại được con đường dẫn tới hạnh phúc hay không? Dù câu trả lời сó là gì đi chăng nữa, dù đấy có thể là tên tư sản độc ác, dù đấy có thể là bản tính xấu xa của một dân tộc nào đó, dù đấy có thể là sự ngu dốt của các thế hệ cha anh hay dù đấy là hệ thống xã hội vẫn chưa được lột xác hoàn toàn, dù chúng ta đã đấu tranh chống lại suốt nửa thế kỉ qua – thì ít nhất là cho đến tận thời gian gần đây, tất cả chúng ta đều tin tưởng tuyệt đối một điều: Các tư tưởng chính yếu – đã trở thành tài sản chung của những người tử tế trong thế hệ vừa qua - đã và đang quyết định những thay đổi lớn lao trong đời sống xã hội của chúng ta, không thể là những tư tưởng sai lầm. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi lời giải thích về cuộc khủng hoảng hiện nay của nền văn minh của chúng ta trừ lời giải thích sau đây: tình hình thế giới hiện nay có thể là kết quả của sai lầm của chính chúng ta và việc theo đuổi một vài lý tưởng yêu quí nhất của chúng ta hình như đã tạo ra những kết quả khác hẳn những điều chúng ta kì vọng.
Trong
khi toàn bộ sức lực của chúng ta được huy động để giành chiến thắng, đôi khi khó
mà nhớ được rằng chúng ta đang bảo vệ những giá trị mà ngay trước chiến tranh,
ở nước Anh, đã từng bị đe doạ, còn ở một số nước khác thì bị phá tan tành. Mặc
dù hiện nay, các dân tộc thù địch - những người đại diện cho những lý tưởng
khác nhau - đang chiến đấu một mất một còn với nhau, chúng ta không được quên
rằng cuộc đụng độ này xuất phát từ cuộc đấu tranh của các hệ tư tưởng mà mãi
thời gian gần đây vẫn nằm trong nền văn minh châu Âu thống nhất và các xu hướng,
với đỉnh điểm là các chế độ toàn trị hiện nay, lại không chỉ giới hạn trong
những nước đã trở thành nạn nhân của chúng. Và, mặc dù nhiệm vụ chính hiện nay
là giành chiến thắng, nhưng cần phải hiểu rằng chiến thắng sẽ chỉ cho chúng ta
thêm cơ hội để xem xét những vấn đề quan trọng nhất và tìm biện pháp nhằm tránh
lặp lại số phận đã giáng xuống các nền văn minh thân thuộc với chúng ta mà
thôi.
Hiện
nay, thật khó mà không nghĩ rằng nước Đức, nước Ý hay nước Nga như những thế
giới khác, chứ không phải là sản phẩm của hệ tư tưởng mà chúng ta đã cùng chia
sẻ; khi nói về kẻ thù, tiện nhất và đơn giản nhất, hãy coi họ như những người
khác hẳn với chúng ta và tin rằng những chuyện diễn ra ở nước họ sẽ không thể
nào diễn ra ở đây được. Thế mà trước khi chế độ toàn trị xuất hiện, nói chung,
lịch sử của các nước này có nhiều điểm vốn quen thuộc với chúng ta. Cuộc xung
đột ngoại tại là kết quả của quá trình chuyển hoá tư tưởng toàn châu Âu, trong
đó, một số nước tiến nhanh hơn hẳn chúng ta, đến mức đưa tới cuộc xung đột
không thể hòa giải với những lý tưởng của chúng ta, nhưng điều đó không có
nghĩa là quá trình chuyển hoá này không hề đụng chạm tới chúng ta.
Quá
trình chuyển hóa tư tưởng và ý chí của con người đã làm cho thế giới này trở
thành cái mà nó đang là, dù người ta không dự đoán được kết quả như thế và
không phải là những sự kiện đã chuyển hóa một cách tự phát đã buộc chúng ta
phải điều chỉnh lại tư tưởng của mình, có lẽ các dân tộc Anglo-Saxon thật khó
mà nhận ra vì may mắn mà trong quá trình chuyển hoá, họ đã lẽo đẽo theo sau phần
lớn những dân tộc châu Âu khác. Cho đến nay chúng ta vẫn thường nghĩ về lý
tưởng đang dẫn dắt chúng ta và đã từng dẫn dắt thế hệ trước như là những lý
tưởng mà trong tương lai chúng ta sẽ phải biến thành hiện thực mà không nhận ra
rằng trong hai mươi lăm năm qua những lý tưởng đó đã làm toàn bộ thế giới, cũng
như đất nước ta, thay đổi đến mức nào. Chúng ta vẫn tin rằng cho đến tận thời
gian gần đây, chúng ta vẫn còn sống theo các nguyên tắc được gọi một cách mập
mờ là những tư tưởng của thế kỉ XIX hay là nguyên tắc laissez-faire. So sánh
với những nước khác và theo quan điểm của những người chủ trương tăng tốc cải
cách thì niềm tin đó là có cơ sở. Mặc dù cho đến tận năm 1931, nước Anh và nước
Mỹ vẫn tiến rất chậm trên con đường mà các nước khác đã lún sâu vào, thế mà
chúng ta cũng đã đi xa đến mức chỉ những người còn nhớ những ngày trước Thế
chiến I mới biết thế giới tự do là như thế nào[1].
