Lời giới thiệu cho lần xuất bản
bìa mềm năm 1956
Đường về nô lệ, bản in cua NXB Kiến Tạo năm 2019
Mặc dù ở một vài khía cạnh nào đó, cuốn sách này có thể đã khác nếu ngay từ đầu tôi chủ ý viết nó trước hết cho các độc giả Mỹ, cho đến nay nó đã chứng tỏ rằng không cần viết lại gì cả. Việc tái bản nó dưới một hình thức mới, hơn mười năm sau lần xuất hiện đầu tiên, có lẽ là cơ hội để giải thích mục đích ban đầu và đưa ra vài lời bình luận về thành công hoàn toàn bất ngờ và trong nhiều phương diện là khá lạ lùng mà cuốn sách đã giành được ở đất nước này.
Cuốn sách được viết ở Anh trong những năm chiến tranh và hầu như được dự
định dành riêng cho độc giả Anh. Thực ra nó được nhắm đến cho một giai tầng đặc
biệt các độc giả Anh. Hoàn toàn không phải là giễu cợt khi tôi dành lời đề tặng:
“Tặng những người xã hội chủ nghĩa thuộc mọi đảng phái”. Nó xuất phát từ các cuộc thảo luận mà tôi đã
tiến hành suốt mười năm trước đó với các bạn bè và đồng nghiệp, những người có
cảm tình với cánh Tả, cuốn Đường về nô lệ
là sự tiếp tục các cuộc thảo luận đó.
Khi Hitler nắm được chính quyền ở Đức thì tôi đã giảng dạy ở Trường Đại
học Tổng hợp London (University of London) được mấy năm rồi, nhưng tôi vẫn giữ
quan hệ mật thiết với công việc ở Lục địa và vẫn làm như thế cho đến khi nổ ra
chiến tranh. Vì vậy, tôi đã nhận ra cội nguồn và sự phát triển của các phong
trào toàn trị khác nhau và điều đó đã làm cho tôi cảm thấy rằng dư luận xã hội
ở Anh, đặc biệt là những người bạn có quan điểm “tiên tiến” của tôi về các vấn
đề xã hội đã hoàn toàn hiểu sai bản chất của các phong trào đó. Thậm chí ngay
trước chiến tranh, điều này đã dẫn tôi đến tuyên bố trong một một tiểu luận
ngắn cái đã trở thành chủ đề chính của cuốn sách này. Nhưng sau khi chiến tranh
nổ ra, tôi cảm thấy rằng sự hiểu lầm phổ biến về hệ thống chính trị của kẻ thù
của chúng ta, cũng như của nước Nga, đồng minh mới của chúng ta, đã tạo ra một
nguy cơ nghiêm trọng, cần phải đáp trả bằng một nỗ lực có hệ thống hơn. Hơn
nữa, rõ ràng là bản thân nước Anh sau chiến tranh cũng muốn thử nghiệm chính
cái chính sách mà tôi tin rằng đã có đóng góp to lớn vào việc phá huỷ tự do ở
những nơi khác.
Vì vậy, cuốn sách này đã hình thành dần dần như một lời cảnh báo đối với
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa ở Anh; do tình hình thời chiến cho nên việc
xuất bản có bị chậm trễ và cuối cùng nó đã được xuất bản vào đầu mùa xuân năm
1944. Thời điểm này, vô tình, cũng sẽ giải thích vì sao tôi lại cảm thấy rằng
để có người nghe tôi phải hạn chế bình luận về các chế độ đồng minh của chúng
ta và chọn minh hoạ chủ yếu từ sự phát triển ở nước Đức.
Dường như cuốn sách đã xuất hiện vào thời điểm thuận lợi và tôi cảm thấy
hài lòng vì thấy nó đã thành công ở Anh, tuy theo một cách khác nhưng cũng
không kém so với thành tích mà nó đã đạt được ở Hoa Kỳ. Nói chung, cuốn sách đã
được tiếp nhận theo đúng tinh thần khi chấp bút, các lý lẽ của nó đã được những
người mà nó nhắm đến nghiên cứu một cách cẩn thận. Trừ một số nhà lãnh đạo
thuộc Công đảng - những người, dường như để cung cấp minh hoạ cho nhận xét của
tôi về xu hướng dân tộc chủ nghĩa trong phong trào xã hội chủ nghĩa, đã tấn
công cuốn sách với lý do tác giả là người ngoại quốc - việc những người có niềm
tin trái ngược hẳn với những kết luận của tác phẩm lại nghiên cứu nó với một
thái độ chín chắn và thông cảm đã tạo cho tôi ấn tượng sâu sắc[1]. Cũng có thể nói tương tự như thế về các nước
khác ở châu Âu, rốt cuộc, cuốn sách cũng đã xuất hiện ở đây; việc thế hệ hậu
quốc xã ở Đức đã tiếp nhận cuốn sách một cách đặc biệt nồng nhiệt, khi các bản
dịch xuất bản ở Thuỵ Sĩ được đưa đến nước này, là một tin vui bất ngờ đối với
tôi.
Vài tháng sau khi xuất hiện ở Anh, cuốn sách được xuất bản ở Hoa Kỳ và
được tiếp nhận hơi khác một chút. Khi viết, tôi ít nghĩ rằng nó sẽ có sức hấp
dẫn đối với độc giả Mỹ. Tôi đến Mỹ lần cuối cùng cách đấy đã hai mươi năm, khi
còn là một nghiên cứu sinh và đã phần nào mất liên hệ với tiến trình phát triển
tư tưởng ở Mỹ trong suốt thời gian đó. Tôi không biết chủ đề của cuốn sách có
liên quan trực tiếp đến tình hình ở Mỹ như thế nào và đã không hề ngạc nhiên
khi nó bị ba nhà xuất bản đầu tiên từ chối[2]. Chắc chắn điều bất ngờ nhất là sau khi được
nhà xuất bản hiện nay in, cuốn sách đã được tiêu thụ với tốc độ hầu như chưa
từng có từ trước đến nay đối với những tác phẩm không dành cho đại chúng thuộc
loại này[3]. Mức độ phản ứng từ cả hai cánh chính trị, sự
khen ngợi hết lời từ phía này và lòng thù hận không kém của phía kia, thậm chí
còn làm tôi ngạc nhiên hơn.
