June 29, 2020

Đường về nô lệ (12)


IX. An toàn và Tự do

 

Cả xã hội sẽ biến thành một cơ quan duy nhất,
một nhà máy duy nhất, mọi người cùng làm việc như nhau và cùng được trả lương như nhau
.

V. I. Lenin, 1917
Trong một quốc gia, nơi nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất thì
đối lập nghĩa là chết đói một cách từ từ. Nguyên tắc cũ: Ai không làm thì không ăn đã được thay bằng nguyên tắc mới: Ai không tuân phục thì không ăn.

Lev Trotsky, 1937.

Giống như thứ “tự do kinh tế” giả mạo đã nói đến bên trên, an toàn về kinh tế cũng thường được và có nhiều cơ sở hơn để coi là điều kiện tối cần thiết nếu muốn có tự do thực sự. Theo một nghĩa nào đó, thì điều đó vừa đúng lại vừa quan trọng nữa. Những người không tự tin rằng họ có thể tự nuôi sống được mình thường không có tư duy độc lập và không có cá tính mạnh. Nhưng thực ra khái niệm an toàn về kinh tế, cũng như đa số các khái niệm khác trong lĩnh vực này, là mơ hồ và tù mù; vì vậy, coi nó là điều kiện tối cần thiết là việc làm nguy hiểm đối với tự do. Trên thực tế, khi sự an toàn về kinh tế được hiểu theo nghĩa tuyệt đối thì việc mọi người cùng phấn đấu để đạt cho bằng được một sự an toàn như thế chẳng những không làm gia tăng cơ hội được tự do mà còn là mối đe doạ nghiêm trọng đối với tự do. 

Cần phải phân biệt ngay từ đầu hai loại an toàn: loại an toàn có giới hạn, có thể đạt được cho tất cả mọi người và vì vậy mà không phải là đặc ân mà là ước mong chính đáng của mỗi thành viên trong xã hội và loại an toàn tuyệt đối mà xã hội tự do không thể bảo đảm cho tất cả mọi người và không được coi như một đặc quyền đặc lợi, trừ một ít những trường hợp đặc biệt, ví dụ như các quan toà, sự độc lập hoàn toàn của họ có vai trò cực kì quan trọng. Hai loại an toàn, loại thứ nhất, bảo đảm để người ta không lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn quá mức, bảo đảm một mức sống tối thiểu cho tất cả mọi người và loại thứ hai là bảo đảm một lối sống hay một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác; hay nói một cách ngắn gọn, loại thứ nhất bảo đảm một mức thu nhập tối thiểu chung cho tất cả mọi người và loại thứ hai, bảo đảm một mức thu nhập mà một người được cho là xứng đáng được hưởng. Chúng ta phải thấy sự khác nhau giữa sự bảo đảm mà mọi người đều được hưởng, đấy chính là biện pháp bổ sung bên cạnh hệ thống kinh tế thị trường, với sự bảo đảm chỉ dành cho một số người và chỉ có thể thực hiện được bằng cách kiểm soát hay bãi bỏ hẳn thị trường. 

Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lý do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất. Dĩ nhiên là xác định một mức sống tối thiểu là vấn đề vô cùng phức tạp; một câu hỏi khác cũng rất quan trọng: những người ăn bám vào xã hội như thế có được hưởng tất cả các quyền tự do như những người khác hay không[1]. Không chú ý đến những vấn đề như thế có thể kéo theo những rắc rối chính trị nghiêm trọng, thậm chí là nguy hiểm nữa; nhưng không nghi ngờ gì rằng mọi người đều có thể được đảm bảo một lượng thức ăn, nhà ở và quần áo tối thiểu, đủ bảo đảm sức khỏe và khả năng làm việc. Trên thực tế, việc bảo đảm như thế từ lâu đã trở thành hiện thực đối với đa số công dân Anh quốc.

