Dẫn nhập
Ít có cái gì làm người ta bực bội hơn là
những công trình nghiên cứu phát hiện được gia phả của
các hệ tư tưởng
Lord Acton
Friedrich August von Hayek (1899-1992)
Các
sự kiện đương thời khác với sự kiện lịch sử ở chỗ ta không biết chúng sẽ đưa
mình tới đâu. Nhìn lại, chúng ta có thể đánh giá được các sự kiện trong quá khứ
và có thể theo dõi được hậu quả của chúng. Nhưng đối với chúng ta, lịch sử đang
diễn ra lại không phải là lịch sử. Nó dẫn chúng ta đến những miền đất lạ và
chúng ta hầu như chẳng bao giờ có thể đoán được chuyện sẽ đợi mình trong tương
lai. Mọi chuyện sẽ khác nếu ta có điều kiện trải qua cùng những sự kiện đó một
lần thứ hai, khi đã biết trước kết quả của chúng. Khi đó chúng ta sẽ nhìn sự
vật với con mắt hoàn toàn khác và sẽ nhận thấy những tín hiệu của sự biến dịch
mà hôm nay chúng ta gần như không nhận thức được! Nhưng kinh nghiệm như thế là
không thể xảy ra, con người không thể biết các quy luật của lịch sử, mà có lẽ
như thế lại là may.
Mặc
dù lịch sử không lặp lại theo đúng nghĩa đen của từ này, nhưng mặt khác, sự
phát triển của các sự kiện lại không phải là một tiến trình tất yếu, chúng ta
có thể rút ra được những bài học từ quá khứ nhằm ngăn chặn sự lặp lại của một
số quá trình nào đó. Không cần phải là nhà tiên tri mới có thể nhận thức được
mối đe doạ đang đến gần. Đôi khi sự kết hợp giữa kinh nghiệm và mối quan tâm
lại bất ngờ cho phép một người nhìn thấy các sự vật dưới góc độ mà nhiều người
khác không nhận ra.
Những
trang sau đây là kết quả rút ra từ kinh nghiệm của tôi. Tôi dường như đã sống
đến hai lần trong cùng một giai đoạn, ít nhất là đã quan sát đến hai lần sự
tiến hoá rất giống nhau của các hệ tư tưởng. Một người sống suốt đời trong một
nước thì khó mà có kinh nghiệm như thế, nhưng nếu sống đủ lâu ở những nước khác
nhau thì trong một số hoàn cảnh nhất định, kinh nghiệm như thế là hoàn toàn có
thể xảy ra. Dù tư tưởng của phần lớn các dân tộc văn minh cùng chịu những ảnh
hưởng như nhau, nhưng những ảnh hưởng này lại xuất hiện trong những thời điểm
khác nhau và với tốc độ khác nhau. Vì vậy, khi đi từ nước nọ sang nước kia ta
có thể chứng kiến đến hai lần cùng một giai đoạn phát triển của trí tuệ. Tình
cảm trở thành đặc biệt sâu sắc hơn. Khi lần thứ hai ta nghe thấy những ý kiến
hay những lời kêu gọi mà ta đã từng nghe hai mươi hay hai mươi lăm năm về trước
thì những lời nói ấy đã có thêm ý nghĩa thứ hai, được coi như là triệu chứng của
một xu hướng nhất định, được coi như là chỉ dấu, nếu không phải là sự tất yếu
thì cũng là khả năng, cho sự phát triển của các sự kiện tương tự như lần thứ
nhất.
Đã
đến lúc phải nói rõ sự thật, dù nó có thể cay đắng đến đâu: chúng ta có nguy cơ
lặp lại số phận của nước Đức. Đúng là mối nguy chưa ở ngay trước mắt và tình
hình ở Anh cũng như ở Mỹ còn khác xa với tình hình ở Đức mà chúng ta chứng kiến
trong mấy năm gần đây, khó có thể tin rằng chúng ta đang đi theo cùng hướng đó.
Nhưng, mặc dù con đường đó còn xa, cần phải thấy rằng mỗi lần tiến sâu vào là
một lần khó quay trở lại. Về dài hạn, chúng ta làm chủ số phận của mình, nhưng
trong ngắn hạn, chúng ta lại là tù binh của những tư tưởng do chính mình tạo
ra. Phải kịp thời nhận ra mối nguy thì mới có hi vọng tránh được con đường nguy
hiểm đó.
