VII.
Kiểm soát kinh tế và chế độ toàn trị
Kiểm soát việc sản
xuất của cải vật chất
là kiểm soát
chính đời sống của con người.
Hilaire Belloc
Đa
số những người ủng hộ kế hoạch hoá đã từng nghiên cứu một cách nghiêm túc các
khía cạnh thực tiễn của vấn đề đều không nghi ngờ gì rằng việc quản lý đời sống
kinh tế chỉ có thể thực hiện được bằng một chế độ độc tài, dù ít hay nhiều. Để
có thể quản lý một cách có chủ ý hệ thống phức tạp những hành động liên quan
với nhau của rất nhiều người thì cần một nhóm chuyên gia duy nhất và trách
nhiệm và quyền lực tối hậu phải nằm trong tay một vị tổng chỉ huy không bị gò
bó bởi bất kì thủ tục dân chủ nào. Đây là hậu quả tất yếu của tư tưởng kế hoạch
hoá tập trung. Lời an ủi của những người ủng hộ kế hoạch hóa dành cho chúng ta là
nó “chỉ” liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà thôi. Stuart Chase, một trong những
người ủng hộ kế hoạch hoá nổi tiếng nhất, bảo đảm với chúng ta rằng trong xã
hội kế hoạch hoá “dân chủ chính trị có thể tồn tại nếu như kế hoạch hóa chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh tế”. Những lời bảo đảm như thế thường đi kèm với
ám chỉ rằng bằng cách từ bỏ tự do trong những lĩnh vực không quan trọng, chúng
ta sẽ được tự do theo đuổi những giá trị cao cả hơn. Trên cơ sở đó, những người
vốn ghét cay ghét đắng độc tài chính trị lại thường lên tiếng đòi hỏi độc tài
trong lĩnh vực kinh tế.
Các
luận cứ được sử dụng nhắm vào những tình cảm tốt đẹp nhất của chúng ta thường
khi lại lôi kéo được những bộ óc sáng láng nhất. Nếu kế hoạch hoá thực sự làm
cho chúng ta không còn phải bận tâm với những lo lắng vụn vặt, làm cho đời sống
vật chất của chúng ta trở thành đơn giản, nhưng chúng ta lại có một đời sống
tinh thần cao hơn thì ai nỡ coi thường lý tưởng như thế? Nếu họat động kinh tế của
chúng ta chỉ liên quan đến những khía cạnh thấp kém hay thậm chí là bẩn thỉu của
đời sống thì dĩ nhiên là chúng ta sẵn sàng làm mọi cách để thoát khỏi những lo
lắng quá mức về vật chất, để chúng cho một bộ phận của bộ máy công lợi lo; còn
đầu óc của chúng ta thì được tự do suy tư về những khía cạnh cao quý hơn của
cuộc đời.
Đáng
tiếc là, kết luận mà người ta rút ra được từ niềm tin đó là quyền lực mà người
ta thể hiện trong đời sống kinh tế chỉ là quyền lực đối với những thứ không
quan trọng và làm cho họ coi thường mối đe dọa đối với quyền tự do hoạt động
kinh tế là hoàn toàn không có cơ sở. Phần lớn đấy là hậu quả của quan niệm sai
lầm, cho rằng có những mục tiêu hòan tòan mang tính kinh tế, tách biệt với
những mục tiêu khác của đời sống. Không thể chuyện như thế, nếu không kể đến những
trường hợp tham lam, keo bẩn một cách bệnh họan. Mục đích cuối cùng của những
họat động của các sinh vật có lý trí bao giờ cũng nằm ngòai lĩnh vực kinh tế.