Nhưng
điều chủ yếu - điều mà chưa mấy người nhận thức được – không phải là mức độ của
những đổi thay đã diễn ra trong thế hệ vừa qua, mà là những thay đổi này đã làm
biến đổi hòan tòan xu hướng phát triển tư tưởng và trật tự xã hội của chúng ta.
Ít nhất là, trong hai mươi lăm năm qua, khi bóng ma của chủ nghĩa tòan trị còn
chưa trở thành mối đe dọa thực sự, chúng ta đã ngày càng xa rời những lý tưởng
nền tảng của nền văn minh phương Tây. Con đường phát triển mà chúng ta đã bước
chân lên với những hi vọng trong sáng nhất lại dẫn chúng ta đến những nỗi kinh
hòang của chế độ tòan trị; một đòn nặng nề giáng vào cả một thế hệ, nhưng họ vẫn
không chịu xem xét mối liên hệ giữa hai sự kiện này. Nhưng kết quả đó chỉ một
lần nữa khẳng định lời cảnh báo của những người đặt nền móng cho triết lý tự do
– triết lý mà chúng ta tiếp tục tuyên xưng. Chúng
ta đã dần dần từ bỏ tự do kinh tế, thiếu nó thì trong quá khứ tự do cá nhân và
tự do chính trị cũng không bao giờ tồn tại được. Và, mặc dù các nhà tư tưởng vĩ
đại của thế kỉ XIX là De Tocqueville và Acton đã cảnh báo rằng, chủ nghĩa xã
hội là chế độ nô lệ, nhưng chúng ta vẫn kiên định tiến về phía chủ nghĩa xã
hội. Bây giờ, khi trước mắt chúng ta xuất hiện những hình thức mới của chế độ
nô lệ, chúng ta mới nhận ra rằng hóa ra chúng ta đã hòan tòan quên những lời
cảnh báo – hiếm khi xảy ra với chúng ta - rằng hai sự kiện này (chủ nghĩa xã
hội và chế độ nô lệ - ND) có thể liên kết với nhau[2].
Các
xu hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay đồng nghĩa với sự đọan tuyệt hòan tòan không
chỉ với những tư tưởng mới xuất hiện trong thời gian gần đây, mà còn đọan tuyệt
với toàn bộ tiến trình phát triển của nền văn minh phương Tây. Chuyện đó càng
trở nên rõ ràng, nếu ta xem xét tình hình hiện nay không chỉ trên nền tảng lịch
sử của thế kỷ XIX mà xem xét trong bối cảnh lịch sử dài hơi hơn. Chúng ta sẵn
sàng chia tay không chỉ với các quan điểm của Coben và Bright, của Adam Smith
và Hume hay thậm chí cả Locke và Milton, mà còn sẵn sàng chia tay với những đặc
điểm nổi bật của nền văn minh phương Tây, dựa trên nền tảng do Kitô giáo, người
Hy Lạp và người La Mã xây dựng lên. Từng bước một, chúng ta từ bỏ không chỉ chủ
nghĩa tự do thế kỷ XVIII-XIX mà còn từ bỏ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
tự do cá nhân, được Eramus và Montaigne, Cicero và Tacitus, Pericles và
Thucydides truyền lại cho chúng ta.