Nước
Anh và nước Mỹ hiện nay hoàn toàn không giống với nước Đức của Hitler mà chúng
ta biết trong cuộc chiến tranh này. Nhưng bất cứ người nghiên cứu lịch sử tư
tưởng xã hội nào cũng không thể bỏ qua sự tương đồng, không chỉ bề ngoài, của
sự phát triển các ý tưởng ở Đức trong và sau Thế chiến I với những luồng tư
tưởng đang lan tràn trong các nước dân chủ. Ở đây, người ta cũng đang thể hiện
rõ quyết tâm giữ nguyên các cơ cấu tổ chức được thành lập cho mục đích quốc
phòng để sử dụng cho công cuộc kiến thiết trong thời bình. Ở đây, cũng có cùng
xu hướng coi thường tư tưởng tự do thế kỉ XIX, cùng “chủ nghĩa hiện thực” giả
dối và cũng sẵn sàng chấp nhận “các xu hướng không thể tránh ngược” như là một
định mệnh. Ít nhất, chín trong mười bài học mà các nhà cải cách to mồm kêu gọi
chúng ta rút ra từ cuộc chiến tranh này cũng chính là những bài học mà người
Đức đã học được từ cuộc chiến tranh trước và nhờ đó mà họ đã tạo ra hệ thống Quốc
xã. Đọc cuốn sách này, độc giả sẽ có một vài cơ hội để nhận ra rằng, trong
nhiều lĩnh vực chúng ta đang đi theo nước Đức, với khoảng cách là từ mười lăm
đến hai mươi lăm năm. Người ta không muốn bị nhắc nhở về chuyện đó, nhưng cái
thời mà các nhà tiên phong còn coi chính sách xã hội chủ nghĩa của Đức là thí
dụ đáng theo chưa phải là xa, cũng như mới gần đây thôi, mọi con mắt của những
người tiến bộ đều đổ dồn vào Thuỵ Điển. Còn nếu đi xa hơn nữa thì không thể
không nhớ rằng chính sách và hệ tư tưởng Đức đã có ảnh hưởng sâu sắc như thế
nào đối với lý tưởng của cả một thế hệ người Anh và ở một chừng mực nào đó, đối
với cả người Mỹ trước Thế chiến I.
Tác
giả đã sống hơn nửa cuộc đời trưởng thành ở nước Áo quê hương, gắn bó với môi
trường trí tuệ Đức, nửa còn lại ở Anh và Mỹ. Trong giai đoạn thứ hai này, càng
ngày tác giả càng tin tưởng rằng ít ra là một số thế lực đã từng giết chết nền
tự do Đức cũng đang hoạt động tại đây, trong khi đó, đặc điểm và nguồn gốc của
hiểm nguy lại được nhận thức một cách hời hợt hơn ở Đức trước kia. Bi kịch lớn
nhất là ở chỗ người ta vẫn chưa nhìn thấy rằng tại Đức, đa số những người tử
tế, những người được coi là mẫu mực và được mọi người trong các nước dân chủ
ngưỡng mộ, đã dọn đường cho những lực lượng hiện thân của những điều mà họ ghê
tởm. Để tránh một số phận như thế, chúng ta phải tỉnh táo, chúng ta phải sẵn
sàng xét lại những niềm hi vọng và khát vọng đã ăn sâu bén rễ nếu chúng chứa
đựng nguồn gốc của hiểm nguy. Hiện thời, mọi việc đều chứng tỏ rằng chúng ta
chưa có đủ dũng khí trí tuệ cần thiết để công nhận những sự lầm lẫn của mình.
Chúng ta không muốn nhìn nhận rằng sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa phát xít và
chủ nghĩa quốc xã không phải là phản ứng chống lại các xu hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá khứ mà là kết quả tất
yếu của chính các xu hướng đó. Đấy là sự thật mà nhiều người không muốn nhìn
nhận, ngay cả khi sự tương đồng giữa những đặc điểm xấu xa nhất của các
chế độ cộng sản Nga và chủ nghĩa xã hội quốc gia Đức đã được công nhận một cách
rộng rãi. Kết quả là nhiều người, trong khi bác bỏ hệ tư tưởng quốc xã và thực
tâm căm thù mọi biểu hiện của nó, lại đi theo những lý tưởng mà nếu được thực
hiện thì sẽ dẫn thẳng đến chế độ chuyên chế mà họ kinh tởm.