Nói cho ngay, không hề có một “động cơ kinh tế” nào vì kinh tế chỉ là tập hợp
các tác nhân có ảnh hưởng đối với việc phấn đấu của chúng ta nhằm giành được
các mục tiêu khác. Cái trong ngôn ngữ bình thường mà ta vẫn gọi một cách sai
lầm là “động cơ kinh tế” chỉ có nghĩa là ước muốn giành lấy những cơ hội chung
chung, giành lấy những điều kiện cho những mục tiêu chưa xác định khác mà thôi[1]. Chúng ta muốn
kiếm tiền là vì tiền cho chúng ta quyền lựa chọn trong việc thụ hưởng thành quả
lao động của mình. Trong xã hội hiện đại, vì thu nhập bằng tiền có hạn, chúng
ta cảm thấy những hạn chế do sự nghèo khó tương đối đè trên vai mình, nhiều
người sinh ra căm thù tiền bạc, coi tiền là biểu tượng của những hạn chế đó. Đây
là sai lầm, tiền chỉ là phương tiện, chứ không phải là nguyên nhân. Đúng ra,
phải coi tiền là công cụ vĩ đại nhất của tự do mà con người từng phát minh được. Trong
xã hội hiện nay, chính tiền đã mở ra cho người nghèo những khả năng lựa chọn đáng
kinh ngạc, mà vài thế hệ trước đây ngay cả người giàu cũng không có. Để hiểu
được giá trị thật sự của đồng tiền phải tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trên thực
tế, như nhiều người xã hội chủ nghĩa đề nghị: Dùng “khuyến khích phi kinh tế”
thay cho “động cơ tiền bạc”. Khi phần thưởng, thay vì được trao bằng tiền lại
được trao bằng danh hiệu, đặc lợi hay quyền lực, nhà ở hay lương thực thực phẩm
tốt hơn, cơ hội đi du lịch hay đi học thì điều đó có nghĩa là người nhận không
có quyền lựa chọn và bất cứ người quyết định thưởng nào cũng có quyền xác định
không chỉ số lượng mà cả cách thức hưởng thụ phần thưởng đó.
* * *
Một
khi chúng ta công nhận rằng không hề có bất kì động cơ kinh tế riêng biệt nào,
rằng được hay mất về kinh tế chỉ là đơn thuần là được hay mất quyền quyết định
xem nhu cầu hay ước muốn nào của ta bị ảnh hưởng mà thôi, thì ta sẽ dễ dàng
thấy cốt lõi trong quan niệm chung rằng các vấn đề kinh tế chỉ liên quan đến
những mục tiêu thứ yếu của cuộc đời và hiểu được vì sao người ta lại hay coi
thường những vấn đề “thuần túy” kinh tế như thế. Ở khía cạnh nào đó, trong nền
kinh tế thị trường, việc coi thường này là có thể hiểu được - nhưng chỉ trong nền
kinh tế thị trường tự do mà thôi. Chừng nào chúng ta còn có quyền sử dụng thu
nhập và tài sản của mình thì thất bại về kinh tế chỉ buộc chúng ta phải từ bỏ
những ước muốn mà chúng ta cho là không quan trọng lắm. Vì vậy mà thiệt hại
“đơn thuần” về kinh tế sẽ chỉ ảnh hưởng đến những nhu cầu thứ yếu, nhưng khi
chúng ta nói rằng giá trị của vật bị mất cao hơn nhiều lần giá trị kinh tế của
nó hay không thể quy ra giá trị kinh tế thì điều đó có nghĩa là chúng ta phải
chấp nhận sự mất mát như nó vốn thế. Cũng có thể nói tương tự như thế về thành
công trong lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác, những biến động kinh tế của chúng
ta chỉ liên quan đến phần nhu cầu “ngọai vi”, hạn hẹp của chúng ta. Có nhiều
thứ còn quan trọng hơn bất cứ những gì mà thành công hay thất bại về kinh tế có
thể ảnh hưởng đến, đây là những thứ được chúng ta đánh giá cao hơn cả tiện nghi
hay ngay cả những vật dụng tối thiểu vốn bị ảnh hưởng bởi sự thăng giáng về
kinh tế. So với những thứ đó thì “đồng tiền nhơ bẩn” hay sự giàu lên hay nghèo
đi không phải là quan trọng vậy. Chính điều này đã làm cho nhiều người nghĩ
rằng những thứ tương tự như kế họach hóa, chỉ liên quan đến quyền lợi kinh tế,
sẽ không ảnh hưởng nghiêm trọng đến những giá trị nền tảng của chúng ta.
Nhưng
đấy là kết luận sai. Đối với chúng ta, các giá trị kinh tế không quan trọng
bằng nhiều thứ khác chính vì khi giải quyết các vấn đề kinh tế chúng ta có
quyền lựa chọn cái gì quan trọng còn cái gì không. Nói cách khác, trong xã hội
này (xã hội tư bản tự do – ND) chính chúng
ta là người giải quyết các vấn đề kinh tế của mình. Nếu họat động kinh tế
của chúng ta bị kiểm soát thì muốn làm bất cứ chuyện gì chúng ta đều phải báo
trước dự định và mục tiêu của mình. Nhưng báo trước vẫn chưa đủ, chúng ta còn
phải được chính quyền chấp thuận. Như vậy là tòan bộ đời sống của chúng ta đã
bị kiểm sóat rồi.
