Tác phẩm Chủ nghĩa tư do truyền thống do NXB Tri thức ấn hành được Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) và Quỹ Phan Châu Trinh trao giải sách hay năm 2015
Đ
|
ây
là một tác phẩm không còn xa lạ gì với giới nghiên cứu kinh tế, nó được xuất
bản lần đầu tiên tại Việt Nam thông qua NXB Tri Thức với bản dịch của Phạm
Nguyên Trường; nó thành công ngay tức thì và còn mang lại giải thưởng dịch
thuật cho người chuyển ngữ. Những ở một quốc gia toàn trị và khuynh tả đến cực
tả, tác phẩm này của Mises là một mầm mống hiểm họa cho chế độ; họ cấm tái bản
tác phẩm này. Đó là lý do chính mà NXB VÔ DANH thấy cần thiết phải tái bản lại
nó.
Dịch giả Phạm Nguyên Trường đồng ý và ông đã hiệu
chỉnh lại tác phẩm cho sát với nguyên bản, loại bỏ những hiệu chỉnh của NXB Tri
Thức nhằm cấp giấy phép cho nó dễ hơn, như “cộng sản” bị sửa thành “toàn trị”.
Hiển nhiên việc chỉnh sửa trước đó không ảnh hưởng nhiều đến tác phẩm lẫn tư
tưởng của nó, nó chỉ không nguyên vẹn với ý nguyện của dịch giả lẫn tác giả.
Nay, NXB VÔ DANH xin gửi đến độc giả bản hoàn thiện từ dịch giả Phạm Nguyên
Trường. Ngoài ra, để kỷ niệm 90 năm (1927) ngày ra đời tác phẩm này, chúng tôi
có làm 100 bản đặc biệt bìa cứng kèm nguyên bản Đức ngữ và chuyển dịch Anh ngữ
cho độc giả nào cần nghiên cứu, tất cả những bản đặc biệt đều được đánh số và
kèm chữ ký dịch gỉa.
VỀ HOÀN CẢNH
RA ĐỜI.
Tác phẩm Liberalismus, hay Chủ nghĩa Tự do thuần cổ
điển hay cụm từ quen thuộc Chủ nghĩa Tự do cổ điển; được dịch giả
Phạm Nguyên Trường chọn dịch là Chủ nghĩa Tự do truyền thống; nó là một
tác phẩm nỗ lực phục hồi lại những giá trị cốt lõi về sự thịnh vượng quốc gia
có từ Adam Smith, khi chủ nghĩa tân cổ điển đang bao trùm thế giới trước Thế
chiến thứ nhứt mà đứng đầu là John Maynard Keynes, cha đẻ của trường phái kinh
tế mang tên mình, Kinh tế học Keynes. Ảnh hưởng của phái tân cổ điển lan rộng ở
các nước tư bản như cách thức mà chủ nghĩa Cộng sản lan ra khắp thế giới, dù
mang tính khuynh hữu đối lập với cực tả của chủ nghĩa Cộng sản, thì phái tân cổ
điển này có cùng quan điểm với thuyết Cộng sản về vai trò của chính phủ trong
việc điều hành kinh tế. Dù Keynes không tin rằng chính phủ nắm quyền điều hành
kinh tế một cách tập trung như cộng sản sẽ mang lại lợi ích cho sự thịnh vượng
của quốc gia, nhưng Keynes tin rằng sự điều phối của chính phủ vào những thời
điểm suy trầm kinh tế sẽ giúp kinh tế thoát ra khỏi bờ vực khủng hoảng, thông
qua hai mệnh đề căn bản: Một, kinh tế tư nhân không đủ giải quyết mọi việc làm
cho người dân; và hai, vì vậy chính phủ cần chi tiền ra để bù đắp vào việc
thiếu hụt việc làm. Hai mệnh đề đó đã là liều thuốc chữa bệnh của nhiều quốc
gia trong cơn khủng hoảng kinh tế 2008 vừa rồi; Obama không phải là vị tổng
thống Mỹ duy nhất là học trò của Keynes, nhưng ông ta mạnh tay chi tiền để cứu
nguy kinh tế nhiều gấp nhiều lần những học trò Keynes làm tổng thống trước đó,
kết quả kinh tế có hồi phục, nhưng không phải từ liệu pháp Keynes mà từ sức
sáng tạo của người dân Mỹ; kết quả, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi suy trầm và có
nguy cơ tái lập cơn khủng hoảng. Điều đó không riêng nước Mỹ mà cả Âu châu,
Nhật, Nam Hàn đều gặp vấn đề tương tự; điều này đã khiến phe cực hữu trỗi dậy
và thắng thế trong những kỳ tranh cử gần đây; ở Mỹ là Trump lên làm tổng thống
trong sự ngạc nhiên của toàn thế giới; Anh quốc đón chào một thủ tướng khuynh
hữu Theresa May sau Margaret Thatcher; ở Pháp lúc này, cuộc chạy đua vào ghế
tổng thống thì Le Pen khuynh hữu đang cân sức với En Macron trung dung; Đài
Loan là bà Thái Anh Văn và trước đó, Hàn Quốc là bà Phác Cận Huệ (Park
Geun-hye) trước khi bị bãi nhiệm.
Cuộc hồi sinh lại chủ nghĩa tự do cổ điển lúc này
không khác gì thập niên 30 thế kỷ trước, khi chủ nghĩa bảo hộ và phe tân cổ
điển đang chiếm trọn vũ đài chính trị. Đó là lúc Mises cùng học trò của mình,
Hayek, nỗ lực phục hồi lại giá trị của tự do cổ điển.
Chúng ta cần hiểu lý do vì sao chủ nghĩa tân cổ điển
trong kinh tế dễ được chấp nhận trong tư duy lãnh đạo và cả người dân; vì hệ
quả lịch sử. Lãnh đạo nào cũng muốn quyền lực mình bao trùm ở mọi địa hạt đời
sống người dân, một thứ tâm lý tạo nên ý niệm quyền lực; ở người dân, là tâm lý
muốn được chở che và bao cấp có từ thời đại phong kiến. Tư duy đó vẫn còn giữ
nếu như không xuất hiện khủng hoảng kinh tế nhằm chứng minh rằng, điều đó sẽ
dẫn đến khủng hoảng.
Trước thời điểm Đại khủng hoảng (The Great Depression)
năm 1930, thì trước đó dấu hiệu của nó đã được Mises khảo sát và nghiên cứu cẩn
thận, nó nằm hết trong tác phẩm quan trọng này, Liberalismus. Và Mises
đã đúng, khi những dự báo về việc tiếm quyền của nhà nước trong việc chi phối kinh
tế sẽ làm cho kinh tế khủng hoảng, đời sống đạo đức con người bị băng hoại. Tác
phẩm này đã không được lắng nghe vào năm 1927, cho đến ngày thứ ba 29 tháng 10
năm 1929, phố Wall đón nhận cơn sụp đổ chứng khoán, một ngày sau đó lan ra toàn
nước Mỹ, một tuần sau đó là cả Âu châu và tiếp đến là toàn thế giới; cuộc Đại
khủng hoảng này kéo dài 10 năm, lý do tạo nên cuộc khủng hoảng chưa hẳn vì
thuyết Tân cổ điển trong kinh tế, mà lý do chính nằm ở thuyết Tập trung kinh tế
của Cộng sản đã nhen nhóm trong nhiều quốc gia.
ĐẠI
KHỦNG HOẢNG.
Ngày thứ ba đen tối, theo cách mà giới sử gia gọi cho
ngày 29 tháng 10 năm 1929, đúng 11 năm sau kết thúc Thế chiến lần thứ nhứt.
Nước Mỹ cũng như Tây Âu đã hoàn tất cuộc tái thiết sau chiến tranh, dù nước Mỹ
không ảnh hưởng gì nhiều cho cuộc thế chiến này và cả thế chiến sau đó, nhưng
đó là cuộc chiến mang lại vị thế bá chủ toàn cầu trên nhiều phương diện mà cho
đến giờ vị thế đó gần như không đổi, cường quốc số một thế giới. Nước Mỹ vừa
khôn ngoan vừa lười biếng, nên chỉ tham gia cuộc thế chiến này một năm trước
khi nó kết thúc, dù chỉ một năm nhưng đã có 4.734.991 người Mỹ tham gia vào
cuộc chiến và 116.708 người trong số đó đã chết[1];
con số thương vong đó đủ để gây ấn tượng về một ký ức bi kịch của quốc gia non
trẻ, nhưng đổi lại ký ức đó, kinh tế Mỹ vốn trì trệ trong những năm 1914-1917,
thật ra nó đang bắt đầu chu trình của suy thoái kinh tế[2]
với tỷ lệ thất nghiệp ở ngưỡng 7,9% thì nay nó chỉ còn 1,4%[3],
những hãng xưởng vốn sản xuất hàng hoá bán cho Âu châu trước chiến tranh chịu
sự trì trệ vì người Âu châu lúc này đang đắm mình trong cuộc chiến đã chuyển
thành nhà máy sản xuất quân dụng và vũ khí bán cho họ, cuộc đầu tư cho chiến
tranh này đã mang lại lợi nhuận tốt, nước Mỹ chi tiêu trực tiếp trong cuộc
chiến 39 tỷ Mỹ kim nhưng sau đó có lời 16 tỷ[4];
từ quốc gia nợ nần trước chiến tranh, nước Mỹ giờ đây trở thành chủ nợ toàn thế
giới với mức đầu tư ra ngoài nước Mỹ tăng lên 9,7 tỉ Mỹ kim còn đầu tư vào Mỹ
giảm xuống 3,3 tỷ[5];
thu nhập của chính phủ liên bang từ năm 1916 chỉ 930 triệu Mỹ Kim lên 4,388 tỷ
năm 1918[6]
và không ngừng tăng ở những năm kế tiếp; một cuộc chiến có lợi về kinh tế lẫn
vai trò quốc tế của nước Mỹ. Nhưng hệ quả xấu từ cuộc chiến thời điểm đó nhiều
nhà lãnh đạo Mỹ vẫn chưa nhìn thấy, ngoại trừ khía cạnh đạo đức được xã hội ca
ngợi vì Mỹ đã giúp chấm dứt cuộc chiến sau một năm tham chiến, vị tổng thống
đảng Dân Chủ lúc này vẫn ngủ quên trên lịch sử non trẻ của mình. Một quốc gia
trở nên giàu có đột ngột nó chắc chắn phải đón nhận những vấn đề mà nó chưa
từng gặp, nước Mỹ không nằm ngoài quy luật đó, nhất là khi nước Mỹ không chỉ
giàu có hơn sau chiến tranh mà còn có vai trò thống lãnh thế giới như một định
mệnh từ lịch sử mà cho đến nay nước Mỹ chưa chịu từ chối vai trò này, một vai
trò khiến nước Mỹ vừa cần thiết vừa đáng ghét với thế giới, vai trò sen đầm
quốc tế.