Mọi
so sánh giữa những con đường phát triển của các nước khác nhau đều dễ gây ngộ
nhận. Nhưng lý lẽ của tôi được xây dựng không chỉ dựa trên những so sánh kiểu
đó. Tôi cũng không khẳng định rằng sự phát triển như thế là không thể tránh
khỏi. Nếu không tránh được thì viết làm gì. Tôi chỉ khẳng định rằng, có thể
ngăn chặn được một số xu hướng nếu kịp thời làm cho dân chúng hiểu rằng các nỗ
lực của họ đang thực sự dẫn tới đâu. Cho đến mãi gần đây, hi vọng
được lắng nghe là không cao. Nhưng bây giờ, dường như, thời cơ cho một cuộc
thảo luận nghiêm túc vấn đề đã chín muồi. Vấn đề không chỉ là hiện nay đã có
nhiều người nhận thức được tính nghiêm trọng của nó, mà còn có một số lý do nữa
buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật vào lúc giao thời này.
Có
thể có người cho rằng bây giờ không phải là lúc nêu ra vấn đề chứa đựng những
quan điểm xung đột sâu sắc đến như thế. Nhưng chủ nghĩa xã hội mà chúng ta nói
đến ở đây không phải là vấn đề đảng phái và các câu hỏi mà chúng ta thảo luận
cũng chẳng liên quan gì đến những cuộc tranh luận giữa các chính đảng. Bản chất
của vấn đề không bị ảnh hưởng bởi việc một số nhóm muốn
có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, còn những nhóm khác thì muốn bớt chủ nghĩa xã
hội đi; bởi việc số người kêu gọi chủ nghĩa xã hội nhân danh quyền lợi của phần
này của xã hội, trong khi những người khác lại nhân danh quyền lợi của phần
khác. Điều quan trọng là, ngày hôm nay, những người có khả năng ảnh hưởng đến
tiến trình phát triển của đất nước không ít thì nhiều, đều là những người xã
hội chủ nghĩa cả. Vì vậy, lời tuyên bố “tất cả chúng ta giờ đây đều là những người
xã hội chủ nghĩa” không còn phải nhắc đi nhắc lại nữa: đây là điều quá rõ ràng.
Ít người còn tỏ ra hoài nghi việc chúng ta phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và phần
lớn chỉ tìm cách lái phong trào này nhằm phục vụ cho quyền lợi của giai cấp cụ
thể hay nhóm người cụ thể mà thôi.
Chúng
ta đang tiến theo hướng đó vì gần như tất cả mọi người đều muốn như thế. Nhưng
hiện không có nhân tố khách quan nào làm
cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trở thành tất yếu cả. Chúng ta sẽ bàn về “kế
hoạch hóa” mà người ta cho là không thể tránh khỏi trong phần sau. Vấn đề chính
là phong trào này sẽ đưa chúng ta đến đâu? Nếu những người mà niềm tin vốn là
động lực của phong trào này bắt đầu nhìn thấy những ngờ vực mà hôm nay mới chỉ
ít người nói tới thì liệu họ có trở nên hỏang lọan và rời bỏ cuộc tìm kiếm mà
biết bao nhiêu người có thiện chí đã từng bị lôi kéo vào trong suốt nửa thế kỉ
qua? Niềm tin của cả thế hệ chúng ta sẽ đưa chúng ta đến đâu không phải là vấn
đề của một đảng mà là vấn đề của mỗi chúng ta – một vấn đề quan trọng nhất hiện
nay. Có bi kịch nào lớn hơn cái bi kịch mà, nếu chúng ta, trong khi cố gắng định
hình một cách có ý thức tương lai mình phù hợp những lý tưởng cao cả nhất, lại
vô tình tạo ra, trên thực tế, một chế độ trái ngược hoàn toàn với cái mà chúng
ta mong muốn?
Có
một lý do thậm chí còn cấp bách nữa buộc chúng ta phải suy nghĩ thấu đáo những lực
lượng đã sinh ra chủ nghĩa xã hội quốc gia: điều đó sẽ giúp chúng ta hiểu rõ kẻ
thù, hiểu rõ vì sao chúng ta lại cùng chung sức chiến đấu. Không thể phủ nhận
được rằng chúng ta còn chưa thật hiểu những lý tưởng tích cực mà chúng ta đang
bảo vệ trong cuộc chiến tranh này. Chúng ta biết rằng chúng ta đang bảo vệ
quyền tự do xây dựng cuộc đời theo các tư tưởng của mình. Thế đã là nhiều,
nhưng vẫn chưa đủ. Chưa đủ để chúng ta giữ vững niềm tin trong cuộc chiến đấu
chống lại những kẻ vẫn coi tuyên truyền, cả thô lậu lẫn tinh vi, là vũ khí chủ
yếu. Lại càng không đủ bởi vì sau chiến thắng chúng ta sẽ phải đối mặt với
những hậu quả của đường lối tuyên truyền đó, chắc chắn đây là những hậu quả lâu
dài, cả trong các nước thuộc phe Trục, cũng như trong các nước chịu ảnh hưởng
của phe này. Chưa đủ, nếu chúng ta muốn thuyết phục người khác chia sẻ các lý
tưởng và chiến đấu cùng với chúng ta; chưa đủ, nếu chúng ta muốn xây dựng một
thế giới mới, an toàn hơn và tự do hơn.