Vì
thế, vấn đề kế họach hóa kinh tế không chỉ giới hạn ở câu hỏi liệu chúng ta có
thể đáp ứng các nhu cầu mà chúng ta coi là quan trọng hay không quan trọng theo
cách mà chúng ta muốn hay không. Vấn đề là chúng ta có được tự quyết định cái
gì đối với ta là quan trọng hay cơ quan lập kế họach sẽ quyết định thay cho
chúng ta. Kế họach hóa sẽ động chạm không chỉ các nhu cầu ngọai vi như chúng ta
vẫn hiểu khi nói về các vấn đề “thuần túy” kinh tế. Trên thực tế, nó có nghĩa
là chúng ta, với tư cách là các cá nhân, sẽ không được quyền quyết định nhu cầu
nào là ngọai vi nữa.
Chính
quyền quản lý tất cả họat động kinh tế cũng sẽ kiểm sóat không chỉ các khía
cạnh vật chất của cuộc sống của chúng ta, nó sẽ nắm quyền phân phối các phương
tiện có hạn mà nhất định chúng ta sẽ cần khi muốn hòan thành tất cả các mục
tiêu khác của chúng ta. Và dù người kiểm sóat tối cao đó có là ai thì một khi
đã kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế sẽ kiểm soát tất cả các phương tiện có
thể giúp chúng ta đạt được tất các mục tiêu của mình, và sẽ phải quyết định mục
tiêu nào đáng được thoả mãn còn mục tiêu nào thì không. Bản chất vấn đề là như
thế. Kiểm sóat kinh tế không chỉ là kiểm sóat một lĩnh vực của đời sống, có thể
tách ra khỏi những lĩnh vực khác; mà là kiểm sóat tất cả các phương tiện có thể
giúp chúng ta thoả mãn các mục tiêu của mình. Người nào nắm độc quyền kiểm soát
các phương tiện sẽ phải quyết định mục tiêu nào xứng đáng được đáp ứng, phải quy
định giá trị nào cao hơn, giá trị nào thấp hơn - tóm lại, quyết định thần dân
của họ phải tin vào cái gì, phải phấn đấu vì cái gì. Kế họach hóa tập trung có
nghĩa là không phải từng người mà tòan xã hội sẽ giải quyết các vấn đề kinh tế
và vì thế xã hội, đúng hơn là những người đại diện của nó, phải quyết định mức
độ quan trọng của các mục tiêu khác nhau.
Cái
gọi là tự do kinh tế mà những người ủng hộ kế hoạch hoá hứa hẹn, chỉ có nghĩa
là chúng ta không còn phải tự giải quyết các vấn đề kinh tế của mình nữa và
những lựa chọn khó khăn đi kèm với nó đã được những người khác làm hộ cho chúng
ta. Và, vì trong thời đại ngày nay chúng ta gần như phụ thuộc hoàn toàn vào
những phương tiện do người khác cung cấp, cho nên kế hoạch hoá kinh tế sẽ kéo
theo việc quản lý gần như toàn bộ đời sống của chúng ta. Khó có lĩnh vực nào,
từ những nhu cầu sơ đẳng cho đến quan hệ của chúng ta với bạn bè, người thân,
từ việc làm cho đến cách nghỉ ngơi của chúng ta thoát khỏi được “sự kiểm soát
có chủ ý” của những người lập kế hoạch[2].
*
* *
Cơ
quan lập kế hoạch cũng có quyền lực bao trùm lên đời sống riêng tư của chúng ta,
ngay cả khi nó không kiểm soát trực tiếp việc tiêu dùng của chúng ta. Mặc dù, có
thể là, trong xã hội kế hoạch hoá sẽ có một số quy định về tiêu chuẩn lương
thực, thực phẩm và công nghệ phẩm, nhưng về nguyên tắc, việc kiểm soát không
phải do các biện pháp đó quyết định, nhưng kiểm soát cũng không kém hiệu quả
hơn, ngay cả khi người tiêu dùng được tự do sử dụng thu nhập theo ý mình. Nhà
nước kiểm soát lĩnh vực sản xuất, đấy chính là nguồn gốc quyền lực của nó đối
với người tiêu dùng.