Lãnh
tụ đảng Quốc xã có thể đã không ngờ rằng mình đúng đến mức nào khi gọi cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc gia là Phản-Phục-Hưng. Đây là bước đi mang tính
quyết định trên con đường phá hủy nền văn minh mà con người hiện đại đã xây
dựng được từ thời Phục Hưng, mà trên hết, đấy là nền văn minh dựa trên nguyên
tắc của chủ nghĩa cá nhân. Hiện nay, từ chủ nghĩa cá nhân bị gán cho ý nghĩa
tiêu cực và thường được gắn với tính ích kỉ và thói tự phụ. Nhưng, khi đem chủ
nghĩa cá nhân đối lập với chủ nghĩa xã hội và các hình thức khác của chủ nghĩa
tập thể, chúng tôi muốn nói đến một tính chất khác hẳn. Sự khác biệt giữa hai
nguyên tắc trái ngược nhau này sẽ được làm rõ trong những trang sau. Những đặc
điểm cốt lõi của chủ nghĩa cá nhân – có xuất xứ từ những thành tố của Kitô giáo
và triết học cổ đại và được thể hiện trọn vẹn vào thời Phục Hưng và từ lúc đó
đã phát triển và lan tỏa thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là nền văn minh
phương Tây - tôn trọng cá nhân con người vì đấy là con người, nghĩa là, công
nhận – trong lĩnh vực riêng tư của mỗi người - quan điểm và thị hiếu của người
đó là tối thượng, dù lĩnh vực riêng tư đó có nhỏ bé đến đâu và tin rằng mỗi
người cần phát triển những năng khiếu và sở thích của riêng mình. Từ “tự do”
(“freedom” and “liberty”) đã bị biến chất và bị lạm dụng, phải thận trọng khi sử
dụng nhằm thể hiện những lý tưởng vốn là ý nghĩa của nó trong thời kỳ đó. “Khoan
dung” (tolerance) có thể là từ duy nhất còn giữa được toàn bộ ý nghĩa của nguyên
tắc này, nguyên tắc từng ngự trị trên bầu trời trong suốt giai đoạn đó và chỉ
gần đây mới ngả dần về phía chân trời, để rồi biến mất hẳn cùng với sự xuất
hiện của nhà nước tòan trị.
Quá
trình chuyển hóa một cách từ từ hệ thống thang bậc được tổ chức một cách cứng
nhắc thành hệ thống, nơi người ta ít nhất cũng có thể thử thu xếp cuộc sống của
riêng mình, nơi người ta có cơ hội biết và lựa chọn những cách sống khác nhau liên
quan mật thiết với quá trình phát triển thương mại. Một quan niệm mới về đời
sống, từ các trung tâm thương mại ở miền Bắc nước Ý, cùng với giao thương đã
lan tỏa sang phía Tây và phía Bắc, qua Pháp và miền Đông-Nam Đức, tới Hà Lan và
các hòn đảo nước Anh, ăn sâu bén rễ ở những nơi mà cường quyền không đủ sức bóp
nghẹt nó. Nó đơm hoa kết trái ở Hà Lan và Anh và lần đầu tiên có điều kiện phát
triển tự do trong một thời gian dài và đã trở thành nền tảng trong sinh họat
chính trị và xã hội của những nước này. Chính từ đây, vào cuối thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII nó bắt đầu lan tỏa, với những
hình thức phát triển hơn, sang phía Tây và phía Đông, sang Tân thế giới và vào
Trung Âu, những nơi mà các cuộc chiến tranh hao người tốn của và áp bức chính
trị đã không tạo điều kiện cho hệ tư tưởng mới đâm chồi nảy lộc ở mức độ tương
tự[3].
Giải
phóng cá nhân khỏi tất cả các quy định và luật lệ kìm hãm các hoạt động thường
ngày của mình là xu hướng phát triển xã hội chủ đạo trong suốt giai đọan này
của lịch sử châu Âu. Và chỉ khi quá trình phát triển đó đã tạo được một số tiến
bộ người ta mới bắt đầu hiểu được rằng, những cố gắng mang tính tự phát và
không bị kiểm soát của các cá nhân đã có khả năng tạo ra hệ thống kinh tế phức
tạp. Quá trình chau truốt những luận cứ vững chắc ủng hộ tự do kinh tế chỉ diễn
ra sau khi tự do kinh tế đã mang lại kết quả - một sản phẩm phụ không hề được
dự liệu và khá bất ngờ của tự do chính trị.
Có
thể kết quả vĩ đại nhất của việc giải phóng năng lượng của các cá nhân là sự phát
triển kì diệu của khoa học, theo sau việc truyền bá tư tưởng tự do cá nhân từ Ý
vào Anh và một loạt nước khác. Trong các giai đoạn trước, sức sáng tạo của con
người cũng không hề kém, những món đồ
chơi tự động tinh xảo và các kết cấu cơ khí khác, được chế tạo trong thời kì
công nghiệp chưa phát triển, trừ những ngành như khai khoáng và chế tạo đồng hồ
là những ngành hầu như không bị kiểm soát và hạn chế, đã chứng tỏ điều đó.