Sự
thật đáng buồn là, toàn bộ kinh nghiệm mà các nước dân chủ tiến hành để
đối phó với các chế độ độc tài trước khi xảy ra chiến tranh, cũng như cố gắng
của những nước này trong công tác tuyên truyền và thảo luận mục tiêu của cuộc
chiến, đã cho chúng ta thấy rõ sự mù mờ và thiếu nhất quán của mục tiêu, điều
đó chỉ có thể được lý giải là do sự thiếu rõ ràng của lý tưởng và sự thiếu hiểu
biết về bản chất của những sự khác biệt giữa các chế độ dân chủ và kẻ thù của
họ. Chúng ta đã tự làm mình rối trí vì không chịu tin rằng kẻ thù cũng thực sự
tin vào một số quan điểm mà chính chúng ta đang theo cũng như như tin vào sự
chân thành của một số lời tuyên bố khác của kẻ thù. Chẳng phải là tất cả các
đảng, cả phái tả lẫn phái hữu, đều đã bị lừa khi cho rằng Đảng xã
hội chủ nghĩa quốc gia bảo vệ chủ nghĩa tư bản và chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa xã hội đấy ư? Chẳng phải là người ta đã từng đề nghị lấy, khi thì yếu
tố này, khi thì yếu tố khác của hệ thống của Hitler làm hình mẫu phải theo, mà
không biết rằng những yếu tố đó là một phần không thể tách rời của hệ thống đó
và không thể tương thích với chế độ xã hội tự do mà chúng ta muốn bảo vệ hay
sao? Chỉ vì không hiểu rõ kẻ thù của mình mà chúng ta đã phạm hàng loạt sai
lầm, cả trước cũng như sau khi cuộc chiến nổ ra. Có cảm tưởng chúng ta không
muốn tìm hiểu con đường dẫn tới chế độ toàn trị vì sự hiểu biết như thế sẽ đe
doạ phá tan một vài ảo tưởng gần gũi nhất với tâm hồn của chúng ta.
Chưa
hiểu được đặc điểm và sự phát triển của những tư tưởng đang làm chủ trái tim và
khối óc người Đức thì chúng ta sẽ không thể nào thắng được họ. Lí thuyết về sự
đồi bại bẩm sinh của người Đức, mà ta lại được nghe nói nhiều trong thời gian
gần đây, không thể đứng vững trước bất kì lời chỉ trích nào và cũng không hoàn
toàn đáng tin với ngay cả những người phát minh ra nó. Đấy là chưa nói đến việc
lí thuyết này đã thóa mạ một loạt các nhà tư tưởng Anglo-Saxon, những người
thường xuyên tham khảo và tiếp thu được những điều tốt nhất và không chỉ những
điều tốt nhất của tư tưởng Đức trong suốt một thế kỉ qua. Nó đã bỏ qua sự kiện
là cách đây tám mươi năm John Stuart Mill đã lấy cảm hứng từ hai người Đức là
Goethe và Wilhelm von Humboldt để chấp bút tiểu luận On Liberty (Bàn về tự do)
vĩ đại của mình[1] và quên sự kiện
là hai bậc tiền bối có ảnh hưởng nhất đến tư tưởng quốc xã lại là Thomas
Carlyle và Houston Stewart Chamberlain, một người Scot và một người Anh. Quan
điểm đó không đem lại thanh danh cho các tác giả của nó vì mang trong mình nó
những đặc điểm tồi tệ nhất của những lí thuyết phân biệt chủng tộc của Đức.