Quyền
tự do lựa chọn trong xã hội cạnh tranh dựa trên sự kiện là nếu một người nào đó
không chịu đáp ứng nhu cầu của chúng ta thì chúng ta có thể quay sang người
khác. Nhưng đứng trước nhà sản xuất độc quyền thì chúng ta chỉ còn hi vọng vào sự
thương hại của ông ta mà thôi. Còn nhà chức trách quản lý toàn bộ nền kinh tế
sẽ trở thành người độc quyền lớn nhất mà ta có thể tưởng tượng được. Mặc dù
chúng ta có lẽ sẽ không phải lo lắng về việc cơ quan lập kế hoạch sẽ sử dụng
quyền lực của mình như một nhà tư bản độc quyền, nghĩa là lợi nhuận tối đa
không phải là nhiệm vụ chính của nó, song nó vẫn có toàn quyền quyết định chúng
ta sẽ được nhận cái gì và với những điều kiện như thế nào. Cơ quan này
không chỉ quyết định loại hàng hoá và dịch vụ được cung cấp mà còn cả số lượng
của chúng nữa; nó còn quản lý cả việc phân phối giữa các địa phương và nhóm xã
hội và nếu muốn, nó có thể thực hiện chính sách phân biệt đối xử một cách tuỳ
tiện nhất. Nếu nhớ lại rằng vì sao đa số ủng hộ kế hoạch hoá, liệu có nghi ngờ
gì rằng quyền lực này sẽ được sử dụng cho một số mục tiêu nhất định, được lãnh
đạo đồng ý và sẽ ngăn chặn việc theo đuổi những mục tiêu mà nó phản đối?
Việc
kiểm soát sản xuất và giá cả tạo ra quyền lực gần như vô giới hạn. Trong xã hội
cạnh tranh, giá mà ta phải trả cho một món hàng, tỉ lệ trao đổi giữa những món
hàng khác nhau phụ thuộc vào số lượng các món hàng khác vì nếu ta lấy đi một
món thì những người khác không thể lấy món đó nữa. Giá này không được quy định
bởi ý chí của bất kì ai. Nếu không đủ tiền thoả mãn nhu cầu theo cách này,
chúng ta có thể thử những cách khác. Khó khăn mà chúng ta phải vượt qua không
phải là vì có người nào đó phản đối mục tiêu của chúng ta mà chỉ vì lúc đó, một
người nào đó cũng cần chính cái phương tiện để đạt mục tiêu mà ta muốn mua.
Trong nền kinh tế bị quản lý, nơi chính quyền giám sát các mục tiêu của công
dân, chắc chắn là nó sẽ sử dụng quyền lực để giúp đỡ một số mục tiêu và ngăn
chặn một số mục tiêu khác. Và thế là, không phải quan điểm của chúng ta mà quan
điểm của một người nào đó về việc ta phải thích hay không thích cái gì sẽ quyết
định cái mà ta được nhận. Và vì chính quyền có thể ngăn chặn bất cứ nỗ lực nào nhằm
“lách khỏi các định hướng” trong lĩnh vực sản xuất cho nên họ có thể kiểm sóat
việc tiêu dùng của chúng ta hữu hiệu như thể họ trực tiếp bảo chúng ta chi tiêu
như thế nào vậy.
*
* *
Nhưng
chính quyền “định hướng” đời sống hằng ngày của chúng ta không chỉ diễn ra chủ
yếu trong lĩnh vực tiêu thụ. Nếu là người sản xuất, chúng ta còn bị nhà chức
trách nhào nặn và “định hướng” kĩ lưỡng hơn nữa. Đây là hai mặt không thể tách
rời của đời sống; đa số chúng ta dành phần lớn thời gian trong cuộc đời để làm
việc và công việc của chúng ta thường quyết định nơi cư trú và những người xung
quanh ta; do đó, đối với hạnh phúc của chúng ta, tự do lựa chọn công việc có
thể còn quan trọng hơn cả quyền tự do sử dụng thu nhập trong thời gian rảnh rỗi
nữa.
Dĩ
nhiên là, ngay cả trong những thế giới tốt đẹp nhất, quyền tự do này vẫn có
giới hạn. Chỉ một ít người là có nhiều phương án lựa chọn công việc mà thôi.
Nhưng vấn đề là, chúng ta có thể lựa chọn, là chúng ta không bị trói chặt vào
công việc mà người ta đã chọn cho ta hoặc ta đã chọn trong quá khứ, và nếu ta
không thể chịu đựng được công việc đó nữa, hoặc nếu ta thích công việc khác thì
những người có khả năng vẫn có thể, với một cái giá phải trả nào đó, tìm được
công việc thích hợp hơn. Không có gì đau khổ hơn là nhận thức được rằng dù cố
gắng đến đâu chúng ta cũng không thể thay đổi được điều kiện sống của mình.
Ngay cả khi chúng ta không có đủ dũng khí, thì nhận thức rằng dù sao chúng ta
cũng vẫn có thể thay đổi được cuộc sống của mình với giá nào đó cũng làm cho
hòan cảnh không thể chịu đựng nổi trở nên chấp nhận được.