Không có lý do gì mà chính phủ lại không giúp giúp đỡ các nạn nhân của các hoàn cảnh không lường trước được, chẳng mấy người có thể tạo được dự phòng thoả đáng cho những trường hợp như thế. Ốm đau, tai nạn là những hoàn cảnh mà việc trợ giúp không hề làm cho người ta lơ là việc phòng tránh rủi ro và khắc phục hậu quả - tóm lại là những rủi ro thực sự có thể bảo hiểm được - đòi hỏi nhà nước phải giúp đỡ trong việc tổ chức hệ thống an sinh xã hội trên bình diện quốc gia. Những người ủng hộ và những người phản đối cạnh tranh có thể không đồng ý về các chi tiết của hệ thống an sinh; có khả năng là dưới cái mác bảo đảm an sinh xã hội người ta có thể thực hiện chính sách mà trên thực tế lại làm giảm hiệu quả của cạnh tranh. Nhưng, về nguyên tắc, việc nhà nước cố gắng bảo vệ các công dân của mình theo cách đó là phù hợp với tự do cá nhân. Cũng có thể nói như thế về sự trợ giúp của nhà nước cho các nạn nhân của thiên tai như động đất, bão lụt. Không nghi ngờ gì rằng khi người ta gặp những tai hoạ mà họ không thể tránh được và không có đủ dự phòng để khắc phục hậu quả thì cộng đồng nhất định phải dang tay giúp đỡ. 

Cuối cùng, còn một vấn đề cực kì quan trọng: đấu tranh với các suy thoái kinh tế và hiện tượng thất nghiệp hàng loạt đi kèm với nó. Đấy là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất và cấp bách nhất trong thời đại chúng ta. Và mặc dù, muốn giải quyết nó thì phải lập kế hoạch theo đúng nghĩa của từ này, nhưng vấn đề là không và không được đưa ra những kế hoạch thay thế cho thị trường. Thực ra, một số nhà kinh tế học hi vọng có thể giải quyết vấn đề bằng chính sách tiền tệ, chính sách mà họ cho là không mâu thuẫn với ngay cả chủ nghĩa tự do thế kỉ XIX. Nhưng cũng có những người cho rằng giải pháp duy nhất là thực hiện các công trình xã hội quy mô lớn vào đúng những lúc cần thiết. Cách làm này có thể gây ra những trở ngại nghiêm trọng đối với cạnh tranh và vì vậy phải rất thận trọng khi tiến hành thử nghiệm theo hướng này để tránh làm cho nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào sự lãnh đạo và các khoản đầu tư của chính phủ. Tuy nhiên, đây không phải là cách duy nhất và theo tôi không phải là cách tốt nhất cho việc giải quyết mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với an toàn về kinh tế. Dù sao mặc lòng, nhu cầu bảo đảm khỏi các hậu quả của suy thoái kinh tế hoàn toàn không đồng nghĩa với việc áp dụng hệ thống kế hoạch hoá là cái sẽ tạo ra mối đe doạ đối với quyền tự do của chúng ta.
* * *
Kế hoạch hoá để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu, mà đấy lại là chuyện bình thường trong xã hội dựa trên nguyên tắc cạnh tranh; tránh những mất mát có nguy cơ gây ra cảnh thiếu thốn không thể nào biện hộ được về mặt đạo đức, nhưng lại là phần không thể tách rời của hệ thống cạnh tranh. Đòi hỏi bảo đảm kiểu này là một hình thức khác của đòi hỏi thù lao xứng đáng, nghĩa là thù lao tương xứng với ưu điểm chủ quan của con người chứ không phải là tương xứng với những kết quả lao động khách quan của anh ta. Nhưng bảo đảm và công bằng kiểu đó không phù hợp với nguyên tắc tự do lựa chọn nghề nghiệp của con người. 

Trong bất kì hệ thống nào, nơi việc phân công lao động được thực hiện dựa trên quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp của người dân, thù lao lúc nào cũng phải phù hợp với lợi ích mà người lao động mang lại cho những người khác, ngay cả nếu các ưu điểm chủ quan của anh ta không được tính tới. Thường thì kết quả công việc tỉ lệ thuận với các cố gắng đã bỏ ra, nhưng không phải xã hội nào cũng như thế. Điều đó còn đặc biệt không đúng trong những trường hợp khi mà tính hữu ích của một số công việc hay tài khéo nào đó bỗng thay đổi vì những hoàn cảnh không thể nào dự liệu được. Mọi người đều có thể hiểu bi kịch của một chuyên gia sau nhiều năm đèn sách, nhưng tay nghề bỗng mất giá vì một phát minh đem lại lợi ích lớn lao cho toàn thể xã hội. Lịch sử thế kỉ vừa qua có đầy rẫy các thí dụ về những phát minh như thế, đôi khi các phát minh này có ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người cùng một lúc. 