Chủ nghĩa tự do truyền thống do NXB Vô Danh in năm 2017
Có ba hệ quả chính từ cuộc chiến: Một, chế độ kim bản
vị sau chiến tranh; hai, chế độ can thiệp của nhà nước vào xã hội hay còn gọi
là chủ nghĩa bảo hộ, đại diện là tu chính án hiến pháp số 18 (năm 1917) cấm
người dân sử dụng chất có cồn[7];
và ba, tư duy bảo hộ được ủng bởi giới tư doanh dẫn đến hình thành đạo luật
Smoot-Hawley (Smoot–Hawley Tariff Act).
Đành rằng có nhiều lý do và cách thức lý giải nguyên
nhân dẫn đến cuộc Đại khủng hoảng năm 1930, nhưng giới sử gia lẫn giới kinh tế
đều thống nhất quan điểm đi từ hệ quả Thế chiến thứ nhất. Khi một quốc gia trở
nên giàu có thì người ta nghĩ đến đầu tư để sinh lợi hơn là tạo việc làm, nguồn
tư bản từ nước Mỹ chảy ra khỏi quốc gia dẫn đến số việc làm được tạo ra ở nơi
khác; trong khi áp lực trả nợ của những nước phương Tây trong chiến tranh khiến
họ phải thắt hầu bao chi tiêu cho những món hàng vẫn phải mua từ Mỹ, việc sụt
giảm nhu cầu từ Châu Âu khiến nhiều doanh nghiệp tại Mỹ điêu đứng và trên bờ
vực phá sản; giới tư doanh và tài phiệt thực hiện những cuộc áp-phe chính trị
nhằm tác động lên chính quyền để hình thành một tư tưởng bảo hộ sản xuất trong
nước, luật người Mỹ dùng đồ Mỹ xuất hiện dưới tên gọi Smoot-Hawlay đánh thuế
lên món hàng nhập khẩu từ Âu châu, điều đó không giúp ích gì nhiều, ngoại trừ
việc tăng khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ, bởi doanh nghiệp Mỹ được bảo hộ bởi luật
Smoot-Hawley khiến hàng hoá không rẻ hơn mà trái lại nó đắt đỏ hơn so với mức
thu nhập của giới bình dân; dấu hiệu suy trầm kinh tế dần hiện ra, chính phủ Mỹ
tiếp tục sử dụng liệu pháp Keynes để cứu vãn tình hình bằng cách yêu cầu cục Dự
trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) hạ lãi suất, điều này giữa bối cảnh kinh tế nằm
trong tay đám tài phiệt đã lũng đoạn kinh tế bằng cách đầu tư bừa bãi tạo nên
bong bóng đầu cơ ở nhiều lĩnh vực và quả bóng đó chờ nổ; khi lãi suất đảo chiều
như một định mệnh, kẻ đi vay bây giờ phải chịu áp lực ở một lãi suất cao mà lại
là nông dân trong bối cảnh nông nghiệp vẫn chưa có kỹ nghệ làm gia tăng hiệu
suất, nhiều nhà nông phá sản hoặc cầm cố đất đai lan tràn khắp nước Mỹ; kết
quả, cái cần đến đã đến, một hệ thống tài chính mà dòng tiền chuyển đổi trên
sàn chứng khoán trong khi dự trữ quốc gia cạn kiệt dần thì đến một ngày nó sụp
đổ trên chính hệ thống đã tạo nên nó: sàn chứng khoán; kim bảng vị chỉ là một
cơ chế khiến cuộc Đại khủng hoảng lan ra toàn thế giới, khi mỗi tờ tiền đại
diện cho một số vàng nhất định trong ngân hàng, sáng kiến của chính phủ Anh
trong thế chiến và sau đó phổ biến ra khắp nơi đã trở thành cơ chế phát tán
virus khủng hoảng nhanh đến mức chóng mặt.
Đầu tiên, nông dân phá sản, đất đai cầm cố mà không
sinh ra lương thực trong khi nhiều gia đình lâm vào cảnh phá sản. Phải mất hai
năm nước Mỹ mới nhận ra mình đang thiếu lương thực trầm trọng, trong khi lương
thực từ Tây Âu phải mất thời gian mới vượt biển Đại Tây Dương trước khi phân
phối ra toàn lãnh thổ Hoa Kỳ; năm 1932 nạn đói kinh hoàng nhất lịch sử nước Mỹ
đã diễn ra. Chỉ trong vòng một năm, bảy triệu người Mỹ đã chết vì đói[8]
gấp gần 4 lần người chết trong nạn đói Ất Dậu tại Việt Nam. Tại thành phố đại
diện cho nền thịnh vượng nước Mỹ, New York, đã nhìn thấy người chết và người
đói la liệt khắp thành phố; niềm thương cảm không đủ để giúp đỡ họ bởi khi đó
chính quyền cũng không đủ tiền để phát súp miễn phí. Mặc cho hàng triệu con lợn
đến giờ xuất chuồng, hàng triệu héc-ta lương thực đến giờ thu hoạch buộc phải
thiêu huỷ bởi không thể bán rẻ hơn dưới giá thành sản xuất mà người dân lúc đó
có thể mua. Nước Mỹ, lần đầu tiên trong lịch sử quốc gia, nếm trải cảm giác ê
chề của một sự giàu có trong nghèo nàn, tinh thần tự lực và khai hoang có từ
thời mở cõi bừng lên trong nước Mỹ, đàn bà cùng đàn ông đứng dậy giữa những xác
người và họ đòi hỏi phải kiến tạo lại quốc gia, chính quyền gạt đi những mặc cảm
thời đại và chấp nhận thay đổi như giải pháp cuối cùng để cứu nước. Ở giai kỳ
mà cảm tính lên ngôi, lòng thương cảm và trắc ẩn quốc gia chiến thắng lý trí
lạnh lùng, đảng Dân Chủ được lòng người dân và Franklin Delano Roosevelt trở
thành tổng thống thứ 32. Đó là một tổng thống tài ba, lèo lái con thuyền quốc
gia qua cuộc đại khủng hoảng đến Thế chiến thứ hai; đó là một tổng thống chứng
minh lý thuyết Keynes về vai trò của chính phủ vẫn hữu dụng, Keynes lan toả ra
khắp địa cầu, được giới tinh hoa sùng bái như một vị thánh và người ta dễ dàng
xem Adam Smith đã là quá khứ, những giá trị của tự do cổ điển không quyến rũ
bằng tự do tân cổ điển; rõ ràng Adam Smith cũng không thuyết phục hơn Keynes từ
ngoại hình, lối nói năng dí dỏm thông minh, đời sống quý tộc và thói lãnh đạm
rất đặc trưng của người Anh.
Sau cơn Đại khủng hoảng, kinh tế học Keynes trở thành
môn học chính thức ở nhiều quốc gia, cho đến giờ vẫn không nhiều thay đổi.
Nhưng tại sao lý thuyết kinh tế của Keynes lại thành công trong cuộc đại khủng
hoảng?
KEYNES
LÀ NHỮNG AI?
Từ Chiến tranh thế giới lần thứ nhứt, Mỹ trở thành
cường quốc và sau đó rơi vào đại khủng hoảng mười một năm sau đó; thì cũng Thế
chiến thứ nhứt đã đưa một chàng trai kiêu ngạo nhất trường đại học danh giá lâu
đời nước Anh, đại học Cambridge, từ một nhà kinh tế học nghiệp dư đến vị trí
danh giá trong chính phủ, chàng làm cho Bộ Tài chính. Công việc thư lại cho
chính phủ không đủ thoả mãn con người sinh ra từ tầng lớp tinh hoa của xã hội
Anh quốc, phụ thân chàng là nhà kinh tế học – nhà logic học – và nhà giáo dục
học kèm theo chân giáo sư đại học Cambridge; mẫu thân chàng tuy kém chồng ở địa
hạt tri thức, nhưng bà lại có địa vị cao trong xã hội, Thị trưởng thành phố
Cambridge. Chàng sinh năm 1883, cùng thời với Virginia Woolf (sinh năm 1882),
nhưng cuộc đời của hai con người này sẽ tương phản như cách của một người Luân
Đôn sống và một người Cambridge sống. Woolf sống trầm uất đến mức tự tử vì điều
đó, nhưng Keynes lạc quan yêu đời đến mức “ngây thơ về chính trị” và Lenin xếp
Keynes vào hạng “tư sản ngây thơ về chính trị nhất”. Woolf sống đời thiếu thốn
đến mức nàng than vãn rằng, chỉ cần một ít tiền và căn phòng riêng để sáng tác;
nhưng Keynes lại là số ít trong đám kinh tế gia vốn thường đội sổ về tài sản,
lại sống đời sống quý tộc, nếu có thua, chắc Keynes chỉ thua mỗi David Ricardo
về sự giàu có. Nhưng cả hai con người đó vẫn có vài điểm chung: Họ thông minh
và uyên bác; nếu Woolf là ngôi sao sáng của nữ giới thời kỳ đó thì Keynes không
chỉ bước chân vào ngôi trường danh tiếng Cambridge, mà chàng còn lọt vào nhóm
những kẻ tinh hoa nhất đại học này, những kẻ tự phụ đến mức xem mình là giỏi
nhất trong đám giỏi nhất. Điểm sáng cho Woolf là bà sống trọn đời với nghiệp
văn chương, năm 1900 bà cho ra tác phẩm đầu tay của mình, thì Keynes vẫn còn
chăm chỉ học và nghiên cứu linh tinh ở nhiều lĩnh vực từ triết học, toán học,
tâm lý học và cả nghệ thuật. Keynes chỉ bước chân sang lĩnh vực kinh tế nhờ gợi
ý của một nhà kinh tế tên tuổi khác thời đó, Marshall. Marshall gợi ý Keynes
nên nghiên cứu thêm về kinh tế, chàng làm theo yêu cầu đó và chàng vượt xa khỏi
ông thầy của mình đến mức trở thành nhà kinh tế học xuất sắc nhất thời đại.
Cũng thật ngạc nhiên, khi biết Keynes có điểm số kém nhất là kinh tế học và
toán học.
Keynes đã làm gì để đưa học thuyết về kinh tế của mình
ảnh hưởng ra toàn cầu? Có lẽ Keynes sẽ chịu ơn cuộc Đại khủng hoảng. Đầu tiên,
Keynes cho rằng kinh tế muốn phục hồi thì bọn hủ lậu làm ở Bộ Tài chính Anh lẫn
Mỹ mất việc, ông cho rằng họ đã say khi uống quá liều thứ rượu cũ của những nhà
kinh tế học cổ điển[9];
nghĩa là, Keynes cho rằng, vấn đề tạo nên khủng hoảng nằm ở lý thuyết kinh tế
học cổ điển. Nên tiếp theo, Keynes tấn công vào học thuyết Kinh tế cổ điển, ông
chia mũi tên mình về hai hướng và bắn vào hai hồng tâm của kinh tế học cổ điển:
Một, ông không tin có mối quan hệ tự nhiên giữa tiền tiết kiệm và tiền đầu tư ở
người dân hay doanh nghiệp như lý thuyết cổ điển, mà trái lại, ông tin chúng
độc lập với nhau; hai, ông chế giễu niềm tin về mức lương và giá cả mặt hàng sẽ
do thị trường quyết định hoàn toàn[10].