Điều
đó không có nghĩa là nói rằng xã hội của chúng ta đã đạt được sự hòan hảo trong
lĩnh vực này hay là đã từng đạt được như thế trong phần lớn giai đoạn tự do
trước đây, hoặc nói rằng khó có thể cải thiện được cơ hội lựa chọn của người
dân vì chẳng còn mấy việc phải làm nữa. Ở nước ta, cũng như ở tất cả các nơi
khác, nhà nước còn có thể làm rất nhiều việc để giúp truyền bá thông tin và
kiến thức, giúp cho người dân dễ dàng di chuyển đến nơi có việc làm. Nhưng,
quan trọng là, các biện pháp của chính phủ nhằm tăng cường cơ hội của người dân
khác hẳn với “kế hoạch hoá”, hiện đang được nhiều người ủng hộ và đang được thực
hiện. Hầu hết những người ủng hộ kế họach hóa đều hứa rằng trong xã hội mới, tự
do lựa chọn công ăn việc làm sẽ được giữ một cách cẩn thận, thậm chí còn mở
rộng thêm. Nhưng họ khó mà thực hiện được lời hứa này. Muốn lập kế hoạch thì họ
phải kiểm soát số người gia nhập vào những ngành nghề khác nhau hay kiểm soát
mức lương hoặc kiểm soát cả hai. Việc kiểm soát và hạn chế như thế thường là
những biện pháp được thi hành đầu tiên trong hầu như tất cả các trường hợp kế
hoạch hoá mà ta đã biết. Và nếu một cơ quan lập kế họach duy nhất sẽ có hành
động như thế đối với tất cả các lĩnh vực thì không cần nhiều trí tưởng tượng cũng
có thể thấy được kết quả của “tự do lựa chọn công việc” mà người ta đã hứa. “Tự
do lựa chọn” sẽ chỉ là giả mạo, chỉ là một lời hứa suông rằng, sẽ không có
chính sách phân biệt đối xử ở nơi mà người ta phải phân biệt đối xử và chỉ còn
có thể hi vọng rằng việc lựa chọn sẽ được thực hiện trên cơ sở các tiêu chí mà
chính quyền cho là khách quan mà thôi.
Kết
quả cũng sẽ tương tự như thế, nếu cơ quan lập kế họach ấn định điều kiện thuê
mướn lao động và tìm cách điều chỉnh số lượng bằng cách điều chỉnh những điều
kiện này. Mức lương sẽ là lực cản hữu hiệu trong việc ngăn cản một số nhóm
người tham gia vào nhiều ngành nghề chẳng khác gì cấm đoán họ một cách thẳng
thừng. Trong xã hội cạnh tranh, một cô gái không nhan sắc mơ ước trở thành nhân
viên bán hàng hay chàng trai trẻ yếu đuối mơ được làm một công việc cần nhiều
sức lực và nói chung, những người mới nhìn có vẻ như không có khả năng hoặc
không phù hợp với một công việc nào đó không nhất thiết là bị chặn đứng vĩnh
viễn; nếu đánh giá cao công việc đó, họ thường có thể bắt đầu từ một chức vụ
khiêm tốn, ít lương và sau đó, nhờ năng lực tiềm tàng, ban đầu khó thấy, họ sẽ
đạt được ước mơ. Nhưng khi chính quyền đã quy định một mức lương duy nhất cho
mỗi lọai lao động và việc lựa chọn được tiến hành thông qua kiểm tra khách quan
thì khát khao một công việc cụ thể nào đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Một người có
những đặc điểm bất bình thường hay tính khí bất bình thường sẽ không tìm được
việc làm, ngay cả khi người sử dụng lao động sẵn sàng nhận anh ta. Ví dụ, một
người chấp nhận đồng lương thấp và không ổn định để được làm việc không theo
giờ giấc nhất định thay vì cứ phải “sáng cắp ô đi tối cắp về”, sẽ chẳng có hi
vọng gì. Điều kiện làm việc ở mọi nơi đều như nhau, hệt như trong các xí nghiệp
lớn, nhưng còn tệ hơn vì không thể nào thoát được. Chúng ta sẽ không còn được
tự do thể hiện sáng kiến hay mưu trí ở nơi và tại thời điểm mà chúng ta nghĩ là
có ích; tất cả chúng ta đều phải tuân thủ các tiêu chuẩn mà chính quyền nhất
định phải đặt ra nhằm đơn giản hóa nhiệm vụ của mình. Muốn cho nhiệm vụ cực kì
to lớn đó có thể quản lý được, chính quyền phải giản lược các khả năng và thiên
hướng muôn hình muôn vẻ của con người thành một vài tiêu chí đảm bảo cho việc
luân chuyển nội bộ và cố tình bỏ qua những khác biệt tinh tế mang tính cá nhân
của mỗi người.