Khi thấy một người có tay nghề và đã lao động hết mình bị sa sút về thu nhập, khi chứng kiến cảnh tuyệt vọng mà không phải do lỗi của anh ta thì cảm nhận về lẽ công bằng của chúng ta nhất định sẽ bị tổn thương. Và những người bị thiệt hại đòi hỏi chính phủ bảo đảm cho họ mức thu nhập mà họ đáng được hưởng sẽ nhận được sự cảm thông và ủng hộ của nhiều người. Kết quả là các chính phủ không chỉ thông qua các biện pháp nhằm đảm bảo cho những người rơi vào hoàn cảnh như thế các phương tiện sống tối thiểu mà còn đảm bảo cho họ thu nhập ổn định như cũ, nghĩa là che chở cho họ khỏi mọi phong ba bão táp của thị trường[2]

Nhưng nếu chúng ta muốn bảo vệ quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp thì chúng ta không thể bảo đảm thu nhập ổn định cho tất cả mọi người. Còn nếu sự đảm bảo như thế chỉ được giành cho một số người thì đấy là đặc quyền đặc lợi, làm tổn hại quyền lợi của những người khác vì mức độ an toàn của những người này nhất định sẽ bị suy giảm. Dễ dàng thấy rằng việc bảo đảm thu nhập ổn định cho tất cả mọi người chỉ có thể được thực hiện với điều kiện bãi bỏ hoàn toàn quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp. Và, mặc dù, bảo đảm thu nhập cho tất cả mọi người được coi là lý tưởng phải hướng tới, nhưng đấy không phải là cái mà người ta định làm một cách nghiêm túc. Trên thực tế, các bảo đảm loại này sẽ được ban phát từng tí một, khi thì cho nhóm người này, khi thì cho nhóm người kia và kết quả là những nhóm bị bỏ rơi sẽ càng ngày càng bấp bênh hơn. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các bảo đảm như vậy càng ngày càng có giá hơn, đòi hỏi được bảo đảm càng ngày càng khẩn thiết hơn và cuối cùng, đòi bảo đảm bằng bất cứ giá nào, ngay cả với giá của tự do. 

Nếu ta muốn bảo vệ những người, do những hoàn cảnh không thể dự đoán được hoặc bất khả kháng mà công việc của họ không còn hữu ích như trước, bằng cách đền bù cho họ những thiệt hại mà họ không đáng phải chịu, trong đó lại ngăn chặn những người hữu ích hơn trước, không cho họ kiếm thêm thu nhập mà ta cho là không xứng đáng, thì chẳng mấy chốc thù lao sẽ chẳng còn liên hệ gì với lợi ích xã hội thực sự nữa. Nó chỉ còn phụ thuộc vào quan niệm của các nhà chức trách về việc một cá nhân phải làm gì, phải biết trước những gì, ý định của người đó là tốt xấu ra sao. Phần lớn những quyết định như thế chắc chắn sẽ là quyết định độc đoán. Nguyên tắc này, nếu được áp dụng, nhất định sẽ dẫn đến hiện tượng là những người làm những việc như nhau lại có thù lao khác nhau. Lúc đó sự khác biệt về tiền công sẽ không còn là động lực thúc đẩy người ta thực hiện những thay đổi có ích cho xã hội nữa, thậm chí, những người bị tác động còn không thể đánh giá được có nên trả giá cho những rắc rối mà thay đổi cụ thể nào đó gây ra hay không.

Nhưng nếu việc luân chuyển người từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, tất yếu diễn ra trong mọi xã hội, không được thúc đẩy bởi “thưởng” và “phạt” (không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào phẩm chất chủ quan của họ) thì chỉ còn một cách: Ra lệnh. Khi thu nhập đã được bảo đảm thì người ta không được quyền ở lại chỗ làm cũ chỉ vì thích công việc đó, cũng không được lựa chọn công việc theo ý thích của mình. Ở lại hay đi đối với anh ta cũng thế, chẳng được, cũng chẳng mất gì, chính những người phân bổ thu nhập sẽ quyết định anh ta đi hay ở.