Trái với kinh nghiệm ở Anh, những người mà cuốn sách này chủ yếu hướng
tới, ở Mỹ dường như người ta đã chối bỏ nó ngay lập tức, họ coi nó là cuộc tấn
công hiểm độc và gian xảo vào những lý tưởng cao quí nhất của họ; dường như họ
chẳng bao giờ giành thời gian để nghiên cứu các lý lẽ của nó. Ngôn từ cũng như
tình cảm thể hiện trong những tác phẩm phê phán mang tính thù nghịch quả thực
là lạ lùng[4]. Việc nhiều người mà tôi nghĩ là sẽ chẳng bao
giờ đọc tác phẩm loại này, cũng như rất nhiều người mà đến nay tôi vẫn ngờ là
liệu họ thực sự đã đọc hay chưa đã nhiệt liệt chào mừng tác phẩm cũng là một
điều gây ngạc nhiên không kém. Tôi phải nói thêm rằng đôi khi bút pháp mà người
ta sử dụng làm cho tôi nhận thức một cách sinh động chân lý trong lời nhận xét
của Lord Acton rằng “bạn bè chân thành của tự do lúc nào cũng hiếm, và nó giành
được chiến thắng là nhờ thiểu số, họ thắng bằng cách liên kết với những trợ tá
có mục tiêu khác với mục tiêu của họ; sự liên kết này lúc nào cũng nguy hiểm và
đôi khi còn thảm khốc nữa”.
Sự khác nhau một cách bất thường
trong việc tiếp nhận cuốn sách ở hai bên bờ Đại Tây Dương có lẽ không phải là
hoàn toàn là do sự khác nhau về tính khí dân tộc. Càng ngày tôi càng tin rằng
phải tìm lời giải thích trong sự khác biệt về tri thức tại thời điểm đó. Ở Anh
và ở châu Âu nói chung, các vấn đề tôi thảo luận từ lâu đã không còn là vấn đề
trừu tượng nữa. Các lý tưởng mà tôi khảo sát đã hạ cánh xuống mặt đất từ lâu,
ngay cả những người ủng hộ nhiệt thành nhất cũng đã nhìn thấy một số khó khăn
và kết quả bất như ý, nếu đem áp dụng những lý tưởng này vào thực tiễn. Như vậy
là, tôi viết về những hiện tượng mà hầu hết các độc giả châu Âu của tôi đã có
ít nhiều kinh nghiệm, tôi chỉ lập luận một cách hệ thống và nhất quán điều mà
nhiều người đã cảm nhận được bằng trực giác. Nhiều người đã vỡ mộng và xem xét chúng
một cách có phê phán đơn giản chỉ là trình bày thành tiếng và rõ ràng hơn mà
thôi.
Ở Mỹ, ngược lại, các lý tưởng này vẫn còn mới mẻ và độc hại hơn. Phần
lớn giới trí thức mới bị nhiễm từ mười đến mười lăm năm nay chứ không phải là
bốn năm mươi năm như ở Anh. Và mặc dù đã có những thử nghiệm của Chính Sách Mới
(Chính sách do Tổng thống Roosevelt đưa
ra vào năm 1932 – ND), lòng nhiệt tình của họ đối với kiểu xã hội được xây dựng
một cách hợp lý phần lớn vẫn chưa bị kinh nghiệm thực tiễn vấy bẩn. Cái mà đối
với đa số người Âu, ở mức độ nào đó đã là vieux
jeux (trò chơi cũ – tiếng Pháp -
ND) thì đối với những người cấp tiến Mỹ vẫn là hi vọng rực rỡ về một thế giới
tốt đẹp hơn, niềm hi vọng mà họ đã ôm ấp và nuôi dưỡng trong suốt những năm Đại
Suy Thoái.
Ở Mỹ, dư luận thay đổi khá nhanh, và hiện nay khó mà nhớ được giai đoạn
ngắn ngủi trước khi cuốn Đường về nô lệ
xuất hiện, khi mà chính những người chẳng bao lâu sau đó sẽ đóng vai trò quan
trọng trong việc điều hành nhà nước đã ủng hộ một cách nghiêm túc hình thức
kinh tế kế hoạch hoá cực đoan nhất và coi mô hình Liên Xô là tấm gương cần noi
theo. Đưa ra bằng chứng là việc dễ, nhưng nêu tên các cá nhân là việc không
hay. Chỉ xin nói rằng Uỷ ban Kế hoạch hoá Quốc gia được thành lập vào năm 1934
đã dành nhiều chú ý cho việc học tập việc lập kế hoạch của bốn nước: Đức, Ý,
Nga và Nhật. Mười năm sau tất nhiên chúng ta đã coi chính các nước này là “toàn
trị” và chiến đấu khá lâu với ba nước và chẳng bao lâu sau thì bắt đầu “chiến
tranh lạnh” với nước thứ tư. Thế mà nội dung của cuốn sách này nói rằng diễn
tiến chính trị ở các nước đó có liên quan đến chính sách kinh tế của họ lại bị
những người ủng hộ kế hoạch hoá ở Mỹ bác bỏ một cách đầy phẫn nộ. Mọi người đột
ngột đồng thanh nói rằng cảm hứng kế hoạch hoá không đến từ nước Nga và còn
đoan chắc, như một nhà phê bình xuất sắc của tôi đã nói, rằng “sự thật đơn giản
là Ý, Nga, Nhật và Đức đã tiến đến chế độ toàn trị bằng những con đường hoàn
toàn khác nhau”.
Cuốn Đường về nô lệ xuất hiện
trong bầu không khi trí tuệ như thế, cho nên nó nhất định phải gây ra hoặc là
sự căm tức tột độ hoặc là sự thích thú lớn lao cho các thành viên của những
nhóm bị chia rẽ sâu sắc ở Hoa Kỳ. Hậu quả là, mặc dù có thành công bề ngoài,
cuốn sách đã không gây được ảnh hưởng như tôi muốn hay như đã gây ra ở các nơi
khác. Đúng là các kết luận của nó ngày nay đã được chấp nhận một cách rộng rãi.
Nếu mười hai năm trước nhiều người còn coi giả thuyết cho rằng chủ nghĩa phát
xít và chủ nghĩa cộng sản chỉ đơn thuần là các biến thể của chủ nghĩa toàn trị
do chế độ kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế tạo ra, là tội báng bổ thánh
thần thì ngày nay, hầu như đã trở thành câu nói cửa miệng của mọi người. Thậm
chí hiện nay, đa số đã nhận ra rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một việc rất
không ổn định và không chắc chắn, đầy những mâu thuẫn nội tại và ở đâu nó cũng
tạo ra những kết quả rất khó chịu với ngay cả nhiều người ủng hộ nó.