Vấn
đề hoàn toàn không phải là vì sao người Đức lại xấu, có lẽ họ cũng chẳng tốt mà
cũng chẳng xấu hơn các dân tộc khác, mà là xác định những hoàn cảnh trong vòng
bảy mươi năm qua đã làm cho một số tư tưởng nhất định phát triển và giành được
chiến thắng tối hậu và vì sao chiến thắng đó, cuối cùng, đã đưa một số phần tử
xấu xa nhất lên đỉnh tháp quyền lực. Hơn nữa, căm thù mọi thứ liên quan đến Đức
chứ không căm thù các tư tưởng đang thống lĩnh tâm hồn người Đức còn nguy hiểm
hơn vì nó làm chúng ta không hiểu được mối đe dọa thật sự của mình. Đáng sợ vì
đấy là thái độ thoát li thực tế vì không muốn công nhận những xu hướng đang
diễn ra không chỉ ở Đức, không chịu xem xét và nếu cần thì bác bỏ những niềm
tin được mang về từ nước Đức, những thứ đã làm chúng ta lầm lạc chẳng khác gì
người Đức. Quy chủ nghĩa quốc xã cho sự đồi bại của người Đức còn nguy hiểm gấp
đôi vì với cái cớ như thế người ta dễ dàng áp đặt cho chúng ta chính những
thiết chế đã tạo ra sự đồi bại đó.
Những
lời giải thích các sự kiện ở Đức và Ý được đưa ra trong cuốn sách này khác hẳn
với quan điểm của đa số các nhà quan sát ngoại quốc và những người lưu vong vì lý
do chính trị từ những nước này. Nếu lời giải thích này đúng thì nó đồng thời
cũng giải thích vì sao những người lưu vong và các phóng viên Anh, Mỹ, mà đa số
là có quan điểm xã hội chủ nghĩa, đã không thể nhìn thấy những sự kiện đó như chúng
vốn là. Quan điểm vừa hời hợt vừa sai lầm, cho rằng chủ nghĩa xã hội quốc gia
chỉ là phản ứng của những nhóm người mà lợi ích và đặc quyền sẽ bị chủ nghĩa xã
hội đe dọa, lại được tất cả những người đã từng tham gia vào phong trào tư
tưởng đưa đến chiến thắng của chủ nghĩa xã hội quốc gia ủng hộ, nhưng đến một
lúc nào đó giữa những người này và quốc xã bỗng phát sinh mâu thuẫn và họ buộc
phải bỏ nước ra đi. Nhưng việc những người đó là lực lượng đối lập đáng kể duy
nhất đối với quốc xã chứng tỏ rằng, trên thực tế, tòan thể nhân dân Đức là
những người xã hội chủ nghĩa, theo nghĩa rộng hơn của từ này, và rằng chủ nghĩa
tự do, theo cách hiểu ban đầu của nó, đã bị chủ nghĩa xã hội thế chỗ. Tôi hi
vọng chứng minh được rằng xung đột giữa những người xã hội chủ nghĩa quốc gia
“cánh tả” và “cánh hữu” là thứ xung đột sẽ luôn luôn nảy sinh giữa các phe phái
xã hội chủ nghĩa cạnh tranh với nhau. Nếu lời giải thích này đúng thì có nghĩa
là nhiều người tị nạn theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong khi bám vào những
niềm tin của mình, mặc dù dự định của họ là tốt đẹp, trên thực tế đang thúc đẩy
các nước tiếp nhận họ đi theo con đường của nước Đức.
[1] Mời những người nghi ngờ chuyện này đọc thêm
tác phẩm Recollections của Lord
Morley, trong đó ông đã nói rõ là “mọi người đều công nhận” rằng luận cứ chính
của ‘Bàn về tự do’ được du nhập từ Đức chứ không phải là nguyên gốc (ở Anh
–ND).
[2] Sự tương đồng giữa chủ nghĩa xã hội và tổ chức
nhà nước Phổ, được xây dựng một cách có chủ ý từ trên xuống – không nước nào
được tổ chức như thế - là không thể phủ nhận được và đã được những người xã hội
chủ nghĩa Pháp thời kì đầu công nhận. Đã từ lâu, trước khi lý tưởng quản lý cả
quốc gia theo nguyên tắc quản lý nhà máy trở thành nguồn động viên của những
người xã hội chủ nghĩa thế kỉ XIX thì Novalis, một nhà thơ Phổ, đã phàn nàn
rằng “chưa bao giờ có một nhà nước được quản lý theo đúng nguyên tắc quản lý
nhà máy như nước Phổ sau khi Frederick William tạ thế” (Xem Novalis “Friedrich
von Hardenberg”. Glauben und Liebe, oder
der Konig und die Konigin, 1798
bài rất thực tế
ReplyDelete