Nhưng một vài cố gắng nhằm áp dụng các phát minh cơ khí vào sản xuất công
nghiệp, trong đó có những phát minh cực kì tân tiến, đều bị chặn đứng ngay lập
tức, khát vọng tri thức cũng bị bóp nghẹt; đấy là khi quan điểm giữ thế thượng
phong của đa số áp đặt cho mọi người: Niềm tin của tuyệt đại đa số về cái đúng,
cái sai và những việc được phép làm đã ngăn chặn những người có khả năng sáng tạo.
Chỉ đến khi tự do kinh doanh mở đường cho việc sử dụng tự do các tri thức mới,
chỉ đến khi có thể thử làm mọi thứ - miễn là tìm được người sẵn sàng chấp nhận
rủi ro – và, phải nói thêm rằng thường thì đấy không phải là những người được
chính quyền chỉ định để chuyên lo về học hành, khoa học đã tiến được những bước
tiến vĩ đại, dẫn đến sự thay đổi bộ mặt của thế giới trong một trăm năm mươi
năm qua.
Như
vẫn thường xảy ra, kẻ thù chứ không phải những người bạn của nền văn minh lại
là người nhìn thấy rõ bản chất của văn minh: “Sự nổi dậy của cá nhân chống lại
cộng đồng, thứ bệnh kinh niên của phương Tây”, như August Comte, một người có
tư tưởng toàn trị nổi tiếng thế kỉ XIX đã mô tả chính xác, là lực lượng đã xây
dựng nên nền văn minh của chúng ta. Làm cho tất cả các giai cấp trong xã hội
đều nhận thức được các nguyên tắc của tự do, việc phát triển và truyền bá một
cách có hệ thống tư tưởng vốn chỉ sinh sôi nảy nở một cách tình cờ và ở những
khu vực tách biệt nhau, truyền bá nó từ Anh và Hà Lan sang hầu hết lục địa châu
Âu là đóng góp của thế kỉ XIX đối với của chủ nghĩa cá nhân.
Kết
quả vượt mọi kì vọng. Ở đâu các rào cản đối với sự sáng tạo của con người được
dỡ bỏ thì người ta đều nhanh chóng đáp ứng được những nhu cầu ngày càng gia
tăng của mình. Và khi tiêu chuẩn của cuộc sống được nâng lên thì người ta lại
phát hiện ra các mặt tối không thể chấp nhận được, quá trình này đã mang lại
lợi ích đáng kể cho tất cả các giai cấp. Sẽ là không công bằng nếu đánh giá sự phát
triển đáng kinh ngạc đó bằng những tiêu chuẩn của ngày hôm nay, chính những
tiêu chuẩn này cũng là kết quả của quá trình phát triển và hiện đã làm cho
nhiều khiếm khuyết trở thành rõ ràng. Muốn đánh giá ý nghĩa của nó đối với
những người từng tham gia vào quá trình đó, chúng ta phải so sánh kết quả của
nó với niềm hi vọng và ước mơ mà người ta từng giữ trong đầu khi nó vừa khởi
sự: Không nghi ngờ gì rằng thành công cao hơn hẳn tất cả những ước mơ ngông
cuồng nhất; đến đầu thế kỉ XX người công nhân ở phương Tây đã đạt được mức độ
sung túc, an toàn về vật chất, sự tự chủ cá nhân mà một trăm năm trước tưởng
như khó mà với tới được.
Nếu
xem xét giai đoạn này trong một viễn cảnh lịch sử rộng lớn hơn thì phải nói
rằng, cảm giác hoàn toàn mới về quyền lực của con người đối với số phận và niềm
tin vào khả năng cải thiện không giới hạn điều kiện sống của mình chính là kết
quả có ý nghĩa nhất của tất cả các thành tựu đó. Cùng với thành công là những
tham vọng mới – con người có quyền tham vọng. Cái vốn được coi là hứa hẹn có
khả năng truyền cảm hứng cho người ta làm việc dường như không còn đủ sức hấp
dẫn nữa, tốc độ phát triển lại bị coi là quá chậm, và, những nguyên tắc vốn là
nền tảng của quá trình phát triển lại bị coi là trở ngại, không để người ta
tiến nhanh hơn; phải nhanh chóng dẹp bỏ chứ không còn là điều kiện để duy trì
và phát triển những thành tựu đã đạt được.