Vấn đề khuyến khích thường được thảo luận như thể đây chủ yếu là vấn đề người dân tự nguyện làm hết sức mình. Mặc dù đây là khía cạnh quan trọng, nhưng không phải là tất cả, lại càng không phải là khía cạnh quan trọng nhất của vấn đề. Vấn đề không chỉ là muốn người ta tích cực làm việc thì phải có khuyến khích thoả đáng. Quan trọng hơn là, nếu chúng ta để cho người dân quyền lựa chọn công việc, nếu muốn cho người dân có đủ khả năng quyết định nên làm cái gì thì chúng ta cũng phải cung cấp cho họ tiêu chuẩn đánh giá đơn giản và rõ ràng về tính hữu dụng tương đối của các ngành nghề khác nhau. Một người, dù được thúc đẩy bởi những động cơ cao đẹp nhất, không thể lựa chọn được một nghề giữa muôn vàn nghề nghiệp nếu lợi thế mà anh ta nhận được từ công việc đó chẳng có liên quan gì với tính hữu dụng của nó đối với xã hội. Muốn cho một người quyết định chuyển nghề hay chuyển môi trường làm việc mà anh ta đã quen và có thể đã thích thì điều quan trọng là giá trị xã hội đã biến đổi của từng ngành nghề phải được thể hiện trong thù lao của ngành nghề đó.

Nhưng vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì chỉ có quyền lợi riêng tư mới làm cho người ta sẵn sàng cống hiến hết sức mình cho công việc trong một thời gian dài. Chí ít là rất nhiều người chỉ làm hết sức mình khi có áp lực từ bên ngoài. Theo ý nghĩa này, khuyến khích là vấn đề sống còn cả trong lĩnh vực lao động phổ thông cũng như lĩnh vực quản lý. Áp dụng các phương pháp thiết kế kĩ thuật cho cả một dân tộc - mà đây chính là kế hoạch hoá – “đặt ra vấn đề kỉ luật rất khó giải quyết”, một kĩ sư người Mĩ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực lập kế hoạch ở cấp chính phủ đã viết như thế. 

“Muốn giải quyết một công việc kĩ thuật”, ông ta giải thích, “cần phải có một khu vực hoạt động kinh tế phi kế hoạch tương đối lớn. Cần phải có một khu vực dự trữ tuyển mộ nhân công sao cho một nhân viên nào đó bị sa thải thì anh ta không chỉ biến khỏi chỗ làm việc mà còn biến khỏi bảng lương nữa. Không có khu vực dự trữ như thế thì chỉ có thể duy trì kỉ luật bằng roi vọt, hệt như thời nô lệ[3]”. 

Vấn đề trừng phạt thói vô trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý cũng không kém phần nghiêm trọng. Như có người đã nhận xét rất đúng rằng, nếu như trong nền kinh tế cạnh tranh, nhân viên thi hành án là cấp phán xử cuối cùng thì trong nền kinh tế kế hoạch hoá nấc thang trừng trị cuối cùng nằm trong tay đao phủ[4]. Giám đốc các xí nghiệp sẽ được giao khá nhiều quyền lực. Nhưng địa vị và thu nhập của anh ta, giống như địa vị và thu nhập của người công nhân, không đơn thuần chỉ phụ thuộc vào thành công hay thất bại của xí nghiệp dưới quyền anh ta. Và vì anh ta chẳng mất cũng chẳng được gì cho nên không phải ý kiến cá nhân của anh ta mà là các quy tắc đã được xác định sẽ quyết định anh ta phải làm gì. Cho nên sai lầm mà “anh ta phải tránh” không phải là công việc riêng của anh ta, đấy là tội ác chống lại cộng đồng và phải bị xử lí như là tội ác chống lại cộng đồng. Khi anh ta còn đi theo con đường an toàn “hoàn thành trung thực nhiệm vụ của mình”, anh ta có thể yên tâm là thu nhập sẽ ổn định hơn chủ doanh nghiệp tư nhân, nhưng thất bại thì hậu quả sẽ khủng khiếp hơn là phá sản. Khi cấp trên còn hài lòng, anh ta sẽ được bảo đảm về mặt kinh tế, nhưng cái giá phải trả là tự do và sự an toàn của chính cuộc sống của anh ta. 