Cuộc đại khủng hoảng đã chứng minh mũi tên thứ nhất đã đúng, mũi tên thứ hai
thì đến giờ vẫn còn tranh cãi. Nhưng chỉ như vậy đã đủ để lý thuyết kinh tế cổ
điển là quá khứ, nhưng cần nói, lý thuyết kinh tế cổ điển này là một tập hợp
nhiều lý thuyết riêng biệt trước Marshall như: Adam Smith, Malthus, Ricardo,
John Stuart Mill v.v.
Khi chứng minh lý thuyết kinh tế cổ điển không còn phù
hợp, Keynes đưa ra giải pháp của mình, và ông cất tiếng như cách mà Hamlet độc
thoại nội tâm: Mọi sự trì trệ kinh tế đều do tổng nhu cầu về hàng hoá – dịch vụ
thấp hơn tổng nhu nhập mỗi cá nhân hay gia đình[11].
Keynes lý giải, nếu hộ gia đình không mua hết nhu cầu mình cần thì doanh nghiệp
sẽ sa thải nhân viên và cắt giảm sản lượng. Sự suy giảm kinh tế đến từ sự trì
trệ trong sản xuất đó. Và ông ví những doanh nghiệp như những con tàu tiến ra
biển, nó sẽ đắm nếu thiếu đi một ngọn hải đăng dẫn đường. Ai sẽ là ngọn hải
đăng? Ai sẽ ngăn cản việc sụt giảm nhu cầu ở người dân? Ai sẽ hạn chế những con
tàu đắm ngoài biển như cách mà doanh nghiệp phá sản?
Keynes nói: Chính phủ!
Giải pháp của Keynes rất giản dị: Mở rộng vai trò điều
phối của chính phủ. Keynes viết:
Tôi
bảo vệ (sự mở rộng của chính phủ)… vừa như là cách thực tế nhất tránh đi việc
phá hoại toàn bộ doanh nghiệp kinh tế đang tồn tại và, vừa như là điều kiện để
phát huy những sáng kiến cá nhân…[12]
Giải pháp của ông đã được tận dụng triệt để, nhiều đời
chính phủ từ Mỹ đến Châu Âu đều xem quyển Lý thuyết tổng quát (The General
Theory) như thánh kinh và ông là vị chúa tể cần lắng nghe. Thập niên 60,
ảnh hưởng của Keynes như một hào quang soi sáng toàn thế giới, và người ta càng
xem nó đúng đắn khi Ronald Reagan làm tổng thống, sự sụp đổ toàn khối Cộng sản
Châu Âu. Từ đây, lý thuyết kinh tế tập trung của Marx đã hiển nhiên trở thành
một sai lầm không được phép lặp lại. Lý thuyết của Keynes đã mang lại sự hưng
thịnh cho nhiều quốc gia như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan và Singapore; nhưng
đồng thời nó cũng kéo dài sự trì trệ của những nền kinh tế đó. Phần lớn quan
điểm Keynes đều tương đồng với Chủ nghĩa tự do cổ điển và bản thân ông cũng tin
vào Chủ nghĩa tự do cổ điển, trừ vấn đề: Vai trò của chính phủ.
Từ sau Keynes, nhiều tông đồ thuộc phái của ông đã trở
thành tầng lớp tinh hoa và kỹ trị, góp phần vào việc kiến tạo quốc gia thông
qua chính phủ. Keynes không còn là tên cá nhân mà nó trở thành tên gọi chung
chỉ những người theo trường phái này. Và vai trò của tầng lớp kỹ trị quý tộc đó
đã bắt đầu chấm dứt ảnh hưởng từ thập niên 90, trước khi nó gây ra khủng hoảng
hai mươi năm sau đó. Đó là lúc tượng đài Keynes bị tấn công.
TẤN
CÔNG KEYNES.
Virginia Woolf mất năm 1941, trước khi nhìn thấy được
cả thế giới văn chương nữ xưng tụng bà, kỹ thuật dòng ý thức phổ biến rộng rãi
cũng nhờ Woolf, nữ quyền luận trở thành một lý thuyết chứ không dừng ở phong
trào cũng nhờ Woolf; những năm đầu Thế chiến thứ hai, Luân Đôn bị tàn phá,
Woolf chết ở Cambridge trong cơn trầm uất ở tuổi đời còn trẻ. Keynes cũng không
khác gì, khi ảnh hưởng của ông lan rộng toàn cầu vào thập niên 60, thì ông
không có dịp nhìn thấy nó; Keynes chết một năm sau Thế chiến thứ hai (1946);
người được xưng tụng là “người cha phồn vinh sau chiến tranh” đã không có dịp
nhìn thấy sự phồn vinh khi thế chiến vừa chấm dứt. Trải qua một cuộc thế chiến,
người ta nhìn thấy hai tâm hồn vĩ đại của nước Anh ra đi vĩnh viễn.
Dù sao, trước khi chết Keynes cũng nhìn thấy chiến
thắng của mình trước học thuyết Marx. Những dòng cuối cùng trong tác phẩm Lý
thuyết tổng quát, ông viết:
Những
ý tưởng của các nhà kinh tế học và các nhà triết học chính trị, cả hai, dù đúng
dù sai, đều có sức mạnh to lớn hơn người ta thường nghĩ. Thực ra, thế giới được
cai trị bởi một vài người khác. Những con người hành động thực tiễn, những
người tin rằng bản thân họ hoàn toàn thoát khỏi bất kỳ ảnh hưởng tri thức nào,
thường lại là nô lệ của một vài nhà kinh tế quá cố.[13]
Điều đó không chính xác lắm, vì thực tế, mô hình xã
hội dân chủ hiện đại càng lúc càng có khuynh hướng xa rời tầng lớp kỹ trị, có
lối sống nhung lụa và phán đoán bừa về xã hội, bỏ mặc sự lầm than của phần lớn
con người bên dưới. Chẳng hạn như công ty tài trợ Quốc tế IFC, một công ty con
của Ngân hàng Thế giới (World Bank), chuyên cung cấp tín dụng đầu tư cho các
nước nghèo ở những quốc gia toàn trị hoặc bán toàn trị, lại là công ty cấu kết
với đám tư bản thân tộc để đẩy những người dân nghèo ra khỏi mảnh đất lâu đời
của họ và nhường nó lại cho những dự án mang tiếng là phát triển tư doanh cho
các nước nghèo[14].
Điều này tương tự ở nhiều quốc gia, khi tầng lớp kỹ trị tự nhận mình là tinh
hoa của xã hội, họp bàn ở những nơi sang trọng, mà không nhận ra những quyết
định của mình sẽ gây lầm than bên dưới. Và ở Mỹ, người dân đã không còn tin
tưởng vào tầng lớp chính trị gia chuyên nghiệp nữa, sau Bush con, người ta bỏ phiếu
cho ứng cử viên da màu không nhiều kinh nghiệm chính trị như Obama và sau đó,
họ bỏ phiếu cho một nhà kinh doanh đi làm chính trị có lối ăn nói bất nhất và
bỗ bã, Donald Trump. Hơn nữa, nhóm thiểu số cai trị kia là nhóm thiểu số động,
nó luôn bị thay thế hơn là cố định bởi vài khuôn mặt mốc như nhiều người vẫn
nghĩ.
Và không có ảnh hưởng nào là vĩnh cửu, không có tri
thức mới nào mà không kế thừa từ tri thức trước đó. Ảnh hưởng lên một cá nhân
đôi lúc chưa hẳn là một cá nhân, mà có thể là một tập thể, nhiều ý tưởng cùng
một lúc và thành thật mà nói, con người đôi lúc là sản phẩm của thời đại, hơn
là sản phẩm của một cá nhân nào đó.
Tuy vậy, Keynes đã đúng khi nhận định rằng, ảnh hưởng
của những kinh tế gia quá cố lên thời đại. Điều đó đặc biệt đúng với Keynes.
Sau Thế chiến thứ hai, một cuộc tấn công về lý thuyết
lên Học thuyết Keynes, mặc cho những phản công mãnh liệt từ học trò của ông lẫn
tín đồ của ông, nhưng sự phản công đó ngày càng yếu ớt dần bởi thực tế đã chứng
minh Keynes sai.
Phát súng đầu tiên nã vào tâm điểm của Học thuyết
Keynes là gì? Và của ai?
Trong vai trò của chính phủ, theo Keynes, chính là khả
năng chi tiêu của chính phủ sẽ giúp tạo nên việc làm và tăng tổng sản lượng
quốc nội (GDP). Như vậy, với Keynes, tiền không có ý nghĩa gì trong việc tăng
trưởng kinh tế hay suy thoái kinh tế. Quan điểm ngây thơ đó được nhắc lại ở
Việt Nam, thông qua một nhà chính trị không biết gì về kinh tế, Lê Duẩn, “Tôi
hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát!
Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại lạm
phát mà sợ?”[15]
Liệu Keynes có kém hiểu biết về tiền tệ như Lê Duẩn không? Chắc chắn không,
chẳng qua Keynes xem thường yếu tố tiền tệ. Đó là lúc xuất hiện lý thuyết tiền
tệ.
Người đã tấn công triệt để vào Keynes qua con đường
tiền tệ, chẳng ai khác chính là môn đồ của trường phái Keynes, Milton Friedman,
người sinh ra từ Keynes và lớn lên bằng tinh thần chống Keynes. Trí tuệ của
Friedman không thua kém gì Keynes trong lối lập luận hùng hồn lên học thuyết
Keynes. Chính Friedman, chứ không ai khác, chứng minh rằng, Keynes đã thiếu
hiểu biết sâu sắc về tiền tệ.
Vậy Friedman đã nói gì về tiền tệ?
Trong tác phẩm Giả thuyết thu nhập bền vững
(Permanent Income Hypothesis) của mình, Friedman nói rằng, tiền không phải là
tờ giấy có giá trị mà chính giá trị mới là tiền, nghĩa rằng, sức mua của đồng
tiền mới làm nên giá trị của đồng tiền chứ không phải những con số trên đồng
tiền quyết định giá trị của nó. FED thì định nghĩa cơ học hơn, FED cho rằng, tiền
bằng tổng tiền mặt ngoài ngân hàng với tiền mặt có trong tài khoản ký gửi không
kỳ hạn[16].
Vậy làm cách nào các nhà tiền tệ cho rằng chính tiền
tệ mới tác động lên tăng trưởng kinh tế mà không phải chi tiêu của chính phủ
như Keynes nói?