Mặc
dù người ta đã long trọng tuyên bố rằng mục đích của kế hoạch hoá là con người
không còn là phương tiện nữa, nhưng, vì trong quá trình lập kế hoạch, về nguyên
tắc, không thể tính toán được các thiên hướng của từng người, hơn lúc nào hết,
từng người cụ thể sẽ trở thành phương tiện được nhà cầm quyền sử dụng cho các
mục đích mơ hồ như “lợi ích chung” hay là “phúc lợi của toàn xã hội”.
*
* *
Trong
xã hội cạnh tranh, ta có thể mua được tất cả mọi thứ với một cái giá nào đó -
dù đôi khi có thể là rất cao – sự kiện có tầm
quan trọng hơn rất nhiều so với cảm nhận thông thường của chúng ta. Phương án thay
thế không phải là hoàn toàn tự do lựa chọn mà là mệnh lệnh và cấm đoán, không
thể không chấp hành hoặc may lắm là được kẻ cầm quyền gia ân.
Người
ta đã lẫn lộn các khái niệm đến mức nhiều người khẳng định rằng hiện tượng “có
tiền mua tiên cũng được” chính là khuyết tật của xã hội cạnh tranh. Nếu những
người phản đối chống lại việc đưa các giá trị cao cả của đời sống vào quan hệ
“tiền trao cháo múc” thực sự cho rằng chúng ta không được hi sinh các nhu cầu
vật chất để bảo vệ các giá trị cao hơn hay một người nào đó sẽ lựa chọn cho
chúng ta thì có thể nói thẳng rằng ý kiến như thế không phù hợp với quan niệm
về nhân phẩm của con người. Muốn bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ, đức hạnh và sắc
đẹp, danh dự và lương tâm, ta phải hi sinh phúc lợi vật chất ở một mức độ nào
đó, ta buộc phải lựa chọn. Đây là điều không thể chối bỏ, cũng như tất cả chúng
ta đôi khi không sẵn sàng hi sinh như thế.
Chỉ
xin lấy một thí dụ: Không nghi ngờ gì rằng chúng ta có thể làm cho số người
chết vì tai nạn ô tô bằng không với một cái giá là từ bỏ hoàn toàn việc sử dụng
ô tô. Tất cả những việc khác đều như thế cả: Chúng ta thường xuyên mang cuộc
sống, sức khoẻ và giá trị tinh thần của mình cũng như của người thân của mình
ra đánh cược để đổi lấy cái mà chúng ta thường gọi một cách khinh thị là tiện
nghi vật chất. Không thể nào khác được, vì phương tiện của chúng ta không phải
là vô hạn, chúng ta buộc phải lựa chọn mục tiêu sử dụng. Chắc chắn là chúng ta
sẽ chỉ hướng đến các giá trị tuyệt đối đó nếu chúng bị đe doạ mà không có lý do
chính đáng.
Không
có gì ngạc nhiên khi người ta muốn giải thoát khỏi những sự lựa chọn đầy đau
đớn mà hoàn cảnh khó khăn đặt lên vai mình. Nhưng ít người muốn người khác lựa
chọn hộ. Họ chỉ muốn không cần phải lựa chọn gì hết. Và vì thế, mọi người đều
sẵn sàng tin rằng lựa chọn không phải là vấn đề tất yếu, chúng ta phải lựa chọn
là vì hệ thống kinh tế buộc chúng ta phải làm như thế. Nói cho ngay, chính các
vấn đề kinh tế đã làm cho người ta phẫn nộ.
Người
ta muốn tin rằng vấn đề kinh tế sẽ có thể giải quyết một lần và vĩnh viễn,
không bao giờ phải nói đến nữa. Vì vậy mà họ vội vã tin ngay những lời hứa vô
trách nhiệm về “sự phú túc trong tương lai”, nếu sự sung túc như thế đột nhiên
xuất hiện thì chắc chắn người ta sẽ chả cần phải lựa chọn gì nữa. Mặc dù mánh
khóe tuyên truyền này xuất hiện từ khi xuất hiện chủ nghĩa xã hội, nhưng trong
suốt hơn một trăm năm qua, nó vẫn chẳng có thêm một tí sự thật nào. Cho đến nay,
không một người nào trong số những kẻ đã sử dụng lời hứa đó đưa ra được kế
họach bảo đảm sự tăng trưởng sản xuất đủ sức giải phóng các nước Tây Âu mà
chúng ta coi là còn nghèo - chưa nói tòan thế giới - khỏi sự đói nghèo. Vì vậy,
những người đang ba hoa về sự phú túc trong tương lai chỉ là những kẻ dối trá
hoặc chẳng biết mình đang nói gì[3]. Nhưng chính
cái hi vọng hão huyền đó lại đang đẩy chúng ta đi theo hướng kế họach hóa.