*
* *
Không
có nguyên tắc nền tảng nào của chủ nghĩa tự do có thể làm cho nó trở thành hệ
thống giáo điều bất di bất dịch; ở đây không có các quy tắc cứng nhắc, nhất
thành bất biến. Nguyên tắc cơ bản nhất là, trong khi tổ chức công việc của
mình, chúng ta càng dựa nhiều vào các lực lượng tự phát của xã hội và càng ít sử
dụng lực lượng cưỡng ép thì càng tốt. Nguyên tắc này có thể được áp dụng cho vô
vàn hoàn cảnh khác nhau. Cụ thể, tất cả khác biệt là thiết lập một cách có chủ
ý hệ thống để cơ chế cạnh tranh có thể hoạt động một cách hữu hiệu nhất, còn
bên kia là chấp nhận một cách thụ động các thiết chế xã hội như chúng vốn là. Có
lẽ tác hại lớn nhất đối với chủ nghĩa tự do chính là thái độ kiên quyết của một
số người ủng hộ nó trong việc bảo vệ một vài nguyên tắc mang tính kinh nghiệm chủ
nghĩa (the rules of thumb), mà trước hết là nguyên tắc laissez-faire. Theo một
nghĩa nào đó thì đấy là việc cần phải làm và không thể nào tránh được. Nhưng, trước
vô vàn nhóm lợi ích sẵn sàng chỉ ra hiệu quả trực tiếp và rõ ràng của một số
biện pháp nào đó, trong khi thiệt hại mà chúng gây ra lại không trực tiếp và
khó thấy hơn - người ta thường muốn có ngay những quy tắc cứng nhắc, nhất thành
bất biến. Vì không còn ai nghi ngờ nguyên tắc tự do kinh doanh nữa, nên sức cám
dỗ muốn coi nguyên tắc này là tuyệt đối đúng, không có ngoại lệ nào, mạnh đến
mức không thể cưỡng lại được.
Nhiều
người truyền bá chủ nghĩa tự do đều có thái độ như thế, hầu như chắc chắn là
chỉ cần một luận điểm bị bác bỏ là cả toà lâu đài sẽ sụp đổ ngay lập tức. Trong
khi đó, lập trường của chủ nghĩa tự do lại bị suy yếu vì quá trình hoàn thiện
khuôn khổ định chế của xã hội tự do tiến triển rất chậm. Quá trình này phụ
thuộc trực tiếp vào sự hiểu biết của chúng ta về các lực lượng xã hội và những
điều kiện thuận lợi nhất để các lực lượng này hoạt động theo cách mà ta mong
muốn. Chúng ta phải ủng hộ và khi cần thì giúp đỡ cho nó hoạt động, nhưng trước
hết, phải hiểu rõ bản chất của chúng. Người theo chủ nghĩa tự do đối với xã hội
cũng như người làm vườn đối với cây cối, muốn tạo điều kiện tốt nhất cho sự
phát triển của nó, anh ta phải biết càng nhiều về cơ cấu và sự hoạt động của nó
thì càng tốt.
Bất
cứ người có suy nghĩ lành mạnh nào cũng đồng ý rằng các luật lệ thô thiển, được
sử dụng để trình bày các nguyên tắc của chính sách kinh tế thế kỉ XIX, chỉ là bước
đầu, chúng ta còn phải học hỏi nhiều, và con đường chúng ta đang đi còn tiềm ẩn
rất nhiều khả năng để cho chúng ta cải tiến. Nhưng chúng ta chỉ có thể cải tiến
khi chúng ta ngày càng làm chủ được về mặt trí tuệ những lực lượng mà chúng ta
đã và đang sử dụng. Nhiều nhiệm vụ đã rõ, thí dụ, việc điều chỉnh hệ thống tiền
tệ, ngăn chặn hay kiểm soát độc quyền, quá nhiều nhiệm vụ khác không hiển nhiên
như thế, nhưng cũng không kém phần quan trọng, cần phải giải quyết trong những
lĩnh vực mà chắc chắn là chính phủ có nhiều quyền lực để làm cả việc thiện lẫn
việc ác; và có đầy đủ cơ sở để tin rằng đến lúc nào đó, sau khi đã hiểu rõ hơn những
vấn đề này, chúng ta có thể sử dụng quyền lực của chính phủ để làm việc thiện.