Thực tế cho thấy, chính sách tài khoá trong giai đoạn
kinh tế suy trầm không giúp ích nhiều cho tăng trưởng kinh tế, vì không phải
lúc nào chi tiêu của chính phủ cũng làm cho dòng tiền chạy đến nơi nó cần, mà
trái lại, bội chi ngân sách sẽ khiến nạn lạm phát dâng cao, người dân có xu
hướng thắt lưng buộc bụng và nhu cầu sụt giảm, khiến hàng hoá dư thừa rẻ hơn
mức sản xuất, kết quả khủng hoảng vẫn quay lại.
Các nhà tiền tệ thì cho rằng, chính vận tốc lưu chuyển
dòng tiền mới làm thay đổi điều đó. Điều đó càng lúc càng đúng từ sau khi
Keynes mất, rất may là ông không thấy chiến thắng của môn đồ mình, Friedman.
Nghiễm nhiên, Friedman trở thành một biểu tượng chính của phe chủ nghĩa tiền tệ
(monetarism). Nhưng ảnh hưởng của Keynes vẫn còn mạnh mẽ ở điểm, rõ ràng chi
tiêu chính phủ có ảnh hưởng đến sự vận hành kinh tế thông qua chính sách tài
khoá đúng đắn, đến giờ, không ít chính trị gia vẫn tin như vậy cho đến khi xuất
hiện một cái nhìn khác về chính trị: Phe Lựa chọn công (Public Choice School).
Lựa chọn công tấn công Keynes.
Trước khi hiểu vũ khí mà Lựa chọn công đã dùng để tấn
công Keynes, chúng ta cần biết họ là ai, họ nghĩ gì và họ tin điều gì. Thật kỳ
lạ, họ là những khuôn mặt khá cũ, có trước khi cụm danh từ Lựa chọn công xuất
hiện, cũ đến mức trở về thời đại bắt đầu lý thuyết kinh tế học thông qua ông tổ
ngành học này: Adam Smith. Rồi lần lượt đến James Mill, Knut Wicksell và cả
Mises lẫn Hayek. Nhưng nổi bật nhất trong phái Lựa chọn công không phải là
những tên tuổi trứ danh kia, mà lại là một người thuộc tầng lớp bình dân, có
tuổi thơ nghèo nàn đến mức khô héo cả tâm hồn, kinh tế gia James Buchanan.
Nước Mỹ từ thời lập quốc đến giờ vẫn phân đôi thành
hai mảng văn hoá chính, bờ Đông và bờ Tây. Nên trí thức xứ này cũng theo đó mà
chia, nhóm trí thức bờ Đông thường xuất thân từ những trường đại học lâu đời
như Harvard, có tư duy liên đới đến nước Anh và cựu lục địa xa xôi bên kia bờ
Thái Bình Dương, hiển nhiên là nên tự làm cho mình thành khác bằng giọng nói
nuốt mất âm /r/ như ở New York; nhóm trí thức bờ Tây mang đầy đủ tinh thần khai
hoang mở cõi, cục mịch nóng nảy nhưng chân thành, không cần đến lịch thiệp
nhưng rất cần đến sự phóng khoáng, tạo nên phẩm chất bộc trực mạnh mẽ của xứ
này. Buchanan có đầy đủ phẩm chất của bờ Tây, một óc quan sát nhạy bén, một
thời sống kham khổ, tất cả để hun đúc cho một tài năng về kinh tế: Nhìn chính
trị dưới nhãn quan kinh tế. Phái Lựa chọn công tin rằng, chính trị cũng chính
là kinh tế, một kẻ làm chính trị thật ra là một doanh nhân chính trị. Nếu trước
đó, mọi lý thuyết kinh tế dù mổ xẻ đến đâu thì nó vẫn dừng lại trước cánh cổng
toà Bạch ốc; thì nay, phái lựa chọn công đi thẳng vào toà Bạch ốc, rẽ sang Toà
nhà Quốc hội, tham quan luôn trụ sở những đảng phái chính trị và kết luận hùng
hồn rằng, phía sau chính trị gia luôn là một doanh gia.
Chính Lựa chọn công đã chỉ ra khúc mắc kinh tế nằm ở
những tập đoàn, doanh nghiệp đã phối hợp với nhau từ phía sau hành lang chính
trị để làm nên những quyết sách chính trị. Phương trình kinh tế của Lựa chọn
công chỉ ra, nếu chi phí đầu tư cho chính trị thấp hơn lợi nhuận có được từ một
chính sách bảo hộ thì họ sẽ đầu tư để hình thành luật bảo hộ. Và kẻ làm chính
trị cũng có chung một hoạt động với kẻ làm kinh tế ở chỗ, họ luôn cân đo đong
đếm lợi ích, có lợi thì làm. Nếu ở nhà kinh doanh là, quyết định đầu tư; thì, ở
chính trị gia sẽ là, thoả hiệp. Lựa chọn công đã vạch tấm màn chính trị, phô
bày ra cái chính sách công tưởng chừng vô tư của chính phủ, thật ra là kết quả
của những cuộc đầu tư kinh tế vào chính trị. Keynes té ngửa khỏi giảng đường,
rõ ràng sự can thiệp của chính phủ vào thị trường chưa hẳn vì thị trường mà
nhiều phần sẽ làm lợi cho ai đó. Lựa chọn công phê phán Keynes đã quá ngây thơ
về chính trị.
Từ Lựa chọn công, người ta dễ dàng nhìn thấy sự trì
trệ của Nhật Bản và Nam Hàn ngày nay về kinh tế. Với Nhật, đã áp dụng chính
sách Keynes để tạo nên sự phát triển thần kỳ, sự phát triển đó kèm theo những
tập đoàn được hậu thuẫn bởi chính sách kinh tế, cho đến khi nó quá lớn để tạo
nên trì trệ kinh tế. Tương tự với Nam Hàn, những Chaebol đã trở thành lực cản
trong cải cách kinh tế, như Samsung đã nhiều lần dùng tiền để tác động lên
chính sách quốc gia tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh. Với Việt Nam là
những tư bản thân tộc hay công ty quốc doanh thường xuyên can thiệp vào chính
sách gây ra sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh. Chính phủ tự nhiên
trở thành một thứ công cụ của kinh tế hơn là một nhà điều tiết thị trường, như
Keynes đã nghĩ.
Nhưng từ đâu mà những lý thuyết kinh tế phát triển,
cạnh tranh sức ảnh hưởng với nhau, trong cùng một thời kỳ? Đó là lúc chúng ta
trở về với kinh tế học cổ điển, bắt nguồn vào giai đoạn mà nhiều nhà kinh tế
học cùng tham gia vào ba cuộc chiến cùng một lúc: chống Marx, lý giải cuộc Đại
khủng hoảng và gây ảnh hưởng đối với thời đại.
CƠN
ĐẠI DỊCH MANG TÊN MARX.
Nếu thế kỷ XVIII được xem là thời đại lý tính lên
ngôi, Voltaire như một tượng đài, sự kiêu hãnh đó chết theo cách mạng Pháp và
nhường chỗ cho mầm mống của kẻ thù tư tưởng với Voltaire: J. J. Rousseau. Nếu
Voltaire được nuôi dưỡng bởi giới trí thức hàn lâm, khoá chặt trong cung điện
và ngai vàng, thì Rousseau được đón nhận bởi tầng lớp bình dân và đặc biệt là
những bà mẹ một tay địu con trên ngực, một tay đọc Émile hay là về giáo dục.
Thì thế kỷ XVIII được dọn đường bằng ngục Bastille bị
tấn công, đám người cách mạng giương cao biểu ngữ “tự do – công bằng – bác ái”
để chấm dứt nền quân chủ chuyên chế, vua Louis XVI hiền lành bị chứng bí tiểu
đã không thể thực hiện cải cách của mình với quốc gia, thật không may cho ngài
là không làm vua ở Việt Nam hoặc chí ít, cũng sinh ra trong thời đại này, thì
lỗi lầm của ngài có thể rút kinh nghiệm; nên ngài đã bị bêu đầu thị chúng, chấm
dứt dòng dõi Bourbon. Hạt mầm của Rousseau đã gieo hơn chục năm trước đó, từ
tầng lớp bình dân, đến lúc này nảy nở thành cây và sinh trái ngọt. Theo phong
trào cách mạng Pháp, chủ nghĩa lãng mạn bừng sáng bởi sự lạc quan hồ hởi sảng,
nó lan mạnh như cách mà đoàn quân Napoléon Bonaparte dẫm đạp lên toàn cõi Âu
châu. Betthoven viết bản giao hưởng số 3 và dành tặng cho chàng trai cách mạng
Napoléon, rồi khi chàng bước vào Nhà thờ Đức Bà đội chiếc vương miện đế vương,
Beethoven vội vã xoá lời đề tặng và đặt tên bản giao hưởng này là Anh hùng ca
(Eroica). Từ lạc quan tươi sáng trong giai đoạn tiền lãng mạn, chủ nghĩa lãng
mạn nhanh chóng ủ dột như cách thức mà cuộc cách mạng Pháp đã tàn phá Âu châu,
thời đại vua chúa đã qua đi, nhà thờ rời khỏi phạm vi của vương quyền và lui về
thế tục, nền Cộng Hoà được thành lập trên tòan cõi Âu châu, quân chủ chuyên chế
thay thế bằng quân chủ lập hiến, những quý tộc sống nhờ thái ấp của mình nay đã
đổi thành những nhà đại tư bản. Cuộc cách mạng tư bản trỗi dậy, nó mạnh mẽ và
cương quyết không thua gì cách mạng Pháp, nó nương theo cách buồn những thế kỷ
trước đó và can thiệp vào chính trị để mang hàng hoá đến thuộc địa. Chủ nghĩa
tư bản đã bắt tay cùng chủ nghĩa thực dân, máu và nước mắt người dân bản xứ nằm
trong hàng hoá của những nhà tư bản, những nông dân rời khỏi mảnh vườn của mình
và gia nhập vào thế giới kỹ nghệ sản xuất của tầng lớp công nhân nơi đô thị,
những cột khói bốc lên và ổ chuột mọc lên. Nếp sống nền nã của Âu châu hai trăm
năm trước lui dần bởi tình trạng đô thị hoá chóng mặt. Con người cần thời gian
để chuyển hoá từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ tiểu thương đến nhà tư bản,
từ nội địa đến đa quốc gia. Thời gian chuyển hoá đó đã gây những chấn động về
mặt tâm hồn, hiện thực phô bày cảnh nhớp nháp trên đường phố London, khu ổ
chuột mọc lên quanh khu chợ cá Paris, những bà mẹ phải kiếm tiền nơi nhà máy,
thứ đã lấy đi công việc thủ công trước đó của bà và để lại những đứa trẻ lang
thang trên đường phố. Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi thế giới này cần phải được mô
tả một cách trung thực hơn, bởi nó quá khốn nạn và đồi bại. Những nhà tư bản
hoá thân thành lão già kiết xu Scrooge trong đêm Giánh Sinh lạnh lẽo của
Charles Dickens, bản chất tư bản chẳng khác những con ma trong cơn ám ảnh của
Scrooge. Đó là lúc người ta cần đánh giá lại chủ nghĩa tư bản, liệu chủ nghĩa
tư bản có làm biến chất con người, nó có phải là hiện thân của lòng tham, giai
cấp có phải là vấn đề, ai mới là người chủ thực sự của của cải? Thời đại trả
lời bằng cách sản sinh ra Marx.