Trong khi các phong trào quần chúng vẫn bám vào tư tưởng cho rằng kinh tế kế họach hóa sẽ đưa năng suất lao động lên cao hơn rất nhiều so với kinh tế cạnh tranh thì ngày
càng có nhiều nhà nghiên cứu quay lưng với ý tưởng như thế. Ngay cả những nhà kinh tế học theo trường phái xã hội chủ nghĩa, sau khi nghiên cứu vấn đề một cách thận trọng, cũng đành phải nói rằng họ hi vọng là xã
hội kế hoạch hóa cũng hiệu quả như hệ thống cạnh tranh;
họ không còn ủng
hộ kế họach hóa vì nó
có năng suất lao động cao
hơn, mà vì nó sẽ tạo điều kiện phân phối của
cải một cách đồng đều và công bằng hơn mà thôi. Đây là luận
cứ duy nhất có thể được đem ra thảo luận. Đúng là, nếu chúng ta muốn phân phối của cải theo những tiêu chuẩn đã
được xác định trước, nếu chúng ta muốn quyết định ai được nhận cái gì thì chúng ta chỉ có một cách, đấy là kế họach hóa tòan bộ hệ
thống kinh tế. Vấn đề chỉ còn là, liệu cái giá mà ta phải trả cho việc thực hiện lý
tưởng của ai đó về lẽ công bằng có phải là sự bất bình và áp bức sẽ khủng khiếp hơn so
với sân chơi tự do, nhưng cũng thường bị lạm dụng, của
các lực lượng kinh tế như đã từng diễn ra cho đến nay.
* * *
Chúng ta sẽ tự lừa dối mình một cách nghiêm trọng nếu thay vì trả lời những lo ngại đó, chúng ta lại tự an ủi rằng, áp dụng kế họach hóa chỉ có nghĩa là quay trở lại
- sau một giai đọan phát triển nền kinh tế tự do ngắn ngủi
– với
những ràng buộc
và quy định từng đóng vai trò kim chỉ nam cho nền kinh tế trong phần
lớn những giai đoạn trước đây và vì vậy, tự do cá nhân cũng sẽ trở lại mức tương tự như giai đọan trước thời laissez-faire
mà thôi. Đây là nhầm
lẫn nguy hiểm. Ngay cả trong các giai đọan của lịch sử châu Âu, khi mà hoạt
động kinh tế phải chịu những quy định ngặt nghèo nhất
thì đấy cũng chỉ là hệ thống các quy tắc chung, có giá trị trong một thời gian không dài, các cá nhân vẫn có không
gian tự do hành động khá
rộng rãi. Bộ máy kiểm sóat khi đó cũng chỉ có thể áp
đặt các chỉ thị chung chung. Ngay cả trong những trường hợp, khi mà việc kiểm sóat được thực hiện một cách đầy đủ thì nó cũng chỉ liên quan đến lĩnh vực họat động có dính líu đến việc phân công lao động xã hội. Còn trong lĩnh vực rộng lớn hơn, khi cá nhân sống trên cơ sở tự cấp tự túc thì anh ta hòan tòan tự do.
Hiện nay tình thế đã hòan tòan khác. Trong thời đại tự do, phân công lao động đã đạt đến tầm mức mà gần như mọi họat động cá nhân đều là một phần của họat động xã hội. Chúng ta không thể đẩy lùi được tiến trình phát triển, vì chính
nhờ nó mà
chúng ta có thể bảo đảm được cho số lượng
dân cư đã gia tăng nhanh chóng mức sống ít nhất cũng được như tiêu chuẩn hiện thời. Nhưng nếu chúng ta thay cạnh tranh bằng kế họach hóa tập trung thì bộ máy lập kế họach sẽ buộc phải kiểm sóat đời sống của mỗi người một cách sâu rộng hơn rất nhiều so với trước đây. Nó không thể chỉ giới hạn trong lĩnh vực mà chúng ta gọi là hoạt động kinh tế, vì trong bất kì lĩnh vực nào của đời sống chúng ta cũng đều phụ thuộc vào hoạt động kinh tế của những người khác[4]. Vì vậy, khát
khao “thoả mãn tập thể các nhu cầu” mà những
người xã hội chủ nghĩa trải trên con đường tiến đến chế độ toàn trị chính là phương tiện giáo dục chính trị với mục đích huấn luyện cho chúng ta quen dần với việc đáp ứng các nhu cầu và ước muốn của chúng ta trong thời điểm được quy định trước và dưới hình thức được quy định trước. Đây chính là kết quả trực tiếp của kế hoạch hoá, chúng ta sẽ không còn được lựa chọn, thay vào đó, nó sẽ cho chúng ta những thứ phù hợp nhất với kế hoạch và vào thời thời điểm mà kế hoạch đã trù liệu.