Như vậy là, xung đột mà chúng ta đang gặp là xung đột căn bản giữa hai kiểu tổ chức xã hội không đội trời chung, thường được mô tả theo những biểu hiện đặc thù của chúng: kiểu thương mại và kiểu quân sự. Các thuật ngữ này đáng tiếc là không hoàn toàn chính xác vì chúng hướng sự chú ý vào những biểu hiện không phải là cốt lõi và che lấp sự thực là trước mắt chúng ta chỉ có hai lựa chọn, không còn cách thứ ba. Hoặc là cá nhân có cả hai, quyền lựa chọn và tự chịu rủi ro hoặc mất cả hai thứ đó. Quân đội đúng là một minh hoạ tốt cho kiểu tổ chức thứ hai, ở đây công việc và người làm đều do cấp trên chỉ định, còn khi nguồn lực bị hạn chế thì tất cả đều được một khẩu phần ít ỏi như nhau. Đây là hệ thống duy nhất, trong đó, cá nhân được bảo đảm hoàn toàn về mặt kinh tế, chỉ cần mở rộng hệ thống đó ra toàn xã hội là chúng ta làm được như thế cho tất cả mọi người. Nhưng sự bảo đảm này lại gắn liền với những hạn chế về quyền tự do và hệ thống cấp bậc nhà binh, nghĩa là sự an toàn của trại lính.
 
Dĩ nhiên là có thể thành lập trong xã hội tự do những ốc đảo, nơi cuộc sống được tổ chức theo nguyên tắc nhà binh như thế và không có lý do gì để phải cấm đoán những người thích cách sống như thế. Trên thực tế, lao động tình nguyện được tổ chức theo kiểu nhà binh có lẽ là biện pháp tốt nhất mà chính phủ có thể theo nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người việc làm và thu nhập tối thiểu. Nhưng trước đây, những đề nghị như thế vẫn bị bác bỏ, vì những người sẵn sàng hi sinh tự do để đổi lấy an toàn lại đòi tước đoạt tự do của cả những người không đồng ý như thế. Khó mà biện hộ được cho đòi hỏi này. 

Tổ chức theo kiểu quân đội, như chúng ta biết, chỉ là một bức tranh gần đúng về cái xã hội được tổ chức hoàn toàn theo kiểu nhà binh mà thôi. Khi chỉ có một phần xã hội được tổ chức theo kiểu nhà binh thì sự mất tự do bên trong lòng nó sẽ được cảm nhận một cách nhẹ nhàng hơn vì người ta biết rằng ngay ngoài kia là cuộc đời tự do, ta có thể đi ra nếu cảm thấy quá gò bó. Hãy nhìn lại thành Sparta cổ đại hay nước Đức hiện đại, nước này sau khi đi theo con đường đó vài ba thế hệ dường như đã tiến gần đến cái lý tưởng mà nhiều đảng viên xã hội chủ nghĩa đã từng kì vọng, tức là xây dựng xã hội tương tự như một nhà máy lớn.
* * *
Trong xã hội đã quen với tự do, chắc chẳng có mấy người sẵn sàng mua sự an toàn với cái giá như thế. Nhưng chính sách cung cấp sự an toàn khi thì cho nhóm xã hội này, khi thì cho nhóm xã hội kia – hiện đang được thi hành ở khắp mọi nơi - sẽ nhanh chóng tạo ra những điều kiện mà ước muốn an toàn về kinh tế sẽ mạnh hơn tình yêu đối với tự do. Đấy là do bất cứ sự bảo đảm an toàn nào cho một nhóm cũng sẽ làm gia tăng sự mất an toàn của những nhóm khác. Nếu bạn bảo đảm cho một người một miếng bánh cố định trong một chiếc bánh khi thì to khi thì nhỏ thì phần chia cho những người khác sẽ dao động nhiều hơn là kích thước của chính cái bánh đó. Trong khi đó thành tố cốt lõi mà hệ thống cạnh tranh cung cấp, tức là sự đa dạng của cơ hội sẽ càng ngày càng giảm đi. 