Nhưng
vì tiến bộ, thường được gọi là hành động “tích cực”, nhất định phải diễn ra một
cách chậm chạp, và trong khi muốn có cải thiện ngay lập tức, chủ nghĩa tự do
lại chỉ có thể dựa vào sự tăng dần phúc lợi mà tự do có thể cung cấp, nó còn phải
thường xuyên chiến đấu chống lại những đề nghị đe doạ chính sự tiến bộ đó. Càng
ngày chủ nghĩa tự do càng bị coi là tín điều “tiêu cực” vì với mỗi con người cụ
thể nó chỉ có thể hứa sẽ được chia thêm một ít nếu cả xã hội cùng tiến bộ - sự
tiến bộ ngày càng được coi là đương nhiên chứ không phải là kết quả của chính
sách kinh tế tự do nữa. Thậm chí có thể nói rằng chính thành tựu của chủ nghĩa
tự do lại là nguyên nhân đưa nó đến chỗ suy tàn. Vì, sau những thành tựu đã đạt
được, con người ngày càng không muốn chịu đựng những cái xấu xa mà anh ta cho
là không cần thiết và không thể chấp nhận được.
*
* *
Thái
độ bất mãn ngày càng gia tăng trước sự cải tiến một cách chậm chạp chính sách
tự do, cùng với sự bất bình chính đáng trước những kẻ sử dụng ngôn từ của chủ
nghĩa tự do nhằm nhằm bảo vệ những đặc quyền đặc lợi đi ngược lại lợi ích của
xã hội và tham vọng vô bờ bến dường như được biện hộ bởi những cải thiện vật
chất đã giành được, đã dẫn đến kết quả là đến cuối thế kỉ XIX, niềm tin vào các
nguyên tắc chủ yếu của chủ nghĩa tự do đã ngày càng bị suy giảm thêm. Những
thành tựu đã đạt được được coi là tài sản chắc chắn và sẽ tồn tại đến muôn đời
sau. Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào những nhu cầu mới và cho rằng việc bám vào
những nguyên tắc cũ đã ngăn cản không cho chúng ta thỏa mãn nhanh chóng những
nhu cầu đó. Ngày càng có nhiều người cho rằng không thể tiếp tục phát triển
trong cái khuôn khổ đã từng làm cho tiến bộ trong giai đoạn trước đây là khả
thi, mà phải cải tạo một cách toàn diện xã hội. Vấn đề không còn là đưa thêm
vào bộ máy một vài bộ phận hay cải tiến nó mà là dỡ bỏ và thay thế nó. Và, vì
mọi kì vọng của thế hệ mới đều hướng vào một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ, mối quan
tâm và tìm hiểu nguyên tắc vận hành của xã hội này đã nhanh chóng suy giảm, và,
do hiểu biết về nguyên tắc vận hành của xã hội tự do suy giảm cho nên nhận thức
của chúng ta về những điều kiện tồn tại của nó cũng giảm dần.
Đây
không phải là chỗ để thảo luận việc chuyển một cách thiếu phê phán những thói
quen tư duy liên quan tới những vấn đề kĩ thuật, thói quen tư duy của những
người nghiên cứu khoa học tự nhiên và kĩ sư sang những vấn đề xã hội đã thúc
đẩy chuyển hóa nhận thức như thế nào và đồng thời, những thói quen tư duy này
có xu hướng làm mất uy tín những kết quả nghiên cứu xã hội trong quá khứ, những
kết quả không ăn nhập với những thành kiến của họ và áp đặt các lý tưởng của mình
về tổ chức vào lĩnh vực hoàn toàn không phù hợp[4]. Điều mà tất cả
chúng ta cùng quan tâm ở đây là chỉ ra rằng, dù diễn ra một cách từ từ và bằng
những bước đi gần như không thể nhận ra được, thái độ của chúng ta đối với xã
hội đã thay đổi một cách triệt để đến mức nào. Nhưng dường như tại mỗi giai
đoạn, đấy chỉ là sự khác biệt về mức độ, nhưng hiệu quả được tích luỹ lại làm
cho cách tiếp cận những các vấn đề xã hội hiện nay khác hẳn với cách tiếp cận
của những người theo phái tự do trước đây. Sự thay đổi đã làm đảo lộn cái xu
hướng mà chúng ta vừa phác thảo: vứt bỏ hoàn toàn truyền thống cá nhân chủ
nghĩa, cội nguồn của nền văn minh phương Tây.