Những bài học rút ra từ các sự kiện và việc thảo luận một cách rộng rãi
các vấn đề[5] chắc chắn có đóng góp nhiều hơn cuốn sách này
trong việc tạo ra thái độ tỉnh táo nói trên. Khi được xuất bản, luận điểm tổng
quát của tôi cũng không phải là độc đáo. Những lời cảnh báo tương tự được đưa
ra sớm hơn phần nhiều đã bị lãng quên, những mối nguy hiểm gắn liền với các
chính sách mà tôi phê phán đã được nhiều người đưa ra từ trước rồi. Giá trị của
cuốn sách không phải là ở chỗ nhắc lại luận điểm này mà là ở việc khảo sát một
cách kiên trì và chi tiết các nguyên nhân vì sao kế họach hóa kinh tế lại dẫn
đến những kết quả bất như ý và các quá trình dẫn đến kết quả như thế.
Vì lý do đó, tôi hi vọng rằng bây giờ ở Mỹ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn
cho việc xem xét một cách nghiêm túc lý lẽ thật sự của cuốn sách hơn là khi nó
mới xuất hiện lần đầu. Tôi tin rằng những điều quan trọng trong cuốn sách vẫn
còn có giá trị, mặc dù tôi công nhận rằng ở phương Tây, chủ nghĩa xã hội
“nóng”, tức là phong trào ủng hộ việc tổ chức một cách có chủ ý đời sống kinh
tế do nhà nước làm chủ tất cả các phương tiện sản xuất, đã gần như chết hẳn
rồi. Thế kỉ của chủ nghĩa xã hội theo nghĩa này có lẽ đã cáo chung vào khỏang
năm 1948. Thậm chí các lãnh tụ của nó cũng đã vứt bỏ nhiều ảo tưởng, ở Mỹ cũng
như ở các nơi khác, ngay cái tên chủ nghĩa xã hội cũng đã mất hầu hết tính hấp
dẫn rồi. Không nghi ngờ gì rằng sẽ có những cố gắng nhằm cứu vãn một cái tên
cho các phong trào ít giáo điều hơn, ít cố chấp và ít hệ thống hơn. Nhưng luận cứ
chỉ để chống lại các quan niệm dứt khoát về công cuộc cải cách xã hội đặc trưng
cho các phong trào xã hội chủ nghĩa của quá khứ có thể bị người ngày nay coi là
cuộc chiến đấu với cối xay gió.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội “nóng” có thể đã thuộc về quá khứ, một số quan
điểm của nó đã ngấm quá sâu vào cơ cấu tư duy đương thời, cho nên ta không thể
có thái độ tự mãn được. Mặc dù hiện chẳng có mấy người ở phương Tây muốn xây
dựng lại xã hội từ dưới lên theo một kế hoạch lý tưởng nào đó, nhưng rất nhiều
người vẫn còn tin vào những biện pháp, tuy không được thiết kế một cách hòan
chỉnh, nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, tác động tổng thể của các biện pháp này vẫn
có thể tạo ra những kết quả như thế một cách không chủ ý. Và thậm chí còn hơn
cả lúc tôi viết cuốn sách này, sự ủng hộ các chính sách mà trong dài hạn không
thể dung hòa với việc bảo tồn xã hội tự do đã không còn là vấn đề đảng phái
nữa. Món hổ lốn các lý tưởng thường là thiếu nhất quán và được lắp ghép một
cách lộn xộn dưới cái tên Nhà nước Phúc lợi, về đại thể được những nhà cải cách
xã hội coi là mục tiêu thay cho chủ nghĩa xã hội, cần phải được chọn lựa một
cách cực kì cẩn thận nếu muốn nó không lặp lại kết quả y xì như chủ nghĩa xã
hội chính cống. Đấy không phải là nói một vài mục tiêu của nó là không thực
tiễn và không đáng ca ngợi. Có nhiều con đường đưa tới cùng mục tiêu đó, nhưng
trong tình hình dư luận hiện nay, có nguy cơ là sự nôn nóng muốn có kết quả
nhanh chóng có thể đưa đến việc chúng ta lựa chọn phương tiện tuy hiệu quả hơn trong
việc đạt được những mục tiêu cụ thể nhưng lại không tương thích với việc bảo vệ
xã hội tự do. Xu hướng sử dụng các biện pháp cưỡng bách hành chính và phân biệt
đối xử ngày càng gia tăng có thể dẫn đến cùng một kết quả, tuy có chậm hơn; và
xu hướng sử dụng sự quản lý trực tiếp của nhà nước hay tạo ra các thiết chế độc
quyền, nơi mà việc sử dụng một cách khéo léo các khích lệ tài chính có thể tạo
ra các nỗ lực tự phát vẫn là tàn dư nặng nề của thời kì xã hội chủ nghĩa và sẽ
còn ảnh hưởng đến chính sách trong một thời gian dài nữa.
Chính vì trong những năm tháng trước mắt hệ tư tưởng chính trị dường như
không hướng tới một mục tiêu được xác định rõ ràng mà sẽ hướng tới một sự thay
đổi tiệm tiến, cho nên sự hiểu biết đầy đủ quá trình, qua đó một số biện pháp
có thể phá họai cơ sở của nền kinh tế thị trường và dần dần bóp nghẹt năng lực
sáng tạo của nền văn minh hiện xem ra là việc quan trọng nhất. Chỉ khi chúng ta
hiểu vì sao và bằng cách nào mà một số hình thức kiểm soát kinh tế lại có xu hướng
làm tê liệt động lực của xã hội tự do và hình thức kiểm soát nào là đặc biệt
nguy hiểm thì chúng ta mới có thể hi vọng rằng các thử nghiệm xã hội chủ nghĩa sẽ
không dẫn chúng ta đến những tình thế mà tất cả chúng ta đều không hề muốn.
Tôi coi cuốn sách này như một đóng góp cho việc giải quyết nhiệm vụ đó.