Trong khuôn khổ của hệ thống thị trường, việc đảm bảo an toàn cho những nhóm nhất định chỉ có thể được thực hiện nhờ kiểu kế hoạch gọi là chủ nghĩa bảo hộ (tất cả các loại kế hoạch hóa đang được thực thi hiện nay đều thuộc kiểu này!). Trong nền kinh tế thị trường thì “kiểm soát”, nghĩa là giới hạn đầu ra sao cho giá cả giữ được khoản lợi nhuận “thích đáng” là biện pháp duy nhất nhằm bảo đảm cho những người sản xuất mức thu nhập chắc chắn. Nhưng như thế nhất định sẽ làm giảm cơ hội của những người khác. Nếu một người sản xuất, bất kể là doanh nhân hay công nhân, được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của những người cung cấp cùng một loại hàng hoá với giá cả thấp hơn, có nghĩa là những người có địa vị kém hơn không được tham gia chia sẻ sự thịnh vượng tương đối trong lĩnh vực bị kiểm soát. Bất kì sự hạn chế việc tham gia của các doanh nhân mới vào một lĩnh vực nào đó cũng làm giảm sự an toàn của những người nằm bên ngoài lĩnh vực kinh doanh đó. Khi số người với thu nhập được bảo đảm theo cách đó càng gia tăng thì cơ hội cho những người bị thiệt thòi sẽ giảm đi và cơ hội thoát ra khỏi cảnh bần hàn của những người chịu ảnh hưởng một cách tiêu cực bởi bất kì thay đổi nào cũng sẽ giảm theo cùng tỉ lệ đó. Và nếu, chuyện này ngày càng xảy ra nhiều hơn, người trong một ngành mà điều kiện kinh doanh được cải thiện được quyền không cho những người khác tham gia vào nhằm hưởng trọn bổng lộc dưới dạng lợi nhuận hay tiền lương thì những người trong các ngành mà nhu cầu sụt giảm sẽ hết đường sống, và mọi thay đổi đều trở thành nguyên nhân gia tăng thất nghiệp. Không nghi ngờ gì rằng chính lòng khao khát có bảo đảm về mặt kinh tế bằng những biện pháp như thế đã gây ra nạn thất nghiệp và sự mất an tòan của rất nhiều người trong vài chục năm lại đây.  

Ở Anh và Mỹ, việc bảo hộ, đặc biệt là bảo hộ liên quan đến tầng lớp trung lưu, chỉ mới được áp dụng rộng rãi trong thời gian gần đây và chúng ta vẫn chưa thấy hết được hậu quả của chúng. Chỉ những ai đã từng trải nghiệm nỗi tuyệt vọng của một người sống trong xã hội bị chia cắt bởi những hàng rào không thể nào vượt qua được, chỉ những ai không được tham gia vào những công việc bảo đảm một cuộc sống ấm no, mới cảm thấy hết cái vực thẳm chia tách họ và một người may mắn, một người được che chắn khỏi sự cạnh tranh đến mức chẳng thèm nhúc nhích để nhường một chút không gian cho kẻ không may. Vấn đề dĩ nhiên không phải là những người gặp may phải nhường chỗ cho những kẻ bất hạnh, nhưng những người đó phải chia sẻ những sự rủi ro bằng cách giảm thu nhập hay ít nhất cũng phải hi sinh một phần sự phồn vinh của họ. Nhưng khi người ta còn cho rằng mình có quyền được bảo đảm “mức sống” hay bảo đảm một “giá công bằng” hay “thu nhập của nghề nghiệp” và được chính phủ ủng hộ thì chuyện đó không thể xảy ra được. Kết quả là không phải giả cả, lương bổng hay thu nhập cá nhân mà chính là sản xuất và số người có việc làm bị dao động mạnh. Sự bóc lột, được chính phủ khuyến khích bằng biện pháp “điều tiết” cạnh tranh, của những người sản xuất đã thành đạt đối với những người sản xuất kém may mắn hay chưa trụ vững là sự bóc lột tàn bạo nhất và xấu xa nhất. Khó có thể tìm được khẩu hiệu gây ra nhiều tai hoạ hơn là khẩu hiệu về sự “ổn định” giá cả (hay tiền lương) trong một số lĩnh vực nào đó, vì, trong khi bảo đảm thu nhập cho một số người thì lại làm cho vị thế của những người khác càng bấp bênh thêm. 

