Trần Ngọc Cư dịch
Trung Quốc và Nga lợi dụng giai đoạn phương Tây mất niềm tin hiện nay để hiện đại hoá quân đội và hành động quyết đoán nhằm chiếm đoạt các lợi ích khu vực và địa chính trị. Những cường quốc này đã xây dựng các định chế, gồm Liên minh Kinh tế Á Âu [the Eurasian Economic Union] và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải [the Shanghai Cooperation Organization] để giúp hai nước điều phối và hợp thức hóa một trật tự chính trị song hành thách đố lại các chuẩn mực phương Tây về việc điều hành quốc gia theo đường lối dân chủ và bác bỏ bất cứ một sự can thiệp bảo vệ nhân quyền nào từ bên ngoài.
Vận động Brexit ở Anh
Trật tự quốc tế tự do [the liberal international order] luôn luôn đặt cơ sở trên khái niệm tiến bộ. Kể từ 1945 đến gần đây, các nhà làm chính sách phương Tây đã tin tưởng rằng thị trường cởi mở, thể chế dân chủ, và các quyền cá nhân của con người sẽ dần dần lan rộng trên toàn cầu. Ngày nay, những hi vọng này có vẻ ngây thơ.
Tại châu Á, sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa thách đố địa vị bá quyền quân sự và kinh tế của Mỹ, khi Bắc Kinh tìm cách thu hút các đồng minh của Mỹ như Philippines và Thái Lan vào quĩ đạo của mình. Tại Trung Đông, Mỹ và các đồng minh châu Âu đã không đưa được khu vực này đến một tương lai tự do hơn, hòa bình hơn sau Mùa Xuân Á Rập và tỏ ra bất lực trong việc chặn đứng cuộc chiến tại Syria. Ảnh hưởng địa chính trị của Nga đã vươn tới những điểm cao chưa từng thấy kể từ sau Chiến tranh Lạnh, trong khi nước này đang toan tính đẩy lùi những bước tiến của phe tự do trên vòng đai của nó.
Nhưng những đe dọa nghiêm trọng hơn cho trật tự tự do phát xuất từ bên trong. Hơn 50 năm qua, Liên Âu có vẻ tiêu biểu cho lực lượng tiên phong của một chủ nghĩa tân tự do [a new liberalism] trong đó các quốc gia tập hợp chủ quyền thành một mối và hợp tác chặt chẽ với nhau hơn bao giờ cả. Nhưng ngày nay, trong tình thế chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, Liên Âu đã chấm dứt bành trướng. Sau khi Anh trưng cầu ý kiến rút khỏi khối này vào tháng Sáu vừa qua, rất có thể lần đầu tiên trong lịch sử, Liên Âu sẽ thu nhỏ lại.
Bên kia đại dương, cam kết của Mỹ đối với vai trò lãnh đạo toàn cầu, một vai trò cho đến nay đã duy trì trật tự thế giới tự do qua nhiều thăng trầm, có vẻ trở nên yếu kém hơn bất cứ thời điểm nào kể từ Thế chiến II. Tổng thống đắc cử Đảng Cộng hòa Donald Trump vận động trên một chương trình tranh cử rõ ràng “Nước Mỹ trên hết”, cam kết tái thương thuyết các hợp đồng thương mại của Mỹ, ca ngợi Tổng thống Nga Vladimir Putin, và nêu lên nghi vấn đối với các cam kết của Mỹ với NATO. Trong khi đó, chiến lược “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á của Tổng thống Barack Obama cứ ì ạch chưa cất cánh nổi. Bắc Kinh nhanh chóng đưa ra viễn kiến của mình về một khu vực Á-Âu có khả năng thu hút nhiều thành viên hơn nhằm loại bỏ Hoa Kỳ và trong đó Trung Quốc sẽ đóng vai trò lãnh đạo.
Nửa thế kỷ vừa qua, trong khi các hệ thống chính trị khác sụp đổ, trật tự tự do quốc tế đã vươn dậy đối đầu với các thách đố. Nhưng bao lâu các nền kinh tế của những nước thành viên lãnh đạo vẫn còn èo uột và các định chế chính trị của chúng vẫn còn chia rẽ, thì trật tự mà chúng bảo vệ không thể lấy lại đà chính trị đã một thời giúp thể chế dân chủ bành trướng khắp hoàn cầu. Thay vào đó, trật tự này sẽ diễn biến để trở thành một dự án ít tham vọng hơn: một trật tự kinh tế quốc tế tự do [a liberal international economic order] bao gồm những quốc gia có các hệ thống chính trị khác nhau. Trong ngắn hạn, sự kiện này sẽ cho phép các nước dân chủ và các nước phi tự do [illiberal counterparts] tìm ra đường lối để sống chung. Về lâu về dài, miễn là nó có khả năng thích nghi, thể chế dân chủ tự do có thế lấy lại thế ưu việt của mình.
CHỦ NGHĨA TỰ DO THỜI CAO ĐIỂM
Sau thế chiến II, các nhà làm chính sách phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, bắt đầu xây dựng một hệ thống toàn cầu nhằm đảm bảo họ sẽ không bao giờ lặp lại những thảm họa về hợp tác quốc tế của giai đoạn ở giữa hai cuộc đại chiến. Những kiến trúc sư của hệ thống này không những tìm cách thúc đẩy phát triển kinh tế và thoả mãn tự do cá nhân mà còn duy trì hòa bình thế giới. Họ tranh luận rằng hi vọng tốt đẹp nhất cho viễn tượng này nằm trong thị trường tự do, các quyền cá nhân, chế độ pháp trị, và các chính phủ dân cử chịu sự giám sát của tư pháp độc lập, báo chí tự do, và các tổ chức xã hội dân sự vững mạnh.
Nằm ở trung tâm của trật tự này là các định chế Bretton Woods [thỏa ước về tiền tệ và hối suất ký kết tại Bretton Woods, New Hampshire, 1944 – ND] – Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới – và Thỏa ước Chung về Thuế quan và Mậu dịch, về sau trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới năm 1995. Nền móng củng cố tất cả những định chế này là sự tin tưởng rằng các thị trường cởi mở và minh bạch với sự can thiệp tối thiểu từ Chính phủ -- cái được gọi là đồng thuận Washington [the Washington concensus] -- sẽ đặt nền móng cho sự tăng trưởng kinh tế. Được chỉ đạo bởi những nguyên tắc này, sự hậu thuẫn của Mỹ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự và ngoại giao đã giúp Đức và các nước Tây Âu, cũng như Nhật Bản, hồi phục từ sự tàn phá của Thế chiến II.
Các nhà làm chính sách phương Tây tin tưởng rằng các chuyển đổi sang thị trường cởi mở tất yếu sẽ dẫn đến sự bành trướng của thể chế dân chủ. Có nhiều trường hợp đã chứng minh rằng họ đúng. Thể chế dân chủ tự do dần dần lan rộng khắp châu Âu, châu Á, châu Mỹ-La tinh, và châu Phi phía Nam sa mạc Sahara, nhất là kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Theo thống kê của cơ quan nghiên cứu phi lợi nhuận Freedom House, số Chính phủ dân chủ đã tăng từ 44 vào năm 1997 lên đến 86 năm 2015, gắn liền với 68 phần trăm GDP toàn cầu và 40 phần trăm dân số thế giới.
Trong quá trình bành trướng của trật tự này, một khái niệm tự do mới đã thắng thế: rằng những Chính phủ đàn áp dân chúng và tạo bất ổn cho các nước láng giềng sẽ đánh mất chủ quyền cai trị [their sovereign right to rule]. Toà Hình sự Quốc tế (ICC), một định chế có quyền xâm phạm chủ quyền của một nước khi nhân danh công lý, được thành lập năm 1998. Một năm sau đó, Thủ tướng Anh Tony Blair đưa ra học thuyết về chủ nghĩa can thiệp tự do [free interventionism] tại thành phố Chicago. Ông tuyên bố rằng trong một thế giới ngày càng tùy thuộc vào nhau, “nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ cần phải được hạn chế trong một số khía cạnh quan trọng.” Năm 2005, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc phê chuẩn “trách nhiệm bảo hộ” [the responsibility to protect, còn gọi R2P], một khái niệm cho rằng khi một Nhà nước không ngăn chặn được các hành động tàn bạo, các Chính phủ nước ngoài có thể can thiệp để chận đứng chúng. Trong một trật tự quốc tế tự do đang lên, nguyên tắc cơ bản của Hòa ước Westphalia theo đó các Chính phủ có chủ quyền nắm quyền kiểm soát công việc nội bộ của mình -- nguyên tắc làm nền tảng cho luật pháp quốc tế và LHQ – ngày càng lệ thuộc vào việc các Chính phủ tuân theo các chuẩn mực phương Tây về nhân quyền. Trật tự tự do dường như đang đặt ra các qui tắc cho toàn thể cộng đồng quốc tế.
Vận động tranh cử của Donald Trump
TRẬT TỰ TAN RÃ
Nhưng trong thập niên vừa qua, phải đương đầu với các khủng hoảng tài chính, với các cuộc nổi dậy của phong trào dân túy, và với sự tái xuất hiện các cường quốc độc tài, trật tự quốc tế tự do đã và đang vấp ngả. Theo nhà khoa học chính trị Larry Diamond, kể từ 2006, thế giới đã đi vào một “cuộc suy thoái dân chủ”: sự bành trướng của tự do cá nhân và thể chế dân chủ đã khựng lại, nếu không muốn nói đang trên đường rút lui.
Mối nguy nghiêm trọng nhất phát xuất từ bên trong. Các cường quốc lãnh đạo của hệ thống tự do đang đối diện với tình trạng bấp bênh chính trị và kinh tế kéo dài. Hơn 25 năm qua, đồng lương trung bình tại Mỹ và châu Âu dậm chân tại chỗ, đã bào mòn uy tín của các giới tinh hoa và sức thu hút của công cuộc toàn cầu hóa. Việc mở rộng các nền kinh tế hơn bao giờ hết để đón nhận thương mại, đầu tư, và dân nhập cư đã gia tăng tổng số của cải của các quốc gia, nhưng việc này không mang lại các thành quả cục bộ cho nhiều thành phần xã hội rộng lớn. Việc điều tiết tài chính lỏng lẻo diễn ra trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008 và việc đổ tiền để cứu các ngân hàng sau đó đã làm lung lay niềm tin của người dân đối với Chính phủ, và cuộc Đại Suy thoái này đã xói mòn hậu thuẫn của họ đối với các thị trường tư bản thông thoáng [open capital markets] hình như chỉ làm lợi cho một giới tinh hoa toàn cầu nhỏ bé.
Chiến thắng của Trump, quyết định rời EU của đa số cử tri Anh, và sự trỗi dậy của các đảng dân túy tại miền Bắc phồn thịnh và miền Nam nghèo khó của châu Âu là những triệu chứng rõ ràng cho một tâm lý bất mãn sâu sắc với tiến trình toàn cầu hóa. Tâm trạng này cũng được phản ánh trong sự suy sụp hậu thuẫn tại Mỹ và EU đối với việc mở rộng mậu dịch quốc tế, dù thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP). Trong một cuộc thăm dò năm 2014 của Cơ quan Nghiên cứu PEW, 87 phần trăm số người trả lời tại các nước đang phát triển đồng ý rằng mậu dịch có lợi cho kinh tế, trong khi vào khoảng một nửa số người trả lời tại Pháp, Ý, và Hoa Kỳ nói rằng họ tin rằng mậu dịch đang hủy hoại công ăn việc làm và hạ thấp đồng lương lao động.
Khắp châu Âu, sự phản kháng đối với việc đẩy mạnh hội nhập chính trị đã gia tăng. Trong 60 năm qua, sự tự nguyện của các quốc gia thành viên Liên Âu trong việc tập hợp sức mạnh chủ quyền thành một mối trong những cơ cấu pháp lý siêu dân tộc [supranational legal structures] đã cung cấp một chuẩn mực cho những nước khác đang tìm cách hợp tác chặt chẽ với nhau hơn trong khu vực của mình. Như nhà khoa học chính trị Simon Serfaty đã phát biểu vào năm 2003, người châu Âu đã chuyển hóa hệ thống quản trị chính trị của họ từ quốc gia-đô thị [city-states] sang quốc gia-dân tộc [nation-states] sang quốc gia thành viên [member-states]. Hiện nay, tiến trình này đã khựng lại – và rất có thể sẽ quay ngược trở lại.
Việc Vương quốc Anh trưng cầu ý kiến để ra khỏi EU có thể là một bằng chứng cho thấy Anh có xu thế đứng ngoài: mãi đến năm 1973, tức 16 năm sau ngày EU thành lập, Vương quốc Anh mới gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu, tiền thân của EU; Vương quốc Anh có một lịch sử hoài nghi lâu đời đối với châu Âu [a long history of Euroskepticism]; Anh quyết định ra khỏi đồng tiền duy nhất cho toàn khối EU và chia tay với khu vực Schengen [gồm 26 quốc gia] có biên giới bỏ ngõ cho nhau. Các nước khác chắc sẽ không theo bước chân của Anh để rời EU. Nhưng ít có lãnh đạo châu Âu nào muốn tiếp tục hi sinh chủ quyền của đất nước mình. Nhiều quốc gia châu Âu đã bác bỏ yêu cầu của EU đòi hỏi họ phải chấp nhận một hạng ngạch người tị nạn [a quota of refugees]. Các thành viên giàu trong khu vực đồng euro đang từ chối góp các nguồn lực tài chính của họ vào một kế hoạch đóng bảo hiểm chung nhằm đảm bảo tính khả thi về lâu về dài của tiền tệ duy nhất [tức đồng euro]. Ngày nay, nhiều chính khách châu Âu đang đòi hỏi thêm quyền kiểm soát chủ quyền quốc gia trong việc áp dụng các luật hiện hành của EU và việc thiết kế các hình thức mới cho công cuộc hội nhập.
Trong bối cảnh này, niềm hi vọng rằng EU có thể cung ứng một mô hình cho việc tự do hội nhập tại các khu vực khác có vẻ ngày càng mai một. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Thị trường chung Nam Mỹ Mercosur, Liên minh châu Phi, và Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh vẫn chỉ là những cơ chế hợp tác kinh tế và chính trị rất hạn chế giữa các Chính phủ. Trong khi đó, Trung Quốc và Nga lợi dụng giai đoạn phương Tây mất niềm tin hiện nay để hiện đại hoá quân đội và hành động quyết đoán nhằm chiếm đoạt các lợi ích khu vực và địa chính trị. Những cường quốc này đã xây dựng các định chế, gồm Liên minh Kinh tế Á Âu [the Eurasian Economic Union] và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải [the Shanghai Cooperation Organization] để giúp hai nước điều phối và hợp thức hóa một trật tự chính trị song hành thách đố lại các chuẩn mực phương Tây về việc điều hành quốc gia theo đường lối dân chủ và bác bỏ bất cứ một sự can thiệp bảo vệ nhân quyền nào từ bên ngoài.
Còn 1 kì nữa
ROBIN NIBLETT là Giám đốc của Chatham House, [Viện Nghiên cứu Hoàng gia về các Vấn đề Quốc tế / The Royal Institute of International Affairs].
Nguồn : https://www.foreignaffairs.com/articles/2016-12-12/liberalism-retreat
No comments:
Post a Comment