Tôi hi vọng rằng hiện nay, ít nhất là trong bầu không khí yên tĩnh hơn, nó sẽ
được tiếp nhận như nó xứng đáng là chứ không phải như một lời kêu gọi chống lại
bất kì một sự cải thiện hoặc thử nghiệm nào, mà như một lời cảnh báo rằng chúng
ta phải khẳng định là bất kì sự cải biến nào trong trật tự xã hội của chúng ta
cũng phải vượt qua được những cuộc kiểm tra nhất định (được mô tả trong chương
trung tâm nói về Pháp quyền) trước khi chúng ta dấn bước vào những con đường mà
rút lui có thể là việc khó khăn.
***
Sự kiện là khi viết tôi chỉ nghĩ đến việc xuất bản ở Anh không ảnh hưởng
nhiều đến việc tiếp thu của độc giả Mỹ. Nhưng ở đây có một điểm trong cách hành
văn mà tôi có trách nhiệm giải thích nhằm tránh bất kì sự hiểu lầm nào. Tôi đã
dùng xuyên suốt cuốn sách thuật ngữ “liberal – tự do” theo nghĩa gốc, có từ thế
kỉ XIX và hiện vẫn thông dụng ở Anh. Trong ngôn ngữ hiện nay ở Mỹ, từ này
thường có nghĩa gần như ngược lại. Nó là một phần của sự ngụy trang của phong
trào cánh tả ở nước này, được sự trợ giúp của nhiều người ngớ ngẩn thực sự tin
tưởng vào tự do, thành ra “liberal - tự do” lại có nghĩa là ủng hộ gần như tất
cả các biện pháp quản lý của nhà nước. Tôi vẫn băn khoăn không hiểu tại sao
những người thực sự tin vào tự do ở Hoa Kỳ không những đã để cho cánh tả chiếm
mất thuật ngữ cực kì quan trọng này mà lại còn trợ giúp bằng cách tự mình sử
dụng nó như là một sự lăng mạ. Đấy xem ra có vẻ như là một điều thực sự đáng
tiếc vì hậu quả là nhiều người thực sự theo trướng phái tự do lại tự coi mình
là bảo thủ.
Tất nhiên là trong cuộc đấu tranh chống lại những người tin vào nhà nước
tòan năng, những người tin vào tự do thật sự đôi khi phải đứng chung chiến
tuyến với những người bảo thủ và trong một số trường hợp, ví dụ như nước Anh
hiện nay, anh ta sẽ chẳng còn cách nào khác nếu muốn hoạt động tích cực cho lý
tưởng của mình. Nhưng chủ nghĩa tự do chân chính vẫn khác với chủ nghĩa bảo thủ,
lẫn lộn hai thứ là điều nguy hiểm. Chủ nghĩa bảo thủ, mặc dù là một thành tố
cần thiết trong bất kì xã hội ổn định nào, bản thân nó không phải là một cương
lĩnh xã hội; với các xu hướng như gia trưởng, dân tộc chủ nghĩa và sùng bái
quyền lực, nó thường gần với chủ nghĩa xã hội hơn là chủ nghĩa tự do chân
chính; với các thiên hướng nệ cổ, phản tri thức và thường là thần bí, nó không
bao giờ, ngoại trừ những giai đoạn vỡ mộng ngắn ngủi, có sức thu hút đối với
thanh niên và những người tin rằng muốn thế giới này trở thành tốt đẹp hơn thì
phải có một số thay đổi. Do chính bản chất của nó, phong trào bảo thủ nhất định
là lực lượng bảo vệ đặc quyền đặc lợi và dựa vào quyền lực của chính phủ để bảo
vệ đặc quyền đặc lợi của mình. Ngược lại, cốt lõi của lập trường tự do là phủ
nhận mọi đặc quyền đặc lợi, ở đây, đặc quyền đặc lợi được hiểu theo đúng nghĩa
ban đầu của nó là nhà nước ban tặng và bảo vệ quyền của một số người, trong khi
những người khác có cùng điều kiện lại không được hưởng các quyền đó.
Có lẽ tôi cũng cần xin lỗi độc giả vì đã để quyển sách tái xuất hiện với
hình thức cũ, không có một chút thay đổi nào, dù đã mười hai năm trôi qua. Tôi
đã nhiều lần định viết lại nó, có nhiều điểm tôi muốn giải thích kĩ hơn hoặc
phát biểu thận trọng hơn hay củng cố bằng nhiều minh hoạ và dẫn chứng hơn.
Nhưng mọi cố gắng viết lại chỉ chứng tỏ rằng tôi sẽ không bao giờ có thể viết
được một cuốn sách ngắn như thế mà lại bao trùm được nhiều lĩnh vực như thế;
đối với tôi, ngoài những giá trị khác mà nó có thể có, ngắn gọn là giá trị lớn
nhất của nó. Tôi buộc phải đi đến kết luận rằng nếu tôi muốn đưa thêm bất kì lý
lẽ nào khác thì tôi phải làm việc đó trong những khảo cứu riêng biệt. Tôi đã
bắt đầu làm điều đó trong nhiều tiểu luận khác nhau, một vài tác phẩm trong số
đó đưa ra những thảo luận về các vấn đề kinh tế và triết học mà cuốn sách này
mới chỉ chạm nhẹ vào[6]. Tôi đã thảo luận vấn đề đặc biệt nói về nguồn
gốc của các tư tưởng bị phê phán trong cuốn sách này và mối liên hệ của chúng
với một vài phong trào trí thức ấn tượng nhất và mạnh mẽ nhất của thời đại
chúng ta trong một cuốn sách khác[7]. Hi vọng rằng sắp tới đây tôi sẽ bổ sung cho
cương lĩnh trung tâm quá ngắn của cuốn sách này bằng một khảo cứu rộng và sâu
hơn về quan hệ giữa bình đẳng và công bằng[8].
Tuy vậy, vẫn còn một đề tài đặc biệt mà độc giả hi vọng nhân dịp này tôi
sẽ bình luận, tôi sẽ không thể giải quyết đề tài này một cách thoả đáng mà
không viết một cuốn sách mới. Chỉ hơn một năm sau khi Đường về nô lệ xuất hiện lần đầu tiên, nước Anh có một chính phủ xã
hội chủ nghĩa và chính phủ này đã cầm quyền sáu năm. Và câu hỏi: kinh nghiệm
này khẳng định hay bác bỏ các lý giải của tôi là câu hỏi mà tôi phải trả lời dù
là một cách ngắn gọn. Trải nghiệm này đã làm tôi thêm lo lắng và, tôi tin có
thể nói thêm, đã dạy cho nhiều người cái thực tế đầy khó khăn mà tôi đã chỉ ra,
nhưng lý luận trừu tượng không bao giờ thuyết phục được họ. Trên thực tế, ngay
sau khi chính phủ Công đảng lên cầm quyền, một số vấn đề mà tôi phê phán vốn bị
người Mỹ coi là ngáo ộp lại trở thành chủ đề chính trong những cuộc thảo luận
về chính trị ở Anh. Chẳng bao lâu sau, ngay cả các văn kiện chính thức cũng
thảo luận một cách nghiêm túc mối nguy hiểm của chủ nghĩa toàn trị mà kế hoạch
hoá kinh tế sẽ tạo ra. Minh hoạ rõ ràng nhất về thái độ của chính phủ khi logic
nội tại của chính sách đã buộc chính phủ xã hội chủ nghĩa bất đắc dĩ phải áp
dụng các hình thức cưỡng bức mà nó không muốn bằng đoạn văn trong Economic Survey for 1947 (Báo cáo kinh tế năm 1947 do Thủ tướng trình bày trước quốc hội vào tháng 2
năm đó) và kết luận của nó:
Có sự khác biệt căn bản giữa kế hoạch hóa tòan
trị và kế họach hóa dân chủ. Kế họach hóa tòan trị đặt tất cả mọi nguyện vọng
và sở thích cá nhân xuống dưới yêu cầu của nhà nước. Để đạt mục đích đó, nó
phải sử dụng những biện pháp cưỡng bách khác nhau, làm cho cá nhân không còn
quyền tự do lựa chọn nữa. Những biện pháp như thế có thể là cần thiết ngay cả
đối với một nước dân chủ trong những trường hợp khẩn trương của một cuộc chiến
tranh lớn. Vì thế người dân Anh đã để cho chính phủ thời chiến quyền điều động
trực tiếp nhân lực. Nhưng trong thời bình, người dân một nước dân chủ sẽ không
nhượng quyền tự do lựa chọn của mình cho chính phủ. Vì vậy, chính phủ dân chủ
phải tiến hành kế họach hóa nền kinh tế sao cho vẫn bảo đảm được quyền tự do
lựa chọn tối đa cho cá nhân các công dân của mình.
Điều thú vị trong lời tuyên xưng những dự định đáng ca ngợi này là sáu
tháng sau chính chính phủ này cảm thấy rằng trong thời bình họ buộc phải đưa
việc cưỡng bức lao động vào sách luật. Nó hầu như không làm giảm giá trị của
lời tuyên xưng vì mọi người đều biết rằng nhà chức trách có quyền cưỡng bức, nhưng
chẳng mấy ai chờ đợi sự cưỡng bức thực sự. Nhưng thật khó nhận ra làm sao chính
phủ có thể cứ bám lấy ảo tưởng khi chính trong tài liệu đó nó đã tuyên bố rằng
bây giờ chính là lúc “chính phủ chỉ ra cách sử dụng tốt nhất các nguồn lực vì
quyền lợi của quốc gia” và “đề ra nhiệm vụ kinh tế cho quốc gia: nó phải chỉ ra
cái gì là quan trọng nhất và mục tiêu của chính sách là gì”.
Dĩ nhiên là sáu năm cầm quyền của chính phủ xã hội chủ nghĩa ở Anh chưa
tạo ra tình hình tương tự như nhà nước tòan trị. Nhưng những người khẳng định
rằng điều đó đã bác bỏ luận đề của Đường
về nô lệ đã không hiểu một trong những điểm quan trọng nhất của nó: thay
đổi quan trọng nhất mà sự kiểm soát của chính phủ tạo ra là sự thay đổi về tâm
lí, thay đổi trong tính cách của người dân. Đây
chắc chắn là một công việc chậm chạp, một quá trình kéo dài không phải vài năm
mà có lẽ là một hoặc hai thế hệ. Điều quan trọng là lý tưởng chính trị của
người dân và thái độ của họ đối với nhà cầm quyền vừa là hệ quả vừa là nguyên
nhân của những thiết chế chính trị bao trùm lên cuộc đời họ. Điều đó có nghĩa
là bên cạnh những thứ khác, ngay cả một truyền thống tự do chính trị vững mạnh
cũng không đủ sức bảo vệ nếu mối hiểm nguy chính là các thiết chế và chính sách
làm xói mòn và phá hủy dần dần tinh thần tự do. Dĩ nhiên là có thể ngăn chặn
được hậu quả nếu tinh thần tự do kịp thời lên tiếng và nhân dân không chỉ vứt
bỏ cái đảng đã dẫn họ đi ngày càng xa hơn vào hướng nguy hiểm, mà còn nhận ra
bản chất của hiểm nguy và kiên quyết thay đổi đường lối. Chưa có nhiều cơ sở để
tin rằng nhân dân Anh đã nhận ra bản chất của mối nguy và dứt khoát sẽ thay
đổi.
Nhưng tính cách của người Anh đã thay đổi, không chỉ dưới thời chính phủ
Công đảng mà trong giai đọan dài hơn rất nhiều, trong đó người dân được hưởng
sự bảo trợ của nhà nước phúc lợi mang tính gia trưởng. Khó chỉ ra được những
thay đổi này, nhưng người ta dễ dàng nhận thấy chúng nếu sống ở đây. Để minh
họa, tôi xin trích dẫn một vài đọan quan trọng từ một công trình nghiên cứu xã
hội học khảo sát tác động của quá nhiều quy chế đối với tâm lí của thanh niên.
Thực ra đây là chuyện liên quan đến tình hình trước khi chính phủ Công đảng nắm
được quyền lực, tức là khỏang thời gian cuốn sách này được xuất bản lần đầu, và
chủ yếu khảo sát các hệ quả của những quy chế thời chiến mà chính phủ Công đảng
đã làm cho trở thành vĩnh viễn:
Điều đặc biệt là, ở trong thành phố phạm vi lựa
chọn đã biến mất hòan tòan. Ở trường học, ở nơi làm việc, tại các phương tiện
đi lại, ngay cả các thiết bị và dụng cụ gia đình, rất nhiều hoạt động phải coi
là bình thường đối với con người đã bị cấm hoặc bị buộc phải làm. Những cơ quan
đặc biệt, gọi là Phòng hướng dẫn công dân (Citizen’s Advice Bureau), được thành
lập nhằm hướng dẫn cho những người rối trí thoát khỏi một rừng luật lệ và chỉ
cho những người kiên trì những khỏang trống hiếm hoi mà người ta vẫn có thể lựa
chọn… [Chàng trai thành phố] được huấn luyện để không bao giờ động đậy dù chỉ
một ngón tay trước khi tìm thấy trong đầu một đạo luật nào đó. Qũy thời gian
của một ngày làm việc bình thường của một thanh niên thành thị bình thường cho
thấy anh ta mất rất nhiều thời gian giả vờ làm những việc đã được xác định
trước trong các chỉ thị mà anh ta không hề tham gia sọan thảo, mục đích và sự
thích đáng của chúng anh ta cũng không hiểu và không đủ sức phán xét… Kết luận
rằng, điều chàng thanh niên thành thị cần là anh ta phải có kỉ luật hơn và bị
kiểm soát chặt chẽ hơn là kết luận quá vội vàng. Nói rằng anh ta đã phải chịu
đựng sự kiểm soát quá mức có lẽ là chính xác hơn…. Quan sát cha mẹ, các anh các
chị, anh ta thấy họ cũng bị các quy định trói buộc chẳng khác gì mình. Anh ta
thấy họ đã thích nghi với tình trạng đó đến mức ít khi tự mình lên kế hoạch hay
gánh vác một trách nhiệm xã hội mới nào. Anh ta chẳng hi vọng gì về tương lai,
khi tinh thần trách nhiệm mạnh mẽ sẽ có ích cho anh ta hay cho những người
khác…. [Những người trẻ tuổi] phải chịu đựng quá nhiều sự kiểm soát mà họ cho
là vô nghĩa cho nên họ luôn tìm cách chạy trốn và phục hồi sức lực mỗi khi kỉ
luật bị buông lỏng[9].
Lo lắng rằng, cái thế hệ lớn lên trong những điều kiện như thế sẽ không
vất bỏ xiềng xích mà họ đã quen có thể là thái độ quá bi quan không? Hay điều
mô tả bên trên chính là sự xác nhận tiên đóan của De Tocqueville về một dạng nô
lệ mới, khi:
Sau khi theo cách đó để lần lượt nắm từng công
dân vào đôi bàn tay cực mạnh của mình và nhào nặn nó tuỳ thích, kẻ cầm quyền
tối cao dang rộng đôi cánh tay ra toàn bộ cộng đồng. Nó bao trùm bề mặt toàn xã
hội bằng một hệ thống các quy tắc nhỏ nhặt, rắc rối, tỉ mỉ, chi tiết và đồng
loạt, qua đó, ngay cả những đầu óc độc đáo nhất và những tâm hồn mạnh mẽ nhất
cũng chẳng thể nào nhô lên khỏi đám đông. Nó không bóp nát ý chí của con người,
nhưng nó làm cho ý chí con người mềm nhũn đi, bắt mọi ý chí phải cúi đầu và
điều khiển chúng. Người ta ít khi bị buộc phải hành động, nhưng người ta thường
xuyên bị ngăn chặn để không hành động. Nó không thủ tiêu cái gì cả, nó chỉ ngăn
chặn sự sinh sôi. Nó không bạo hành, nó chỉ gây phiền hà, nó đè nén, nó chọc
tức, nó làm tắt ngấm, nó khiến cho con người chỉ còn biết há hốc mồm kinh ngạc,
và cuối cùng thì toàn bộ dân tộc chỉ còn là một đàn súc vật nhút nhát và cần cù
mà chính quyền là kẻ chăn dắt. Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái thứ nô lệ chính quy,
nhẹ nhàng và thanh bình như tôi vừa mô tả, còn có thể kết hợp tuyệt vời hơn là
ta nghĩ với một số dạng thức bề ngoài của tự do, và thậm chí nó có thể tự củng
cố dưới cái bóng chủ quyền nhân dân[10].
Điều De Tocqueville không xem xét đến là các bạo chúa nhân từ sẽ nắm
được cái chính phủ như thế trong bao lâu, trong khi các nhóm côn đồ khinh
thường tất cả các phép tắc truyền thống chính trị lại có thể dễ dàng giữ được
quyền lực hơn.
Có lẽ tôi phải nhắc lại với độc giả rằng tôi chưa bao giờ lên án các
đảng xã hội chủ nghĩa là họ đã cố tình hướng tới chế độ tòan trị hoặc tỏ ra
nghi ngờ rằng lãnh tụ của các phong trào xã hội chủ nghĩa cũ đã từng có thiên
hướng như vậy. Điều tôi khẳng định trong cuốn sách này, và cái mà kinh nghiệm ở
Anh thuyết phục tôi còn tỏ ra đúng đắn hơn, là những hậu quả không nhìn thấy
trước, nhưng không thể tránh khỏi của kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra
một tình trạng mà nếu chính sách đó tiếp tục được theo đuổi thì các lực lượng
tòan trị sẽ thắng thế. Tôi đã dứt khóat nhấn mạnh rằng “chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể đưa vào thực tiễn bằng các biện pháp mà đa số những người xã hội chủ nghĩa
không tán đồng” và thậm chí còn nói thêm rằng “các đảng xã hội chủ nghĩa kiểu
cũ đã bị các lý tưởng dân chủ của họ kiềm chế” và “họ không có sự tàn nhẫn cần
thiết để thực hiện các nhiệm vụ mà họ đã lựa chọn”. Tôi sợ cái ấn tượng sau của
mọi người về chính phủ Công đảng: những người xã hội chủ nghĩa Anh ít kiềm chế
hơn những người đồng nghiệp xã hội chủ nghĩa Đức hai mươi lăm năm về trước.
Chắc chắn là những người dân chủ-xã hội Đức hồi những năm 1920, trong hòan cảnh
kinh tế giống hoặc khó khăn hơn, chưa bao giờ tiếp cận với kế hoạch hóa tòan
trị như chính phủ Công đảng đã làm.
Vì không có điều kiện khảo sát ảnh hưởng của những chính sách này một
cách chi tiết, tôi xin trích dẫn những đánh giá tóm tắt của các nhà quan sát
khác, những người ít bị nghi là có định kiến hơn tôi. Trên thực tế, những lời
chỉ trích dữ dội nhất lại xuất phát từ chính những người mà trước đó không lâu
đã từng là đảng viên Công đảng. Ông Ivor Thomas, trong cuốn sách hiển nhiên là
để giải thích vì sao ông ta lại bỏ Đảng, đã rút ra kết luận: “từ quan điểm
những quyền tự do căn bản của con người, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa xã hội quốc gia cũng chẳng khác nhau là mấy. Đấy đều là những thí
dụ về nhà nước theo chế độ tập thể hay tòan trị mà thôi… về bản chất không chỉ
chủ nghĩa xã hội đã hòan tất chính là chủ nghĩa cộng sản mà nó cũng chẳng khác
chủ nghĩa phát xít là bao[11]”
Tiến triển nghiêm trọng nhất là sự gia tăng mức độ cưỡng bức hành chính
độc đoán và sự phá huỷ ngày càng gia tăng nguyên tắc pháp quyền, tức là nền
tảng của nền tự do Anh, như đã được thảo luận trong Chương 6. Quá trình này dĩ
nhiên đã bắt đầu từ lâu trước khi chính phủ Công đảng lên cầm quyền trong thời
gian gần đây và đã bị chiến tranh làm cho mạnh thêm. Nhưng, những cố gắng kế
hoạch hoá nền kinh tế dưới thời chính phủ Công đảng đã dẫn đến tình hình là
liệu có thể nói nguyên tắc pháp quyền vẫn còn giữ thế thượng phong ở Anh nữa
hay không. “Chế độ chuyên quyền mới” mà Ngài Chánh Án Tối Cao đã cảnh báo hai
mươi lăm năm trước, như tờ The Economist
nhận xét gần đây, không chỉ là nguy cơ mà đã là sự kiện chắc chắn rồi[12]. Đấy là chế độ chuyên chế được một bộ máy quản
lí hành chính tận tâm và trung thực sử dụng để thực hiện cái mà họ chân thành
tin là có lợi cho đất nước. Nhưng, đây lại là một chính phủ độc đóan, quốc hội
không thể kiểm soát nó một cách hữu hiệu, bộ máy của nó có thể hòan thành mọi
mục đích, trừ những mục đích nhân từ mà lẽ ra nó phải thực hiện. Tôi ngờ rằng
không phải là quá cường điệu khi một luật gia danh tiếng người Anh, sau khi
tiến hành phân tích một cách cẩn thận các xu hướng đó mới đây đã đi đến kết
luận: “Ở nước Anh hiện nay, chúng ta đang sống ngay bên cạnh chế độ độc tài. Sự
chuyển hóa là dễ dàng, nhanh chóng và có thể được thực hiện một cách hòan tòan
hợp pháp. Rất nhiều bước theo hướng này đã được tiến hành, và vì chính phủ hiện
nay đã nắm được quyền lực tuyệt đối và không có sự kiểm soát thực sự nào theo
các điều khỏan của hiến pháp thành văn hay một Hạ viện hữu hiệu, những bước còn
lại so ra là không đáng kể[13]”.
Xin giới thiệu một báo cáo phân tích chi tiết chính sách kinh tế của
chính phủ Công đảng Anh và những hậu quả của nó với nhan đề Ordeal by Planning của Giáo sư John
Jewkes (London: Macmillan & Co., 1948). Đây là thảo luận hay nhất, mà tôi
biết, về ví dụ cụ thể của những hiện tượng được bàn đến dưới dạng tổng quát của
cuốn sách này. Nó là bổ sung tốt nhất cho cuốn sách mà tôi có thể đưa ra thêm ở
đây và cũng là bài học quan trọng không chỉ đối với nước Anh.
Dường như ngay cả khi một chính phủ Công đảng mới lên cầm quyền ở Anh
thì nó cũng sẽ không tiếp tục những cuộc thử nghiệm quốc hữu hóa và kế hoạch
hóa trên quy mô lớn nữa. Nhưng ở Anh, cũng như ở bất kì nơi nào khác trên thế
giới, việc đánh bại cuộc tấn công quyết liệt của chủ nghĩa xã hội chỉ mới tạo
cho những người lo lắng cho việc giữ gìn tự do một chút giải lao nhằm xem xét
lại những tham vọng của chúng ta và lọai bỏ nốt những di sản của chủ nghĩa xã
hội có thể gây nguy hiểm cho xã hội tự do. Không có một quan điểm đã được xét
lại như thế về các mục tiêu xã hội của chúng ta thì chúng ta sẽ tiếp tục bị
cuốn trôi theo cái hướng mà chủ nghĩa xã hội triệt để chỉ đơn giản là đưa chúng
ta đi nhanh hơn một chút mà thôi.
F. A.
Hayek
Lời tựa cho lần xuất bản năm 1944
Khi
một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp trong lĩnh vực khoa học xã hội viết sách về
chính trị thì anh ta phải có trách nhiệm nói thẳng ra như thế. Vâng, đây là
cuốn sách viết về chính trị và tôi không muốn làm ra vẻ như là đang nói về một
cái gì khác, dù rằng tôi đã có thể đặt cho nó một cái tên tao nhã hơn như là
tiểu luận về triết học-xã hội chẳng hạn. Nhưng, dù có gọi thế nào thì thực chất
vẫn là tất cả những điều tôi viết đều xuất phát từ những giá trị nền tảng nhất
định. Tôi hi vọng rằng mình đã hòan thành cả nhiệm vụ không kém phần quan trọng
thứ hai: giải thích rõ những giá trị nền tảng đó - trụ cột cho những lập luận
được đưa ra trong cuốn sách này.
Cũng
cần phải nói thêm: mặc dù đây là cuốn sách viết về chính trị, nhưng tôi tuyệt
đối tin tưởng rằng các quan điểm được trình bày ở đây không xuất phát từ những
lợi ích cá nhân của tôi. Chẳng có lý do gì để cái xã hội mà tôi mong muốn phải
cho tôi đặc quyền đặc lợi so với đa số đồng bào của mình. Trên thực tế, các
đồng nghiệp theo trường phái xã hội chủ nghĩa của tôi vẫn luôn nói với tôi rằng,
trong cái xã hội mà tôi vốn phản đối đó, một nhà kinh tế học như tôi chắc chắn
sẽ chiếm được vị trí đáng kể hơn rất nhiều – với điều kiện là nếu tôi có thể
chấp nhận được quan điểm của họ. Tôi cũng tuyệt đối tin tưởng rằng, sự bất đồng
của tôi với các quan điểm như thế không phải là kết quả của nền giáo dục bởi vì
đấy chính là những quan điểm của tôi thời thanh niên và chính chúng đã thôi
thúc tôi chọn kinh tế học làm nghề nghiệp của mình. Đối với những người, theo
thói thường hiện nay, lúc nào cũng sẵn sàng xăm soi động cơ vụ lợi trong mọi
lời phát biểu về quan điểm chính trị thì xin được nói rằng tôi có đủ lý do để không viết và không công bố tác phẩm này. Chắc chắn nó sẽ làm nhiều người mà tôi
muốn giữ quan hệ hữu hảo cảm thấy khó chịu. Vì cuốn sách này mà tôi buộc phải
hoãn một tác phẩm khác thuộc chuyên ngành của mình và theo tôi là quan trọng
hơn về dài hạn. Và cuối cùng, cuốn sách này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho sự
tiếp thu các kết quả nghiên cứu có tính hàn lâm hơn của tôi, những thứ mà tôi
đã hết lòng theo đuổi.
Nếu,
dù với tất cả những điều đã trình bày, tôi vẫn coi việc công bố cuốn sách này
là nhiệm vụ mà tôi không thể lẩn tránh thì chỉ là vì các cuộc thảo luận hiện
nay về chính sách kinh tế trong tương lai đang diễn ra trong tình trạng vừa kì
lạ vừa chứa đầy những hậu quả không thể lường trước, nhưng lại hầu như không
được công chúng nhận thức đầy đủ. Vấn đề là mấy năm gần đây phần lớn các nhà
kinh tế học đều bị lôi kéo vào lĩnh vực quân sự và vì thế mà phải im tiếng. Kết
quả là, dư luận xã hội đã bị những kẻ nghiệp dư lèo lái, những kẻ lợi dụng tình
hình nước đục thả câu hoặc những gã lang băm rao bán thuốc trị bá bệnh. Trong
tình hình như thế, liệu một người có thời gian viết lách có quyền giữ trong
lòng những mối bận tâm mà nhiều người, khi quan sát các xu hướng hiện thời,
cùng cảm thấy nhưng không thể nói ra được? Trong những hoàn cảnh khác, tôi sẵn
lòng nhường cuộc tranh luận về chính sách quốc gia cho những người có thẩm
quyền hơn và có hiểu biết hơn về lĩnh vực này.
Luận
điểm cốt yếu của cuốn sách này được trình bày lần đầu tiên trong bài báo Freedom and
the Economic System (Tự do và hệ thống kinh tế
trên tờ Contemporary Review
vào tháng 4 năm 1938, rồi được mở rộng ra thành một trong những cuốn sách mỏng
về chính trị xã hội do Giáo sư H. D. Gideonse chủ biên và được nhà xuất bản của
trường đại học Chicago ấn hành. Tôi xin cảm ơn các nhà xuất bản hai ấn phẩm này
đã cho tôi chép lại một vài trích đoạn.
[1] Ví
dụ điển hình nhất về sự phê bình cuốn sách từ phía cánh tả ở Anh là nghiên cứu
nhã nhặn và thẳng thắn của cô Barbara Wootton, Freedom under Planning (London: Georege Allen & Unwin, 1946). Ở
Mỹ người ta thường trích dẫn tác phẩm này như một lời phản bác hữu hiệu những luận
cứ của tôi, mặc dù tôi có cảm giác rằng nhiều độc giả cũng có cảm tưởng như một
nhà bình luận Mĩ đã nói: “Dường như về căn bản nó khẳng định luận đề của Hayek”
(Chester I. Barnard, Southern Economic
Journal, January, 1946).
[2] Lúc đó tôi đâu có biết rằng, như một cố vấn
cho một trong các hãng đã tự nhận từ khi ấy, đấy không phải là do nghi ngờ về
sự thành công của cuốn sách mà là do thành kiến chính trị, đến mức cho cuốn
sách là “không phù hợp đối với một nhà xuất bản có danh tiếng” (Xem tuyên bố
của William Miller được W. T. Couch trích dẫn trong “The Sainted Book Burners”,
The Freeman, April, 1955, P. 423, và
William Miller, The Book Industry: A
Report of the Public Library Inquiry of
the Social Science Research Council (New York: Columbia University Press,
1949), P. 12).
[3] Đóng góp không nhỏ cho thành công là việc xuất
bản bản rút gọn trên tờ Reader’s Digest,
và tôi xin bày tỏ ở đây sự chứng nhận công khai tài khéo của các biên tập viên
tạp chí trong việc rút gọn tác phẩm mà không có sự trợ giúp của tôi. Chắc chắn
là việc nén một luận cứ phức tạp xuống chỉ còn một phần độ dài ban đầu của nó
sẽ tạo ra sự đơn giản hoá quá mức, nhưng việc rút gọn mà không bị méo mó và tốt
hơn là chính tôi tự làm đã là một thành công đáng kể rồi.
[4] Độc giả nào muốn thấy một tiêu bản về sự bất
lương và thoá mạ có lẽ là có một không hai trong thảo luận học thuật đương thời
xin đọc Road to Reaction (Boston:
Little Brown & Co., 1945) của giáo sư Herman Finer.
[5] Không nghi ngờ gì rằng tác phẩm 1984 của George Orwell là tác phẩm hữu ích
nhất trong số đó. Ông Orwell trước đó cũng vui lòng phê bình cuốn sách này.
[8] Bản thảo về chủ đề này đã
được National Bank of Egypt xuất bản dưới hình thức bốn bài giảng trong The Polotical Ideal of the Rule of Law
(Cairo, 1995)
[9] L. J. Barnes, Youth Service in an Enghlish Country: A Report Prepared for King
George’s Jubilee Trust (London,
1945).
[10] A. de. Tocqueville, Democracy in America, Part II, Book IV, chap. VI. Phải đọc cả
chương này mới thấy hết sự sáng suốt của De Tocqueville, ông đã tiên đoán được
ảnh hưởng tâm lí của nhà nước phúc lợi hiện đại. De Tocqueville thường nó tới
“tình trạng nô lệ mới” và đấy chính là gợi ý cho nhan đề của cuốn sách này.
[12] Trong bài báo trong số ra ngày 19 tháng 6 năm
1954, thảo luận the Report on the Public
Inquiry Ordered by the Minister of Agriculture into the Disposal of Land at
Crichel Down (Cmd. 9176; London: H. M. Stationery Office, 1954), những
người quan tâm đến tâm lí học của bộ máy kế hoạch hoá quan liêu rất nên nghiên
cứu kĩ lưỡng tài liệu này.
[13] G. W. Keeton, The Passing of Parliament (London, 1952)
tuyệt vời
ReplyDelete