Marx sinh ra ngay thời điểm chín muồi của thế kỷ XIX,
khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã bước vào giai đoạn hoàn thiện,
dòng chảy electron đã sinh ra điện, không chỉ thắp sáng nước Mỹ, mà còn tiếp
nối kỹ thuật cơ giới hoá trong sản xuất, hàng hoá không chỉ được vận chuyển
bằng hoả xa mà nhờ phát kiến động cơ đốt trong sẽ tăng hiệu năng sử dụng năng
lượng và xe hơi xuất hiện, kèm theo đó là đường sá trải rộng khắp quốc gia, lan
từ đất nước này đến đất nước khác. Chưa dừng ở đó, lĩnh vực hoá học đưa ra
phương thức chắt lọc dầu thô để tạo nên năng lượng, một thứ đang thiếu cho thời
đại mà năng lượng là nguồn sống để phát triển công nghiệp. Thép không dừng ở
đường ray xe lửa mà. nó còn nâng những toà nhà vượt khỏi không gian diện tích
mà nâng lên chiếm lĩnh tầng không. Động lực học đã nâng máy bay vượt khỏi biển
và chở theo con người. Một thời đại rực rỡ của kỹ nghệ, kế thừa thành quả đó
không ai giỏi hơn những nhà đại tư bản, chỉ có họ mới đủ tiền chi cho phát kiến
và chỉ có họ mới tận dụng những phát kiến một cách hiệu quả nhất nhằm sinh lợi.
Tầng lớp mới xuất hiện: Tầng lớp tư bản. Tầng lớp công-nông không theo kịp với
trình độ sản xuất mới, hoặc phá sản hoặc lui vào sản xuất nhỏ hơn, nhưng phần
lớn trở nên nghèo đi trông thấy và trở thành một lực lượng bất mãn.
Marx sinh ra trong gia đình gốc Do Thái, có đời sống
dưới mức trung lưu, tại Phổ. Chàng học luật nhưng có lẽ chàng cũng hơi nghiện
rượu, điều đó khiến chàng không theo đuổi tốt ngành học, và như Trịnh Công Sơn
nghiện rượu, chàng chuyển tham vọng từ luật sư sang triết học và thi ca. Phụ
thân đại nhân của chàng khuyên chàng dừng ước mơ học giả, bởi nó sẽ khiến chàng
không có đời sống đủ đầy, và như một người Do Thái chân chính, chàng từ chối
lời khuyên của cha, và cũng như một người Đức chân chính, chàng chìm đắm trong
thứ ngôn ngữ triết học được viết bằng mật ngữ của Hegel và Feuerbach. Chàng
thành công bước đầu khi đậu học vị tiến sĩ với luận án dài ngoằn viết bằng ngôn
ngữ Hegel, “Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Epicurus với triết học tự
nhiên của Democritus.” Với thành công đó, chàng nghiễm nhiên đứng vào hạng
Hegel-tử, một chức danh danh giá cho thời đại mà Hegel lên ngôi ở Đức, và như
mọi học trò ương bướng, chàng đi vào chống Hegel. Đó là lúc chàng quan tâm đến
lịch sử. Phải mất nhiều năm, rồi chuyển đến Anh, ở một căn hộ nhỏ vừa, chàng
nghiên cứu lịch sử, nhưng không thấy lịch sử mà chỉ thấy giai cấp, và chàng kết
luận: Lịch sử là đấu tranh giai cấp. Tiện thể để kiếm cơm, chàng hợp tác với
bạn thân Engels viết báo, và cũng nhân tiện chàng nghiên cứu kinh tế luôn.
Chàng đọc Adam Smith, nhưng chống tư tưởng tự do kinh doanh của ông tổ ngành
kinh tế học, chàng yêu thích Ricardo vì ngài có dự báo u tối như nhãn quan của
chàng. Rồi chàng kết luận: Kinh tế phải tập trung trong tay nhà nước nhằm phân
phối bình quân lợi tức tốt hơn. Ý tưởng xã hội đó thật tuyệt vời, chàng thấy
vậy, do đó, chàng thực hiện hai công việc: Một, tiêu diệt nền sở hữu cá nhân
thông qua tác phẩm Tư Bản Luận; và hai, đưa ý tưởng thành một giấc mơ vĩ đại
nhất mọi thời kể từ lúc Plato còn bận mô tả giấc mơ về nền Cộng Hoà lý tưởng,
đó là Chủ nghĩa xã hội khoa học[17].
Hai công việc của chàng thất bại trong đời chàng, nhưng được kế thừa xuất sắc
bởi Lenin. Chính Lenin, chứ không phải ai khác, đã biến tư tưởng của chàng
thành một chân lý và biến giấc mơ của chàng thành một cơn đại dịch càn quét thế
giới từ Âu đến Á. Cho đến giờ, giấc mơ đó vẫn còn ở một quốc gia đông dân nhất
mà người Việt nôm na gọi là Trung Quốc Mộng hay Dream Tàu.
Chỉ trong vòng một thập kỷ sau khi Marx qua đời, tư
tưởng Marx lan ra ¾ thế giới, sau thế chiến thứ hai nó cai trị phân nửa địa cầu
và không ngừng lan toả đến cuối thập niên 80 thế kỷ rồi. Nhưng làm cách nào mà
Cơn đại dịch mang tên Marx lại có sức lan toả mạnh đến như vậy? Nó đúng hay nó
có sức quyến rũ? Tại sao không ít trí thức hàng đầu thế giới vẫn tin tưởng vào
nó? Và mặc cho tư tưởng của nó ngày nay chỉ còn thoi thóp ở vài quốc gia, nhưng
có nguy cơ trở lại với một hình hài khác?
Câu trả lời giản dị nằm ở hệ miễn dịch tư tưởng con
người trong thế kỷ XIX. Đó là tình trạng chính phủ có vẻ bị thao túng và bắt
tay với những nhà đại tư bản, bên dưới là một xã hội lầm than bởi sự phát triển
quá nhanh của kỹ nghệ sản xuất, khiến nhiều người thuộc nền sản xuất cũ có hiệu
năng kém cỏi bị đẩy ra khỏi quá trình sản xuất, tạo nên một tầng lớp phải làm
thuê trên chính mảnh vườn của mình. Cộng thêm những phát kiến về tiền tệ và
dịch vụ giúp lưu thông tiền tệ chưa xuất hiện, khiến nạn phân bố đầu tư đã
không đến những nơi cần đến. Dân số tăng nhanh trong giai đoạn này cũng khiến
áp lực lên lĩnh vực nông sản, hệ quả di dân gây áp lực lên quản lý xã hội, tư duy tranh giành
nguồn tài nguyên thế giới cho phát triển công nghiệp dẫn đến cuộc chạy đua khai thác thuộc địa. Tất cả
dẫn đến một màu sắc u ám và tàn bạo trong xã hội loài người. Nó được thêu dệt
bởi những nhà văn vốn có đời sống bần hàn với tầng lớp lao động. Sự bất công
được gieo vào đầu, con người trở nên bi quan trước sự phát triển công nghệ và
chính phủ thường xuyên bị thao túng bởi quan hệ mua bán nơi hành lang chính
trị. Điều đó tạo nên hệ mẫn cảm với tư tưởng cánh tả, vốn mô tả về một xã hội
hài hoà mang tên tiến bộ, của cải được phân bố đều hơn, nạn cai trị tàn bạo ở
xứ thuộc địa cần chấm dứt. Điều đó tạo điều kiện cho sự hình thành hạt nhân của
Cơn đại dịch mang tên Marx: virus xã hội chủ nghĩa.
Virus này có ba đặc tính: Về kinh tế, nó chủ trương
đường lối kinh tế tập trung nằm trong tay chính phủ; về xã hội, nó đẩy mạnh
tinh thần đấu tranh giai cấp vì nó tin rằng điều đó giúp xã hội tiến bộ; về
chính trị, nó dẫn đến tư duy toàn trị trên mọi lĩnh vực và không chấp nhận khác
biệt. Hiển nhiên, tư tưởng Marx không hoàn toàn mang đặc tính trên, nhưng khi
nó nằm trong tay chính trị gia thì nó phải có. Lenin tiêm nó vào huyết quản của
nhân loại bằng phương pháp: Bạo động cách mạng. Đó là con đường ngắn nhất để
tập hợp sự phẫn uất của số đông quần chúng vốn cần bánh mỳ hơn lời hoa mỹ chính
trị.
Trong lúc virus này lan toả toàn cầu trước Chiến tranh
thế giới lần thứ hai, như một phản xạ tự nhiên của loài người, xuất hiện hệ
miễn dịch với nó. Người ta thử hai liều vaccine: Loại mạnh, mang tên Keynes;
loại yếu, mang tên Mises. Keynes thắng trước khi nó gây ra tác dụng phụ. Và đó
là lúc người ta tìm đến giải pháp mang tên Trường phái kinh tế học Áo.
TRƯỜNG
PHÁI ÁO.
Những thầy thuốc theo phương thức cổ truyền có niềm
tin rằng, “Thuốc giải có nơi nguồn chất độc.” Vài lần lịch sử chứng minh niềm
tin đó đúng và với nạn dịch Marx, nó đúng, bởi thuốc giải nằm nơi biên giới
miền Nam nước Đức, bên kia bờ biên giới là thành Vienna tráng lệ. Nói cho ngay,
Marx là một thầy thuốc cố gắng chữa căn bệnh của thời đại, nhưng phương thuốc
sai khiến Marx trở thành lang băm và đơn thuốc trở thành thảm hoạ. Nơi nào Chủ
nghĩa Cộng sản của Marx đi qua và chiến thắng, nơi đó người giết người, hệ luân
lý đổ vỡ, đạo đức suy đồi, kinh tế dần kiệt quệ, cai trị bởi những tên độc tài
khát máu và nạn bưng bít thông tin như cách thức cai trị. Hàng trăm triệu người
chết bởi chủ nghĩa này, đứng đầu là Liên Xô dưới thời Stalin và Tàu dưới thời
Mao. Không chỉ vậy, khi chủ nghĩa này hiện thân là nguồn độc tố man rợ không
kém chủ nghĩa phát xít, thậm chí có phần hơn, thì nó còn liên tục tạo ra chiến
tranh để tranh giành ảnh hưởng. Phương Tây và Mỹ bắt đầu be bờ chống cộng. Đến
giờ, chủ nghĩa Cộng sản do Marx tạo dựng nên khác xa hình hài ban đầu của nó,
cuộc hôn phối lộn dòng sinh ra những quái thai dị tật như Bắc Hàn, Cu Ba, Việt
Nam và Trung Quốc. Marx chắc chắn không công nhận đó là những đứa con sinh ra
từ tinh thần của mình, nhưng chúng thì nhất quyết gọi hai tiếng phụ thân dành
cho Marx. Nhưng nếu trở ngược về thời điểm cơn đại dịch này lan tràn ra thế
giới suốt nửa thế kỷ, những năm đầu thế kỷ XX, miền Nam nước Đức đã có một cuộc
chiến về tư tưởng kinh tế. Những kinh tế gia Đức sau Thế chiến thứ nhất, trong
giai đoạn tái thiết quốc gia đã hình thành nhóm có khuynh hướng chính trị thiên
tả, mà sau đó thành công nhất chính là Hitler. Để đối chọi với nhóm kinh tế gia
này, ở Áo xuất hiện cuộc phục sinh lại những giá trị có từ thời Adam Smith vốn
đã trở nên dị dạng sau mỗi lần lý thuyết kinh tế mới xuất hiện. Nhóm kinh tế
gia Đức gọi nhóm kinh tế gia Áo là đám Trường phái Áo, gồm những trí thức kinh tế
ở Vienna.
Cuộc chiến bắt đầu bởi Carl Menger, ông là một kinh tế
gia có đầu óc sắc bén đến lãnh đạm, dù cả đời làm công việc giảng dạy ở Vienna
và giáo dục hoàng hậu đến hoàng tử Áo. Công việc đó khiến Áo trở thành một quốc
gia trung lập về sau như Thuỵ Sỹ và biến nó trở thành quốc gia khuynh hữu. Vậy,
đóng góp của Menger vào Trường phái Áo này là gì?
Thật ra, Menger không đồng ý với cả Adam Smith lẫn
Ricardo về chi phí sản xuất, thứ định vị cái gọi là giá cho một món hàng. Nhưng
ông đồng ý rằng, giá cả sẽ do thị trường quyết định, không chỉ vậy, ông còn sâu
sắc hơn để hình thành một lý thuyết quan trọng Thuyết giá trị. Nơi đó, Menger
chỉ ra lợi ích trao đổi từ hai phía dựa trên cái khung giá trị hàng hoá trao
đổi. Thực tế, Menger nhận thấy, kẻ bán bao giờ cũng muốn giá cao hơn và kẻ mua
muốn giá thấp hơn trên một món hàng, nhưng Menger nhìn thấy những chuyển động
khác nằm ngoài động cơ của kẻ bán người mua chính là thị trường. Thị trường bao
gồm mọi thứ, kể cả tài nguyên và con người, nếu thị trường được tự do, nó mang
lại lợi ích lớn cho cả kẻ bán lẫn người mua. Chẳng hạn, nếu tôi bán một cái bàn
gỗ giá $10 tôi sẽ có lợi nhuận $2, nhưng khách hàng tôi lại muốn mua nó với giá
$8 vì mức chi tiêu của họ cho một cái bàn chỉ ở mức đó; thị trường tự do sẽ giải
quyết như sau, tôi sẽ tìm đến vùng sản xuất mới để có giá thành thấp hơn $10,
tôi phải mang về một cái bàn dưới giá $8 để có sức cạnh tranh, nếu tôi thành
công thì tôi sẽ có lợi nhuận trên $2 và khách hang sẽ mua cái bàn dưới mức $8.
Trong quá trình thay đổi đó, tôi sẽ tìm mọi cách để hạn chế chi phí, tôi tìm
đến quản trị hiệu quả, nếu không tìm ra vùng sản xuất mới thì tôi sẽ chuyển
chiếc bàn tôi đến vùng thiếu gỗ để bán cho những ai có nhu cầu, và chính nhu
cầu sẽ quyết định giá mặt hàng của tôi cao hơn $8. Thị trường càng rộng lớn
càng tự do, thì người dân lẫn kẻ kinh doanh sẽ hưởng lợi từ việc buôn bán tự
do. Nếu chính phủ can thiệp vào việc đó, họ định giá mặt hàng tôi phải bán dưới
$8, người tiêu dùng hưởng lợi còn tôi thì phá sản; ngược lại, tôi sẽ giàu lên
còn người tiêu dùng sẽ không mua, nếu đó là mặt hàng thiết yếu, thì đời sống
của họ sẽ suy kiệt.
Chính Menger đã khai phá tư tưởng thị trường tự do làm
nền tảng cho một loạt những nhà tư tưởng kế thừa sau đó, hình thành nên: chủ
nghĩa tự do cổ điển, chủ nghĩa tự do cá nhân, đạo đức trong kinh tế v.v.
Nhưng tư tưởng đó của Menger không được đón nhận tại
Âu châu, một phần vì bi kịch lầm than của người dân sau thời cách mạng công
nghiệp lần thứ hai, một phần, vì chiến tranh, khiến tư duy họ trở nên khuynh
tả. Họ đòi hỏi nhà nước phải can thiệp nhiều hơn vào giá cả, để lạm phát không
xảy ra và để bánh mỳ rẻ hơn túi tiền, họ đòi hỏi công bằng bằng cách trợ cấp từ
chính phủ phải nhiều hơn. Thời điểm đó, tư tưởng Menger được ủ mầm tại Vienna.
MISES
XUẤT HIỆN.
Thế kỷ XX là một thế kỷ kỳ lạ nhất trong lịch sử loài
người, có thể nó chỉ là một trang sách trên tổng số trang sách kể từ lúc nhân
loại có sử hoặc, cũng có thể nó chỉ ngắn bằng một dòng cước chú nếu ta tính từ
lúc xuất hiện loài người; vậy mà nó là trang sử kỳ lạ phức tạp nhất mà chúng ta
biết. Trong vòng 100 năm, vật lý đi từ những hạt nhỏ nhất đến phóng tầm nhìn
vào vũ trụ bao la, thuyết tương đối xuất hiện cùng lúc với thuyết lượng tử,
năng lượng liên kết của hạt nhân có sức công phá vượt khỏi trí tưởng tượng nhân
loại; sinh học cho biết bên dưới mỗi chúng ta là thế giới kỳ diệu của DNA và di
truyền học cho chúng ta biết chúng ta gần gũi với loài vật nhiều hơn chúng ta
nghĩ; triết học trong một thời gian ngắn rã ra thành nhiều phong trào và nhiều trường
phái; nghệ thuật cái mới chưa kịp cảm nhận thì nó sớm trở thành phong trào;
chính trị đón nhận hai cuộc thế chiến kinh hoàng và hàng trăm cuộc chiến lớn
nhỏ khác, điểm nóng chính trị chạy quanh địa cầu và loài người hướng theo như
cách loài mèo vờn ánh sáng; trong kinh tế học xuất hiện hàng chục trường phái,
lý thuyết tăng trưởng theo cấp số cộng, số lượng kinh tế gia gần như ngang ngửa
triết gia; và hơn hết, nhân loại phải gánh chịu hai thảm hoạ: Phát xít và Cộng
sản.
Cùng theo tư duy xã hội chủ nghĩa, Phát xít và Cộng
sản cùng phát triển, chúng tranh giành ảnh hưởng khắp Châu Âu, trước khi lan
sang Mỹ và nhiều thuộc địa. Trái với Cộng sản, chủ nghĩa Phát xít nảy nở trên
chính quê hương của mình và thành công trên chính quê hương. Từ thời khắc đó,
hai mươi năm đầu thế kỷ XX, nước Đức đã bằng cách nào mà dễ dàng chấp nhận chủ
nghĩa Phát xít lẫn vị lãnh tụ xuất thân thấp kém như Hitler? Tại sao người Đức
hiền lành, yêu thi ca, làm việc cẩn trọng, sùng kính tri thức, lại trở nên cực
đoan và khát máu trong thế chiến thứ hai? Tại sao những trí thức hàng đầu Đức
quốc lại ủng hộ kẻ độc tài Hitler? Tại sao người Đức chấp nhận tinh thần bài Do
Thái của hắn?
Muốn trả lời phải lui vào thời điểm những năm 20 thế
kỷ trước, khi kinh tế Đức suy thoái vì không có thị trường cho sản phẩm, nền
kinh tế nước này gặp vấn đề năng lượng và thiếu tài nguyên cho sản xuất mà
nhiều nước khác đã khai thác ở thuộc địa. Đời sống công nhân Đức trở nên bấp
bênh, thế giới hoàng kim của thế kỷ trước đã trở thành dĩ vãng, người Đức cảm thấy
hổ thẹn với tổ tiên và đó cũng là lúc họ đòi hỏi năm điều quan trọng: kinh tế
quốc gia cần được bảo vệ, đời sống cần lao muốn được bao cấp, tinh thần dân tộc
cần phát huy, phải mở rộng thị trường ra thế giới trong hoàn cảnh thế giới nằm
trong tay vài quốc gia, và sau cùng, chính phủ phải có vai trò lớn hơn những
nhà tư bản.
Tư duy đó là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Phát xít và
chủ nghĩa Cộng sản. Bởi người ta luôn tin rằng đấy chính là giải pháp cho vấn
đề. Trái với chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Cộng sản còn thêm một mệnh đề quan
trọng “giải phóng các dân tộc trên thế giới”, nên nó dễ được chấp nhận ở những
nước thuộc địa.
Chủ nghĩa Phát xít đánh bật chủ nghĩa Cộng sản ngay
tại Đức, trước khi nó dần chiếm lĩnh nước Đức, bầu không khí đó đã lan xuống
miền Nam và tràn vào nước Áo. Một chàng trai trẻ sinh ra từ tầng lớp quý tộc
Áo, lớn lên với những dự án đường sắt của cha, nghe ngóng tin tức thời sự nơi
mẹ, cùng em trai sớm muộn gì cũng trở thành những trí thức tài năng của Vienna;
bản thân chàng cũng không kém, chàng thông thạo tiếng Đức, nói được tiếng Ba
Lan, giao tiếp với người Pháp, đọc hiểu văn tự Latin và nghe được tiếng
Ukraina, từ năm… mười hai tuổi. Để chứng minh đời sống quý tộc, gia đình chàng
cũng như nhiều gia đình quý tộc khác, họ chuyển đến Vienna, nơi chàng sẽ học và
đắm mình trong học thuyết của Carl Menger. Khi chàng biết mình là cánh hữu,
chàng tin vào học thuyết của Menger, cũng như truyền thống có từ Adam Smith và
Ricardo, đó cũng là lúc chàng ngửi được mùi hương Phát xít từ Đức tràn xuống
theo mùa Xuân. Chính chàng chứ không ai khác trong thời đại đã phát hiện độc tố
từ xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập trung, vai trò can thiệp của chính phủ vào
kinh tế, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa bảo hộ v.v. trong lúc Keynes vẫn còn bận
bịu về lãi suất, tiền tệ, thuế má, xác suất và… một ít Cộng sản cho thi vị. Khi
danh tiếng Keynes dần được định vị trên thế giới, thì chàng vẫn còn rung đùi
trước những cơn gió chướng từ nước Đức. Chàng quyết định đứng dậy và làm một
cuộc cách mạng chống lại cơn gió chướng trước khi nó trở thành cơn đại dịch.
Chàng chính là Ludwig von Mises.
MISES
TẤN CÔNG PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
Nếu Keynes dành cả đời để tấn công chủ nghĩa Cộng sản
thì Mises dành tuổi trẻ của mình để tấn công Phát xít. Những tác phẩm đầu tiên
của Mises là dành cho Phát xít, mà thật ra là nền kinh tế mà chủ nghĩa Phát xít
theo đuổi. Vũ khí của chàng và cũng là vũ khí trong tương lai của nhiều nhà
kinh tế học theo Trường phái Áo, đó là chủ nghĩa tự do cổ điển, như thanh gươm
Excalibur của Arthur; chàng sẽ dùng nó để tạo nên phương pháp luận để tấn công
vào cả lập trường kinh tế lẫn xã hội của cánh tả. Đầu tiên chàng nghiên cứu
tiền tệ, nhưng nó quá hàn lâm và học thuật cho kẻ ngoại đạo, chàng chuyển sang
nghiên cứu mô hình nhà nước và đặc biệt là mô hình xã hội chủ nghĩa, nơi đó
chàng đón nhận độc giả ngoài chuyên môn. Chàng nhận ra mình cần viết một quyển
sách ngắn vừa, với ngôn từ giản dị, lý luận đủ sắc bén và tư tưởng đủ sức ảnh
hưởng, chàng chấp bút Liberalismus (Chủ nghĩa tự do truyền thống) và nó
được xuất bản lần đầu tiên năm 1927. Một tác phẩm kiệt xuất, nhưng rất tiếc thế
giới bận bịu lắng nghe Keynes và hơn nữa, chàng lại viết bằng tiếng Đức và điều
quan trọng nhất, danh tiếng chàng chưa đủ lớn để đám trí thức hàng đầu chịu
lắng nghe. Mục đích chính của quyển sách là tấn công chủ nghĩa Phát xít và khôi
phục lại tinh thần tự do như truyền thống có từ Adam Smith và Ricardo. Mục đích
đó không thành công, vì chủ nghĩa Phát xít ngày càng lớn mạnh tại Đức và nó bị
tiêu diệt bởi chiến tranh chứ không phải lý luận.
Phát xít qua đi thì Cộng sản tới, nhân loại đôi lúc
nên vui vì cái ác không bao giờ chết, nhờ vậy mà loài người mới bớt dại hơn.
Nhưng giá trị của quyển sách này một lần nữa lại không thành công, vì chẳng ai
biết đến nó, Keynes đã làm thay Mises trong việc tấn công vào những thành trì
của xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế vĩ mô và cả bằng chứng thực tại, nhưng chính
Mises mới chĩa mũi dùi vào hồng tâm của chủ nghĩa xã hội kiểu Marx và tấn công
trực diện vào tử huyệt của chủ nghĩa Cộng sản.
Mises tấn công bằng cách nào? Thông qua Liberalismus.
Bắt đầu chủ nghĩa tự do, Mises nhận ra tự do là một từ
được được sử dụng như một ý đồ chính trị, do đó, Mises định nghĩa lại tự do
theo cách mà những nhà kinh tế học cổ điển đã tạo nên. Hơn hết, Mises chứng
minh rằng, chủ nghĩa tự do sinh từ kinh tế, chứ không phải sinh từ chính trị.
Từ đó, Mises nhấn mạnh tự do đã bị tấn công bởi những
đảng phái chính trị bằng tư duy bài tự do, hoặc làm biến dạng tự do như một kẻ
vô luật pháp thông qua văn học, chính xác hơn, Mises nhận thấy cỗ máy tuyên
truyền của đảng phái đã khiến người dân hình thành não trạng bài tự do.
Để trở về truyền thống trước khi tự do bị làm biến
dạng, Mises định vị chủ nghĩa tự do bằng những nền tảng: phải có sở hữu cá
nhân, phải có tự do lao động, phải bình đẳng về pháp luật; và như vậy, Mises
định nghĩa lại vai trò của chính phủ và nhà nước, tái khẳng định hệ thống dân
chủ thông qua việc phê phán nạn sùng bái chính phủ của người dân Đức, xem chính
phủ như thượng đế toàn năng trong mọi vấn đề của đời sống người dân. Chỉ nhiêu
đó, Mises đã chấm dứt Phát xít và chàng dành chương kế tiếp để tấn công vào tử
huyệt của chủ nghĩa Cộng sản.
Ở chương 2, Mises đưa ra nguyên tắc tự do kinh tế, từ
đó tấn công vào những kẻ chối từ sở hữu cá nhân, những tư duy bảo vệ vai trò
chính phủ trong việc quyết định tài sản cá nhân, nhấn mạnh can thiệp của chính
phủ chỉ khiến vấn đề trở nên trầm trọng và hơn hết, chủ nghĩa xã hội chỉ là
hoang tưởng. Toàn bộ dự đoán của Mises từ năm 1927 về những hệ quả sẽ xảy ra ở
những quốc gia theo đuổi mô hình xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa toàn trị hay chủ
nghĩa can thiệp; sớm muộn gì cũng dẫn đến nền kinh tế quốc gia bị thao túng bởi
những tập đoàn độc quyền, nạn quan liêu hoá bén rễ trong bộ máy công quyền, đạo
đức suy đồi và xã hội suy thoái nhanh chóng. Phương thuốc để điều trị mà Mises
đưa ra rất giản dị: Hãy để kinh tế được tự do.
Chương kế tiếp, Mises đi ra khỏi phạm vi quốc gia và
chính Mises là người tạo ra cả tư duy toàn cầu hoá lẫn nền hoà bình thịnh
vượng. Mises gợi ý giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thông qua Hội Quốc
Liên, là Liên hiệp quốc thành lập khoảng 30 năm sau đó; Mises gợi ý về hiệp
chủng quốc Âu châu, và thế kỷ kế tiếp xuất hiện khối Liên Âu. Hiển nhiên, ý
tưởng đó càng lúc càng khác đi so với thời điểm hiện tại, khi Liên Hiệp Quốc
đóng vai trò bù nhìn nhiều hơn những vấn đề cần đến họ và Liên Âu đang tan rã
theo từng năm.
Sau cùng, Mises tấn công vào các đảng phái chính trị
lẫn cách thức mị dân của họ.
Ngày nay, với phương Tây, chúng ta đọc Liberalismus
không phải vì những phân tích tấn công vào thành trì của Phát xít và Cộng sản,
bởi nó đã chết thật sự ở phương Tây, và nếu còn, chỉ là chút dư âm của chứng
cúm theo mùa; nhưng với Việt Nam, Liberalismus làm bùng vỡ những tư duy còn ngờ
nghệch, những niềm tin ngây dại trước sản xuất kiểu hợp tác xã hay kiểm soát
kinh tế, hoặc kinh tế thị trường vác theo cùm xích “định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Nói như vậy, thì liệu tác phẩm này có còn sức thuyết phục ở thời đại
với phương Tây không? Một thế giới mà những điều Mises nói đã trở thành hiển
nhiên? Vậy chúng ta nên nhìn vào biểu đồ bên dưới.
Biểu đồ đó[18]
cho thấy tần suất những quyển sách có tên Keynes và Mises từ những năm 1920 –
2000, cho thấy ảnh hưởng Keynes trong cả lĩnh vực xuất bản lẫn học thuật vượt
trội Mises và hơn nữa, Mises có khuynh hướng đi xuống vào cuối thập niên 90.
Thật ra, Keynes đã mất dần ảnh hưởng từ thập niên 60 thế kỷ trước, nhưng những
nghiên cứu về lý thuyết Keynes và cả tấn công Keynes vẫn diễn ra thường xuyên
nhiều thập niên sau đó. Nhưng 18 năm gần đây, từ 1990 – 2008, vấn đề có thay
đổi[19].
Từ những năm 1998, ảnh hưởng Keynes trong vấn đề học
thuật có khuynh hướng giảm rõ rệt, lý do chính nằm ở cuộc khủng hoảng kinh tế Á
Châu, bắt nguồn từ cuộc suy thoái của Nhật, vốn theo chính sách kinh tế của
Keynes đã thất bại hoàn toàn trong cuộc chạy đua tăng trưởng GDP. Nhưng đó cũng
là lúc cả Mises lẫn Hayek có chiều hướng ổn định, vì đó là lúc mà người ta dè
dặt tìm hiểu lại Trường phái kinh tế học Áo.
MISES
“TẤN CÔNG KEYNES”
Bi kịch cho tác phẩm Liberalismus là nó được biết đến
quá trễ, khi Keynes mất dần ảnh hưởng từ những năm 1960, thì đến 1962 mới có
bản dịch Anh ngữ mang tên The Free and Prosperous Commonwealth. Bi kịch cho tác
phẩm cũng đi kèm với cuộc đời Mises, vì chống Phát xít và cũng vì là người Do Thái,
nên Mises cùng gia đình phải trốn khỏi Âu châu. Ngày mà Phát xít Đức tràn vào
căn hộ của chàng thì ngày đó chàng đã cập bến cảng New York (1940)[20].
Để chứng tỏ nước Mỹ trân trọng giới trí thức, họ cho chàng một chân giảng dạy
như một giáo sư thỉnh giảng ở Đại học New York cho đến khi chàng không còn đủ
sức dạy thì chàng nghỉ hưu và không hưởng lương từ đại học[21].
Mặc cho nỗ lực truyền bá tư tưởng tự do cổ điển trên đất tự do, bên dưới pho
tượng nữ thần Tự Do, thì nỗ lực đó không đáng kể là bao. Chàng ngày càng hao
mòn sức khoẻ bởi tuổi già, khi người ta biết đến chàng thì tuổi xuân và nhiệt
huyết của chàng chỉ còn lại trong tác phẩm. Chàng mỉm cười và nhắm mắt ở tuổi
92, khi hàng loạt tư liệu của chàng lên đến 20,000 trang lưu trữ trang trọng ở
Grove City College, những học trò của chàng cầm lấy thanh gươm của chàng và
đứng dậy, theo đuổi lý tưởng của thầy. Wilhelm Röpke và Alfred Müller-Armack
trở thành cố vấn kinh tế cho chính phủ Đức, Jacques Rueff là chuyên gia tài
chính cho chính phủ của Charles de Gaulle, Gottfried Haberler trở thành giáo sư
đại học Harvard nơi sẽ tiếp nối truyền thống tư tưởng Trường phái kinh tế Áo,
Luigi Einaudi trở thành tổng thống Ý, Leonid Hurwicz và F. Heyek lần lượt nhận
giải Nobel về kinh tế. Ảnh hưởng của Mises không dừng ở đó, nó còn lan đến
thành phần ngoài kinh tế học như, Leonard Read người sang lập Quỹ giáo dục kinh
tế, nhà phê bình văn học Henry Hazlitt, triết gia Max Eastman, học giả
Sylvester J. Petro, và văn sĩ Ayn Rand. Đó là lúc tư tưởng chàng tấn công
Keynes.