[2] Việc kiểm soát kinh tế sẽ lan sang tất cả các
lĩnh vực khác của đời sống thể hiện rõ trong trường hợp quản lý ngoại hối. Mới
nhìn thì việc chính phủ quản lý ngoại hối không liên quan gì đến đời sống cá
nhân công dân và đa số cũng chẳng quan tâm đến việc nhà nước có quản lý hay
không. Nhưng kinh nghiệm của đa số các nước châu Âu cho những người chịu suy
nghĩ thấy rằng áp dụng việc quản lý như thế là bước quyết định trên con đường
tiến đến chế độ toàn trị và đàn áp tự do cá nhân. Trên thực tế, biện pháp này
có nghĩa là cá nhân đã hoàn toàn khuất phục sự bạo hành của nhà nước, là cắt
đứt mọi cơ hội chạy trốn, của cả người giàu lẫn người nghèo. Khi con người bị
tước quyền tự do đi lại, tước quyền mua sách báo nước ngoài, khi phải được các
cấp có thẩm quyền cho phép thì mới được liên hệ với nước ngoài thì nghĩa là dư
luận xã hội đã bị kiểm soát khắt khe hơn cả dưới thời các chế độ độc đoán thế
kỉ XVII hay thế kỉ XVIII
[3] Để
biện hộ cho những từ ngữ mạnh mẽ bên trên, xin dẫn ra ở đây kết luận mà Colin
Clark, một trong những chuyên gia trẻ nổi tiếng nhất trong lĩnh vực thống kê
kinh tế, một nhà khoa học chân chính và dĩ nhiên là có quan điểm tiến bộ, đưa
ra trong cuốn Clark С. Conditions of Economic Progress,
1940. P. 3—4:
“Cái câu thường được nhắc đi nhắc lại về sự nghèo khổ giữa cảnh giầu sang và về
việc là chúng ta đã có thể giải quyết từ lâu vấn đề sản xuất nếu chúng ta hiểu
rõ được bản chất của vấn đề phân phối, hóa ra lại là lời nói dối trá nhất trong
số những sáo ngữ đang thịnh hành hiện nay… Việc không sử dụng hết năng lực sản
xuất chỉ là vấn đề nghiêm trọng đối với Mĩ, mặc dù có thời gian nó cũng đã từng
là vấn đề của Anh, Đức và Pháp nữa. Nhưng đối với đa số quốc gia hiện nay đấy
chỉ là vấn đề phụ trước sự kiện quan trọng hơn hẳn, đấy là ngay cả khi tòan bộ
nguồn lực sản xuất được sử dụng họ cũng sản xuất được rất ít. Vì vậy mà thời
đại phú túc sẽ còn xa vời lắm… Ngay cả nếu ta có thể lọai bỏ được nạn thất
nghiệp trong tất cả các ngành sản xuất của Mĩ thì mức sống của nhân dân nước
này sẽ được nâng cao thêm đáng kể; nhưng với tòan thế giới thì đây chỉ là một
đóng góp rất nhỏ vào việc giải quyết vấn đề phức tạp
hơn rất nhiều: làm sao có thể đưa thu nhập thực tế của dân chúng đến một cái
mức dù còn rất xa với tiêu chuẩn mà ta vẫn gọi là văn minh”
[4] Không phải vô tình mà trong các nhà nước toàn
trị, cả ở Nga lẫn ở Đức và Ý, vấn đề tổ chức thời gian rỗi của dân chúng cũng
đều được đưa vào kế hoạch. Người Đức còn nghĩ ra một thuật ngữ không thể tưởng
tượng nổi, chứa đầy mâu thuẫn là Freizeitgestaltung (có nghĩa là: tổ chức thời
gian rỗi), cứ như thể là thời gian được sử dụng theo chỉ thị của lãnh đạo cũng
gọi là thời gian rỗi vậy
tự do phải trong khuôn khổ
ReplyDelete