Phù
hợp với các quan điểm thịnh hành đương thời, vấn đề sử dụng một cách hiệu quả
nhất tiềm lực của các lực lượng tự phát trong lòng xã hội đã không còn được nói
tới nữa. Trên thực tế, chúng ta đã không còn dựa vào những lực lượng tạo ra
những kết quả không thể dự đoán được, và tìm cách thay cái cơ chế ẩn danh và
phi cá tính của thị trường bằng lãnh đạo tập thể và “tự giác”, hướng tất cả các
lực lượng xã hội vào những mục tiêu đã được lựa chọn một cách thận trọng. Quan
điểm cực đoan trong cuốn sách bàn về cương lĩnh gọi là “kế hoạch hóa vì tự do”,
được nhiều người chào đón, thể hiện rõ nhất sự khác biệt giữa hai cách tiếp
cận; chúng ta sẽ còn trở lại không chỉ một lần với cuốn sách này. “Chúng ta
chưa bao giờ thiết lập và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tự nhiên”, K. Mannheim
viết, “nhưng hôm nay chúng ta buộc phải làm điều đó với xã hội… Nhân loại ngày càng
cố gắng điều tiết toàn bộ đời sống xã hội của mình, mặc dù họ chưa bao giờ có ý
định thiết lập môi trường tự nhiên thứ hai”[5].
*
* *
Đáng
lưu ý là sự thay đổi nhận thức lại đi theo hướng ngược với hướng mà trước đây
tư tưởng đã từng dịch chuyển trong không gian. Các tư tưởng của nước Anh đã lan
truyền sang phương Đông trong suốt hai thế kỉ. Nguyên tắc tự do, đã thành tựu ở
nước Anh; dường như số phận của nó là phải lan truyền ra khắp thế giới. Nhưng
đến khoảng năm 1870 thì quá trình bành trướng của các tư tưởng của nước Anh đã
đạt đến điểm xa nhất ở phương Đông. Từ đó trở đi, nó bắt đầu rút lui và những
tư tưởng khác, thực ra là không mới, mà rất cũ, bắt đầu tấn công theo hướng từ
Đông sang Tây. Nước Anh đánh mất vai trò lãnh tụ tinh thần trong các lĩnh vực
chính trị và xã hội và trở thành nước nhập khẩu tư tưởng. Trong sáu mươi năm
tiếp theo, nước Đức trở thành trung tâm hình thành và truyền bá tư tưởng cai
trị thế giới cả Đông và Tây trong suốt thế kỉ XX. Dù đấy có là Hegel hay Marx,
List hay Schmoller, Sombart hay Mannheim, dù đấy có là chủ nghĩa xã hội dưới
dạng cấp tiến hay đơn giản là “tổ chức” hoặc “kế hoạch hoá”, thì tư tưởng Đức cũng
được người mọi người trên khắp thế giới sẵn sàng nhập khẩu và sẵn sàng tái tạo
các thiết chế Đức ngay trên quê hương mình.
Mặc
dù phần lớn các tư tưởng mới này, trong đó có chủ nghĩa xã hội, không phải sản
phẩm chính hiệu của nước Đức, nhưng chúng đã được trau chuốt trên đất Đức trong
hai mươi lăm năm cuối thế kỉ XIX và trong hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX thì
hoàn toàn trưởng thành. Hiện nay người ta thường quên sự kiện là Đức có vai trò
quan trọng như thế nào trong việc dẫn dắt, cả về lý thuyết lẫn thực hành, chủ
nghĩa xã hội trong giai đoạn đó và một thế hệ trước khi ở Anh người ta bắt đầu
thảo luận một cách nghiêm túc về chủ nghĩa xã hội thì ở quốc hội Đức đã có một
đảng xã hội chủ nghĩa hùng mạnh rồi và cho đến tận thời gian gần đây lý thuyết
xã hội chủ nghĩa vẫn được phát triển chủ yếu là ở Đức và Áo, thậm chí những
cuộc thảo luận đang diễn ra ở Nga hiện nay cũng chỉ là sự tiếp tục cái mà người
Đức đã bỏ dở mà thôi. Phần lớn những người xã hội chủ nghĩa ở Mỹ và Anh vẫn không
biết rằng phần lớn những vấn đề mà họ vừa mới phát hiện đã được những người xã
hội chủ nghĩa Đức thảo luận kĩ càng từ rất lâu rồi.