Liberalismus bác bỏ những đồ thị ngoằn ngèo của kinh
tế vĩ mô, nó nhấn mạnh vai trò mỗi cá nhân và nhu cầu của họ trong việc chi
tiêu cho một món hàng, nói cách khác, nó đề cao vai trò kinh tế vi mô trong
nghiên cứu hành vi tiêu dùng, chính nó đã tạo nên ý tưởng quan trọng cho Lý
thuyết tiền tệ và lĩnh vực Marketing về sau. Lý thuyết tiền tệ đã chiến thắng
Keynes về quan điểm dòng tiền lưu thông có ảnh hưởng đến GDP hay không.
Liberalismus nhấn mạnh vai trò của chính trị gia góp
phần đến chính sách tài khoá, ảnh hưởng lên thị trường và làm lợi cho một vài
nhóm lợi ích đã tác động lên chính sách, nó là nguồn cảm hứng cho phái Lựa chọn
công xuất hiện, nó làm sâu sắc hơn cái nhìn về chính trị bằng nhãn quan kinh
tế.
Không chỉ vậy, Liberalismus đưa ra ý tưởng về mô hình
chính phủ ít can thiệp thông quan giải pháp từ ý nguyện của một vài nhóm người
trong điều hành xã hội, thứ mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội dân sự. Xã hội
dân sự đã phát triển mạnh và tiếm quyền điều hành quốc gia của chính phủ theo
chuyên môn mà họ có, rõ ràng tổ chức từ thiện cá nhân hiệu quả hơn từ thiện
chính phủ bởi họ luôn biết ai cần đến sự giúp đỡ của mình, tổ chức giáo dục cá
nhân biết cách trao học bổng cho những tài năng xuất chúng hơn là ban bố bừa
bãi từ chính sách tài khoá.
Liberalismus đưa ra viễn cảnh về xã hội nơi sự cạnh
tranh kinh tế hình thành nên chuẩn mực đạo đức cao hơn trước, điều này ngày
càng được chứng minh ở những xã hội có mô hình kinh tế ngày càng tự do.
Rõ rang, Liberalismus không chỉ đơn thuần là một tác
phẩm chống Phát xít và Cộng sản, mà nó còn khơi nguồn ý tưởng cho những giải
pháp chính trị tương lai.
KẾT.
Chủ nghĩa Cộng sản thất bại không phải vì Keynes đã
chiến thắng và, Keynes thất bại không phải vì hai phát kiến quan trọng sau đó,
lý thuyết tiền tệ và phái lựa chọn công; mà vì họ đã quên lịch sử. Mises cùng
trường phái Áo chỉ ra, Cộng sản thất bại vì tự thân nó không thể đứng vững về
kinh tế, có hay không có Keynes, chủ nghĩa Cộng sản vẫn thất bại về kinh tế; tương
tự với Keynes, lý thuyết trọng yếu của Keynes thất bại vì coi thường hai yếu
tố: tiền tệ và chính trị. Cho đến giờ, trường phái kinh tế học Áo mà dẫn đầu là
Mises và Hayek vẫn bước vào buổi bình minh của nó, nó sẽ còn tham gia vào cuộc
chiến kinh tế với những lý thuyết gia trong tương lai, như cách mà lịch sử 100
năm kinh tế học trở lại đây đã diễn ra. Mặc cho ảnh hưởng Keynes vẫn còn dư âm
trong những cái đầu già cỗi, cho đám trí thức tự nhận mình là "tinh hoa
của bờ Đông" không muốn chối từ ảnh hưởng lịch sử của Keynes thì đó cũng
là lúc trường phái kinh tế học của Áo hồi sinh một lần nữa. Thế giới ngày nay
gặp nhiều vấn đề hơn, giải pháp của họ không phải lúc nào cũng hiện hữu, mà nó
cần được đi tìm, thói quen tổ tiên loài người đã dạy cho chúng ta rằng, hãy tìm
lại những lời khuyên cũ nơi chứa mầm ý tưởng cho những lời khuyên mới hơn. Hiển
nhiên, nội dung này chỉ mang tính khái quát, tôi viết dành cho đối tượng ngoài
chuyên ngành kinh tế học và lịch sử kinh tế , thực tế tôi đã bỏ qua nhiều lý
thuyết kinh tế, nhiều phong trào, những cuộc chiến trá hình bên dưới mỗi chính
phủ, những cuộc vận động hành lang trước thềm bầu cử tại Mỹ và chắc chắn, tôi
đã bỏ sót nhiều tên tuổi kinh tế gia quan trọng thời đại này. Nhưng điểm chính
của quyển sách là làm nổi bật vai trò của Keynes và trường phái kinh tế Áo
trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng đối với thời đại. Tôi mong nội dung này
cần thiết cho bạn đọc Việt Nam.
Tiếc rằng ở Việt Nam vẫn còn trong vòng nô lệ của một
chủ thuyết lỗi thời, mang mầm bệnh của một căn bệnh không phải là nan y với thế
giới, chúng ta là kẻ sống sót hiếm hoi khi đại dịch Marx tràn qua. Dù nó để lại
những thương tật trong tâm hồn người Việt, hôm nay và mai sau, nó ngăn dòng
nước và chia rẽ chủng Việt, nó khoét sâu những đau thương từ lịch sử, nó khiến
những người công an trở thành công cụ chống lại đồng bào mình, nó biến chất kẻ
có hoài bão thành tham vọng hèn hạ. Tôi viết dẫn nhập này cho người Việt, với
hy vọng tương lai không xa, thế hệ lãnh đạo tương lai đừng dại dột quên đi
những bài học lịch sử kinh tế đã xảy ra trên thế giới, dù bản thân người viết
thuộc trường phái kinh tế học của Áo, nhưng tôi vẫn nhắc các bạn rằng, kinh tế
học là bộ môn không bao giờ nhìn đó bằng con số như toán học hay vật lý học. Nó
huyền bí như cách thức mà tâm hồn chúng ta tồn tại.
Hãy đọc nó, Liberalismus, tôi chắc chắn rằng bạn sẽ
cùng đất nước này tìm ra giải pháp cho những vấn đề của quốc gia.
ICiệt.
Tháng 5, 2017. Saigon.
Tư liệu tham khảo chính:
Luwig von Mises:
-
Chủ nghĩa tự do
truyền thống, Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Tri Thức.
-
Economic Freedom
and Interventionism [1990], theo link: http://oll.libertyfund.org/titles/mises-economic-freedom-and-interventionism
Hayek:
-
Đường về nô lệ,
Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Vô Danh, 2016.
-
Hayek on Hayek:
an autobiographical dialogue, By Friedrich August Hayek, Routledge, 1994
-
Prices and
Production, (London: Routledge, 1931).
Todd G. Buchholz:
-
Ý tưởng mới từ
các kinh tế gia tiền bối, NXB Tri Thức, 2007.
Niall Ferguson:
-
Văn minh phương
Tây và phần còn lại của thế giới, NXB Hồng Đức, 2016.
Nguyễn Xuân Nghĩa:
Trần Đĩnh:
-
Đèn cù, NXB Người
Việt.
Các sách khác:
-
A. J. Tebble,
F.A. Hayek, Continuum International Publishing Group, 2010.
-
Những tiểu luận
về chính quyền, Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Vô Danh, 2016.
-
Những Đỉnh Cao
Chỉ Huy - Cuộc Chiến Vì Nền Kinh Tế Thế Giới, Daniel Yergin và Joshep
Stanislaw, Phạm Quang Diệu dịch, NXB Tri Thức, 2008.
-
Hành trình khám
phá thế giới triết học phương Tây, William F. Lawhead, NXB Từ điển bách khoa,
2012.
-
U.S. investments abroad (U.S. Bureau of the Census 1975,
series U26); Foreign investments in the U.S. (U.S. Citation: Rockoff, Hugh. “US
Economy in World War I”. EH.Net Encyclopedia, edited by Robert Whaples.
February 10, 2008.
-
Keynes, The General Theory, CW, Vol.7
-
www.infowars.com/researcher-famine-killed-7-million-in-us-during-great-depression/
-
Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ,
John Maynard Keynes, NXB Giáo Dục, 1994.
[1]
Theo: https://www.va.gov/opa/publications/factsheets/fs_americas_wars.pdf
[3]
Như trên.
[4]
Theo: Butler, Smedley (1935). War Is
a Racket. Los Angeles: Feral House.
[5]
Theo: U.S. investments abroad (U.S.
Bureau of the Census 1975, series U26); Foreign investments in the U.S. (U.S. Citation:
Rockoff, Hugh. “US Economy in World War I”. EH.Net Encyclopedia, edited by
Robert Whaples. February 10, 2008. URL
http://eh.net/encyclopedia/u-s-economy-in-world-war-i/)
[6]
Theo: http://eh.net/encyclopedia/u-s-economy-in-world-war-i/
[7]
Tu chính án hiến pháp này bị loại bỏ
bởi tu chính án số 21, năm 1933, trong giai đoạn kiểm soát đại khủng hoảng.
[8]
Theo: https://www.infowars.com/researcher-famine-killed-7-million-in-us-during-great-depression/
[9]
Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền
bối, Todd G. Buchholz, NXB Tri Thức, trang 307.
[10]
Sđd, trang 309-312.
[11]
Sđd, trang 312.
[12]
Keynes, The General Theory, CW,
Vol.7, p.380.
[13]
Sđd, trang 327.
[14]
Theo: http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/humand-rights-and-development-nxn-03222017135421.html
[15]
Theo Đèn Cù, Trần Đĩnh.
[16]
YTMTCKTGTB, trang 332.
[17]
Đây là từ mà Marx dùng cho mô hình
xã hội chủ nghĩa của mình, nhằm phân biệt chủ nghĩa xã hội đã có trước đó.
[18]
Theo: Google Books Ngram Viewer cho John Maynard
Keynes, Ludwig von Mises.
[19]
Theo: Google Books Ngram Viewer cho John Maynard
Keynes, Ludwig von Mises, Friedrich Hayek.
[20]
Hülsmann, Jörg Guido (2007), Mises: The Last Knight of Liberalism.
Sao em thấy nxb vô danh đóng cửa vậy bác
ReplyDeleteChào chú, chú cho cháu hỏi, cháu muốn mua quyển này, hoặc các quyển khác của NXB Vô Danh thì làm cách nào ạ? Cháu cảm ơn chú
ReplyDeleteCông ty dịch thuật A2Z chuyên cung cấp các dịch vụ phiên dịch - dịch thuật như sau:
ReplyDeleteDịch thuật Huế
Dịch thuật Hà Tĩnh
Dịch thuật Nghệ An
Dịch thuật Đà Nẵng
Dịch thuật Mỹ Tho
Dịch thuật Vũng Tàu
Dịch thuật Hải Phòng
Dịch thuật Nha Trang
Dịch thuật Tiền Giang
Dịch thuật Đồng Hới
Dịch thuật Quảng Bình
Dịch thuật Buôn Ma Thuột