Như vậy là, chúng ta càng cố gắng bảo đảm sự an toàn về kinh tế cho tất cả mọi người bằng cách can thiệp vào cơ chế của thị trường thì sự bấp bênh lại càng gia tăng; và nguy hiểm hơn là nó dẫn đến sự chênh lệch giữa những người có đặc quyền đặc lợi và những người không có những đặc lợi như thế. Sự bảo đảm càng trở thành đặc ân thì những người không được hưởng đặc quyền đặc lợi càng gặp nhiều nguy hiểm, sự bảo đảm như vậy càng trở nên có giá hơn. Số người có đặc quyền đặc lợi càng gia tăng, khoảng cách giữa họ và những người khác càng cách biệt thì một tập hợp những giá trị hoàn toàn mới sẽ xuất hiện. Không phải là khả năng tự chủ mà việc được bảo đảm về kinh tế sẽ quyết định địa vị xã hội của một người; quyền có lương hưu chứ không phải là khả năng làm ra những thứ có ích cho xã hội sẽ làm cho chàng thanh niên được các cô gái lựa chọn; còn tình trạng bấp bênh sẽ là địa vị đầy đau khổ của những người mà thời trai trẻ đã bị từ chối, không lên được vào chức vụ được hưởng lương sẽ kéo dài tới hết cuộc đời của anh ta.
* * *
Những cố gắng nhằm bảo đảm sự an toàn bằng các biện pháp bảo hộ, được nhà nước thực hiện hay ủng hộ, cùng với thời gian đã tạo ra trong xã hội những biến dạng nghiêm trọng - những biến dạng đủ loại mà Đức là nước dẫn đầu và những nước khác đã đi theo. Quá trình này còn được lý thuyết xã hội chủ nghĩa thúc đẩy hơn nữa: cố tình miệt thị tất cả các hoạt động có dính dáng với rủi ro kinh tế và lên án về mặt đạo đức đối với những khoản thu nhập xứng đáng để mạo hiểm nhưng chỉ một ít người thành công. Chúng ta không thể trách các bạn trẻ khi họ thích được an toàn, được ăn lương hơn là mạo hiểm kinh doanh vì ngay từ khi còn bé họ đã được dạy rằng viên chức hưởng lương là nghề cao sang, bất vụ lợi và không ích kỉ như các doanh nhân. Thế hệ trẻ hiện nay đã lớn lên trong một thế giới mà cả trường học lẫn sách báo đều tìm cách thoá mạ tinh thần cạnh tranh thương mại, đều coi việc kiếm lời là vô luân, coi việc sử dụng 100 người lao động là bóc lột nhưng chỉ huy một số người tương đương lại là vinh dự. Những người già hơn có thể cho rằng nói thế là phóng đại, nhưng kinh nghiệm tiếp xúc hàng ngày với sinh viên của tôi cho thấy rằng việc tuyên truyền chống tư bản đã dẫn đến kết quả là các giá trị của giới trẻ thay đổi và việc thay đổi giá trị đã diễn ra khá lâu trước khi có những điều chỉnh trong các thiết chế. Vấn đề là liệu khi điều chỉnh các thiết chế cho phù hợp với những đòi hỏi mới, chúng ta có vô tình phá huỷ các giá trị mà chúng ta vẫn còn đánh giá cao hay không.
 
Chiến thắng của lý tưởng về an toàn thay vì tinh thần độc lập tự chủ đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu xã hội, có thể thấy rõ điều này khi so sánh cái có thể được coi là xã hội kiểu Anh với xã hội kiểu Đức cách đây chừng mười - hai mươi năm. Dù ảnh hưởng của quân đội ở Đức có lớn đến đâu cũng không thể coi cái mà người Anh cho là tính chất “nhà binh” của xã hội Đức là do ảnh hưởng đó mà ra. Hiện tượng đó có nguyên nhân sâu xa hơn và không thể giải thích theo cách đó, thái độ đặc biệt của các giới chịu ảnh hưởng mạnh của quân đội và các giới mà ảnh hưởng này không đáng kể cũng gần như nhau. Vấn đề không chỉ là gần như lúc nào đa số dân chúng Đức - hơn là dân chúng các nước khác - cũng được tổ chức để tiến hành chiến tranh mà vấn đề là kiểu tổ chức, đặc trưng cho bộ máy chiến tranh đã được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau đã tạo cho xã hội Đức những tính chất đặc biệt. Không có nước nào sử dụng nguyên tắc tổ chức thang bậc từ trên xuống một cách rộng rãi như ở Đức, cũng không ở đâu có nhiều người hoạt động trong đủ mọi lĩnh vực lại cảm thấy mình không phải là người tự do mà là một quan chức như ở Đức, điều đó đã tạo ra cấu trúc đặc thù của xã hội Đức. Chính người Đức vẫn thường khoe rằng nước Đức đã trở thành một nhà nước của Beamtenstaa (Các viên chức - Tiếng Đức – ND) trong đó chính quyền bảo đảm thu nhập và địa vị xã hội không chỉ cho những người phục vụ trong bộ máy nhà nước mà cho hầu như tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực khác nữa.  