Người
ta cho rằng các nhà tư tưởng Đức có ảnh hưởng mạnh mẽ như thế không chỉ là vì
nước Đức đã đạt được những tiến bộ to lớn trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà
chủ yếu là vì uy tín to lớn mà trường phái khoa học và triết học Đức đã giành
được trong suốt thế kỉ trước đó, tức là sau khi Đức trở thành thành viên đầy đủ
và thậm chí dẫn đầu trong nền văn minh châu Âu. Nhưng chính cái uy tín đó chẳng
bao lâu sau đã giúp quảng bá cho những tư tưởng phá hoại các cơ sở của nền văn
minh này. Chính người Đức, ít nhất là những người tham gia vào việc truyền bá
những tư tưởng này, đã hiểu rõ cuộc xung đột: Từ lâu, trước khi chủ nghĩa quốc
xã xuất hiện, ở Đức người ta đã gọi các truyền thống của châu Âu là “Tây”,
nghĩa là phía tây sông Rhine. Chủ nghĩa tự do và chế độ dân chủ, chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa cá nhân, tự do buôn bán và mọi biểu hiện của chủ nghĩa quốc tế
và tình yêu hoà bình đều là “Tây” hết.
Mặc
dù ngày càng nhiều người Đức có thái độ khinh thường chẳng cần che đậy đối với
các lý tưởng “rỗng tuếch” của phương Tây, hay chính vì thế mà dân phương Tây
tiếp tục nhập khẩu các tư tưởng của Đức và thậm chí còn chân thành tin rằng các
quan điểm của mình trước đây thực chất chỉ là lời biện hộ cho những quyền lợi
ích kỉ, rằng nguyên tắc tự do kinh doanh được bịa ra để nhằm củng cố quyền lợi
của nước Anh, rằng các lý tưởng chính trị của Anh và Mỹ đã già cỗi lắm rồi, nói
đến làm gì cho thêm xấu hổ.
[1] Thậm chí ngay trong năm đó (1931), báo cáo của
Macmillan đã viết: “trong mấy năm gần đây đã có sự thay đổi quan điểm của chính
phủ đối với chức năng của mình và mối bận tâm của nội các, không phụ thuộc vào
đảng phái, về việc tăng cường quản lý đời sống của các công dân” và nói thêm:
“Quốc hội càng ngày càng thông qua nhiều văn bản pháp qui, có chức năng điều
chỉnh trực tiếp công việc hàng ngày của cộng đồng và can thiệp vào những việc
mà trước đây được coi là không phải chức năng của nó”. Những điều như thế được
viết khi nước Anh quyết định làm một bước ngoặt quyết định vào cuối năm đó và
trong giai đọan 1931-1939 đã cải tạo nền kinh tế của mình sâu sắc đến mức không
còn nhận ra được nữa.
[2] Những lời cảnh báo gần đây hơn, những lời cảnh
báo đã trở thành hiện thực với độ chính các cực kì cao, cũng đã bị lãng quên.
Gần ba mươi năm trước, Hilaire Belloc đã viết một cuốn sách giải thích các sự
kiện diễn ra ở Đức từ đó đến nay, lời giải thích còn chính xác hơn tất cả các
khảo cứu viết sau khi sự kiện đã diễn ra: “Tác động của học thuyết xã hội chủ
nghĩa lên chủ nghĩa tư bản sẽ làm nảy sinh một thể chế hòan tòan mới, khác hẳn
cội nguồn của nó – xin gọi đấy là nhà nước nô lệ tòan triệt”. (Hilaire Belloc. The Servile State, 1913, 3rd ed. 1927.
trang 14)
[3] Hậu quả của việc khuất phục và tiêu diệt một
phần tầng lớp tư sản Đức bởi các lãnh chúa thế kỉ XV-XVI vẫn còn để lại những
di sản cực kì nặng nề đối với châu Âu hiện nay.
[4] Tôi
đã cố gắng phân tích chuyện này trong hai loạt bài Chủ nghĩa khoa học và nghiên
cứu xã hội (Scientism and the Study of Society) và Sự phản cách mạng của khoa
học (the Counter-Revolution of Science), đăng trên tạp chí Economica trong các năm 1941-1944.
Mặc dù ngày càng nhiều người Đức có thái độ khinh thường chẳng cần che đậy đối với các lý tưởng “rỗng tuếch” của phương Tây, hay chính vì thế mà dân phương Tây tiếp tục nhập khẩu các tư tưởng của Đức và thậm chí còn chân thành tin rằng các quan điểm của mình trước đây thực chất chỉ là lời biện hộ cho những quyền lợi ích kỉ, rằng nguyên tắc tự do kinh doanh được bịa ra để nhằm củng cố quyền lợi của nước Anh, rằng các lý tưởng chính trị của Anh và Mỹ đã già cỗi lắm rồi, nói đến làm gì cho thêm xấu hổ.
ReplyDelete