Tôi không tin là bạo lực có thể bóp chết được tinh thần tự do, nhưng tôi ngờ rằng không phải dân tộc nào cũng có thể kháng cự được sự huỷ diệt tự do một cách từ từ như đã từng xảy ra ở Đức. Khi chỉ những người hoạt động trong bộ máy nhà nước mới có vị trí trong xã hội, còn thực hiện nhiệm vụ được giao được coi là một cái gì đấy vinh quanh hơn hẳn tự do lựa chọn lĩnh vực hoạt động, khi tất cả những ngành nghề không mang lại cho người ta địa vị được thừa nhận trong bộ máy nhà nước hay không mang lại cho người ta quyền được có đồng lương đảm bảo ổn định đều bị coi là thấp kém, thậm chí nhục nhã thì thật khó mà hi vọng rằng nhiều người sẽ thích tự do hơn là được an toàn. Và thay cho một địa vị được an toàn, dù là an toàn trong phụ thuộc lại là một vị trí bấp bênh, bị khinh thường cả khi thất bại lẫn lúc thành công, thì chỉ rất ít người dám đánh đổi an toàn để lấy tự do mà thôi. Khi mọi sự đã tiến xa đến như thế thì tự do đã trở thành gần như một sự nhạo báng, bởi vì muốn có nó người ta phải hi sinh tất cả mọi thứ trên đời. Không có gì ngạc nhiên là, trong tình trạng như thế, ngày càng có nhiều người nghĩ rằng không có sự bảo đảm về kinh tế thì tự do “cũng chẳng có ý nghĩa gì” và họ sẽ vui mừng hi sinh nó, sẵn sàng đánh đổi nó lấy an toàn. Có thể hiểu được điều này. Nhưng thật khó mà hiểu được Giáo sư Harold Laski khi ông đưa ra chính cái lý lẽ đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thuyết phục người Đức hi sinh quyền tự do của họ[5]

Dĩ nhiên là, một sự đảm bảo thoả đáng dành cho những trường hợp thiếu thốn quá mức, cũng như việc giảm thiểu những nguyên nhân gây ra những nỗ lực sai lầm có thể tránh được và hậu quả của chúng phải là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách. Song, để cho những biện pháp này thành công và không đe doạ tự do cá nhân thì mọi sự bảo đảm đều phải được tiến hành bên ngoài thị trường và cạnh tranh phải hoạt động một cách thông suốt. Muốn bảo vệ tự do thì phải có một số bảo đảm kinh tế nào đó, nhiều người sẵn sàng chấp nhận rủi ro, miễn là rủi ro không quá lớn. Nhưng, trong khi đấy là sự thật mà chúng ta không bao giờ được bỏ qua, thì lại không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do của các “cây đa, cây đề” trong hàng ngũ trí thức. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng, tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do. Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: ““Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được cả tự do lẫn an toàn”.


[1] Ở đây còn có các vấn đề quan hệ quốc tế nữa vì việc cho nhập quốc tịch đồng nghĩa với quyền có mức sống cao hơn các nước khác.
[2] Một số ý tưởng thú vị về cách thức giải quyết vấn đề này trong khuôn khổ xã hội tự do được giáo sư W. H, Hutt trình bày trong tác phẩm rất đang nghiên cứu mới được xuất bản gần đây. (Plan for Reconstruction, 1943)

[3] Coyle D.C. The Twilight of National Planning // Harper's Magazine. October 1935. P. 558
[4] Roepke W. Die Gesellschaftskrisis der Gegenwart, Zurich, 1942 p. 172
[5] Những ai từng quen với đời sống của người nghèo, những người luôn cảm thấy tai hoạ sắp ập xuống đầu mình, những người luôn run rảy đuổi theo các giấc mơ chẳng bao giờ trở thành hiện thực mới hiểu được tự do mà không có an toàn về kinh tế là thứ vô giá trị. (Laski H.J. Liberty in the Modern State, Pelican edition. 1937. P. 51).

1 comment: