Lời nói đầu
Cũng như những thế kỉ trước, thế kỉ XX là thế kỉ của
những điều không tưởng. Vấn đề là, những điều không tưởng của thế kỉ XX khác
hẳn với những điều không tưởng của quá khứ. Khác không chỉ ở tính chất của
những ước mơ mà còn ở quy mô của những mưu toan nhằm hiện thực hóa chúng nữa.
Sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, giao thông và thông tin liên lạc đã dẫn
đến việc hiện đại hóa công nghệ quản lí, cho phép huy động vào công cuộc xây
dựng tương lai tươi sáng một lượng người lớn chưa từng có, nó tạo điều kiện cho
nhà nước thâm nhập vào mọi ngóc ngách của đời sống, khiến số lượng nạn nhân
cũng ở mức độ chưa từng có. Đô thị hóa làm cho cơ chế kìm hãm và nền đạo đức cũ
sụp đổ, những giá trị và định hướng cũ mất dần ý nghĩa. Dân chúng rất dễ bị lừa
mị, nhân dân biến thành đám đông ngay trong chớp mắt.
Mưu
toan xây dựng các chế độ không tưởng được thực hiện cả ở Liên Xô, cả ở nước Đức
quốc xã lẫn nước Nhật. Liên Xô xây dựng chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nước Đức
quốc xã xây dựng “trật tự mới ở châu Âu, còn nước Nhật phong kiến thì xây dựng
khu vực thịnh vượng chung của các dân tộc Á Đông. “Tương lai tươi sáng”, “Sứ
mệnh vĩ đại”, “Hòa bình vĩnh cửu”, “Hạnh phúc cho tất cả mọi người” đã nghiễm
nhiên bước vào từ điển của các chế độ không tưởng đó. Phương tiện để thực hiện
những mục tiêu này chính là bạo lực. Bạo lực đối với chính nhân dân nước mình
và với các dân tộc khác. Bạo lực đối với thông tin, đối với văn hóa, đối với
thể xác và bạo lực quân sự. Cho nên, để thực hiện các tư tưởng không tưởng, ở
cả ba nước nói trên người ta đều thiết lập một hệ thống cai trị. Hệ thống này
phải được gọi là chủ nghĩa toàn trị.
Thuật
ngữ này rộng hơn khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa xã hội quốc gia” hay
“chế độ quân chủ”. Nó gom vào cùng một nhóm những chế độ và cơ cấu nhà nước đặc
thù: đối với các chế độ này, đời sống của con người chẳng có một chút giá trị
gì. Vì vậy, nhà nước tự giành lấy cho mình quyền - cả về mặt đạo đức lẫn pháp
lí - thâm nhập vào mọi lĩnh vực có thể tưởng tượng được, nó tước đoạt ngay cả
quyền sống độc lập của con người. Nó tạo ra một kiểu người không đủ sức suy
nghĩ một cách độc lập về những lợi ích cá nhân và “ích kỉ” của chính mình.
Động
viên, kế hoạch, chủ nghĩa tập thể, thống nhất, đấu tranh là những đặc trưng gắn
liền với đời sống và hệ tư tưởng của những nhà nước đó. Lợi ích của những con
người cụ thể bị lờ đi và bị coi là chủ nghĩa cá nhân thối tha. Đơn vị xã hội là
giai cấp, đất nước và dân tộc. Con người chỉ được coi là có “đầy đủ giá trị”
khi đã hòa nhập vào quần chúng. Những đám quần chúng này có niềm tự hào riêng
của mình, họ coi mình là những người làm nên lịch sử, và rất dễ rơi vào tình
trạng bị kích động, thậm chí còn lấy làm hài lòng vì bị kích động nữa.
Người
ta thường nghĩ rằng dân chúng luôn luôn là nạn nhân của những chính trị gia
khôn khéo và bất lương, những kẻ lúc nào cũng chỉ theo đuổi quyền lợi ích kỉ.
Tôi cho rằng hiểu như thế là không đúng. Phần lớn các chính trị gia và sử gia
vẫn còn là tù nhân của những ảo tưởng “mị dân”: nhân dân bao giờ cũng đúng. Còn
nếu nhận thấy ở nhân dân có điều gì đấy tiêu cực thì bao giờ họ cũng bảo rằng
nhân dân đã bị lừa bịp. Nghĩa là trước những sự kiện đang diễn ra, “người dân
bình thường” không phải chịu bất kì trách nhiệm đạo đức nào, nhân dân bị coi là
những đứa trẻ vị thành niên và không thể bị đưa ra xét xử. Kể cả xét xử trước
tòa án của lịch sử. Cách hiểu như thế, theo tôi, là vô trách nhiệm và đầy khiếm
khuyết. Nhà nước toàn trị là kết quả hoạt động của rất nhiều người, mỗi người
trong số họ phải chịu phần trách nhiệm của mình. Phần trách nhiệm của mỗi người
dĩ nhiên là khác nhau, nhưng những mưu toan “biện hộ” cho nhân dân nhất định sẽ
đưa đến sự băng hoại cả về mặt đạo đức lẫn thể xác của họ.
Cả
Nhật, Đức và Liên Xô đều tiếp cận với quá trình công nghiệp hóa tương đối muộn.
Nhưng quá trình công nghiệp hóa lại diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng có, tay
chân hoạt động nhanh hơn đầu óc, tình cảm không theo kịp máy móc. Trong khi tự
hào với sức mạnh quân sự và công nghiệp của đất nước mình thì người dân lại
khao khát tinh thần gia trưởng xưa cũ. Sự phát triển của nền văn minh đô thị
dẫn đến sự đa dạng, mà đôi khi lại bị coi là hỗn loạn. Sự phân chia trong nội
bộ làng xã thành “mình” và “họ” đã được mở rộng sang các giai cấp và dân tộc,
và đạt đến biên giới quốc gia chứ không còn giới hạn trong làng xã nữa. Bị đẩy
từ nông thôn lên phố thị, con người bị cắt rời khỏi cội rễ và những cơ chế kìm
hãm của xã hội truyền thống. Họ trở thành những chủ thể độc lập của quá trình
sáng tạo của lịch sử. Trong khi đó, họ lại là những người nhu nhược và là đối
tượng tuyệt vời cho việc ru ngủ và những thủ đoạn lừa gạt khác. Chính họ cũng
muốn “thống nhất” tình cảm và cảm xúc của mình vì không thể chịu đựng nổi những
thử thách của sự cô đơn và chủ nghĩa cá nhân. Họ thường xuyên bị những căng
thẳng, những cơn rối loạn thần kinh và thái độ hung hãn giày vò; họ sẵn sàng
tìm và dễ dàng tìm được kẻ thù. Ở cả trong cũng như ngoài biên giới quốc gia.
Xã hội
trở thành một đội quân cực kì đông đảo, tất cả các chiến binh đều sẵn sàng thi
hành mệnh lệnh ngay lập tức. Đàn ông lí tưởng không phải là người có thể tự đưa
ra quyết định mà là người chiến sĩ sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh một cách vô
điều kiện. Thực tế là không có ngoại lệ, mọi người đều được xếp vào đội ngũ,
không ai được quyền hành động một cách độc lập. Phụ nữ và trẻ con cũng được yêu
cầu trở thành những người giống như mẫu đàn ông nói trên. Và họ cũng vui vẻ đi
theo con đường đó. Tất cả đều muốn đoàn kết với những người còn lại. Tất cả đều
sợ cảnh cô đơn.
Cả
Nhật, Đức và Liên Xô đều tuyên bố rằng mục tiêu cuối cùng của họ là hòa bình.
Nhưng không nước nào trong ba nước nói trên có thể tồn tại và muốn tồn tại
trong điều kiện hòa bình. Chiến tranh - giữa các quốc gia, giữa các sắc tộc,
giữa các chủng tộc và giai cấp - là điều kiện tồn tại chủ yếu của họ. Nhà nước
toàn trị chỉ có thể tồn tại trong không gian ngày càng được mở rộng, khi các cơ
quan như quân đội và công an có nhiều quyền lực hơn các cơ quan dân sự, khi
lĩnh vực đối nội phải phục tùng các mục tiêu đối ngoại. Tính chất không tưởng
của những mục tiêu nói trên nhất định sẽ xung đột với bản chất của con người,
bạo lực sẽ ngày càng gia tăng và sự chống đối cũng tăng theo. Chính vì vậy mà
thời gian tồn tại của chủ nghĩa toàn trị mới ngắn như thế, cơ chế tự hủy đã
được cấy sẵn vào trong lòng nó ngay từ đầu.
Trong
nhiều nước “tiên tiến” thế kỉ XX, nghệ thuật quản lí con người mới được phát
minh (giáo dục bắt buộc và giống nhau, chế độ quân dịch chung cho tất cả mọi
người, sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng), cũng như sự phát
triển chưa từng có của khoa học và kĩ thuật đã dẫn đến niềm tin ngây ngô và
nguy hiểm vào khả năng vô hạn của nhà nước cũng như khả năng huy động của nó.
Các nhà nước thế kỉ XIX không thể cấp súng cho hàng triệu người dân của mình.
Các nhà nước này cũng không thể động viên hàng trăm ngàn người tham gia những
cuộc biểu tình ủng hộ họ. Họ cũng không thể bắt buộc dân chúng mơ ước rằng hai
mươi năm sau cuộc đời sẽ tốt hơn hẳn. Và muốn thế thì phải hi sinh. Trong thế
kỉ XX, niềm tin như thế đã trở thành tài sản chung, các ảo thuật gia đã nắm
được quyền điều khiển cuộc chơi. Rất ít người nghi ngờ, nếu có cũng không thể
át được tiếng nói của đám đông; điều đó đã dẫn đến kết cục bi thảm cho hàng
trăm triệu người. Tất cả đều chịu chung hậu quả: cả những người nghi ngờ lẫn
các ảo thuật gia và những người muốn được họ dắt mũi nữa.
Các
đảng viên quốc xã, những người dân tộc chủ nghĩa Nhật Bản và đảng viên cộng sản
Liên Xô có quan niệm khác nhau về thiên đường trên cõi thế. Thiên đường quốc xã
không có người Do Thái và người Di-Gan, nhưng có những sắc dân khác, đấy là
những sắc dân phải lao động vì hạnh phúc của dân tộc thượng đẳng. Trong thiên
đường Nhật Bản với tên gọi “Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á”, Nhật Bản vĩ
đại là người truyền bá ánh sáng và đức hạnh, là người dẫn các dân tộc bị những
tên đế quốc “da trắng” áp bức bước vào tương lai. Thiên đường chính là sự “hài
hòa” hay địa vị rõ ràng và dứt khoát cho các dân tộc, mỗi dân tộc sẽ có vị thế
tương xứng của mình. Thiên đường cộng sản được mường tượng như là một xã hội
thuần nhất, không còn dân tộc, không còn giai cấp, mọi người đều bình đẳng.
Mặc dù
có những khác biệt như thế, nhưng phương pháp xây dựng thiên đường thì lại
giống nhau đến lạ lùng. Các kiến trúc sư không tưởng luôn theo dõi nhau và với
thái độ đầy ngờ vực, nhưng lại sẵn sàng bắt chước kinh nghiệm của nhau, coi đó
là sản phẩm của chính mình. Chủ nghĩa toàn trị có đặc điểm là mang tính quốc
tế, hệ thống toàn trị này không thể tồn tại nếu không có hệ thống kia. Chế độ
toàn trị Nhật Bản cáo chung ngay sau khi chế độ toàn trị quốc xã sụp đổ. Sau đó
chế độ toàn trị Xô Viết rơi vào giai đoạn hấp hối và tự sụp đổ - không có sự
thúc đẩy mạnh mẽ từ bên ngoài, khả năng sáng tạo của nó đã suy kiệt một cách
nhanh chóng.
Các
nhà lãnh đạo Nhật Bản, Đức và Liên Xô là những người dễ bị kích động và thiếu
văn hóa. Nói về đạo đức, những người cầm quyền Nhật Bản ăn đứt giới lãnh đạo
chóp bu của Đức và Liên Xô. Họ chưa từng kêu gọi giết người, nhưng ngôn từ
không tưởng của họ nhất định sẽ dẫn đến giết người. Các nhà lãnh đạo Nhật Bản,
Đức và Liên Xô đều tin vào sứ mệnh thiêng liêng và khẳng định tính độc đáo của
đất nước mình. Họ tin rằng mình nắm được chân lí và có những bản thiết kế thần
thánh, họ sẽ xây dựng tương lai theo đúng những bản thiết kế đó. Ý tưởng về
tương lai tươi sáng đã làm họ lên cơn say. Họ không hề nghĩ rằng điều khiển một
đất nước trong tình trạng say sưa là một việc làm vô cùng nguy hiểm, cho cả
mình lẫn những người xung quanh, nguy hiểm hơn cả lái xe trong tình trạng say
rượu.
Nhưng
thuật ngữ “chủ nghĩa toàn trị” không xoá nhoà hiện tượng là phương pháp xây
dựng chế độ toàn trị trong mỗi nước lại có những khác biệt cực kì sâu sắc. Chế
độ toàn trị ở mỗi nước lại có những cơ chế đặc thù về văn hóa và dân tộc. Cái
nhìn từ vũ trụ tưởng là giống nhau thì trên mặt đất hóa ra lại khác nhau. Khác
với Đức và Liên Xô, cơ cấu bộ máy nhà nước Nhật, mà trung tâm của nó là vị
hoàng đế thiêng liêng, không cần phải chứng minh tính chính danh của mình. Vì
vậy mà hào quang hàng thế kỉ luôn luôn tỏa ra xung quanh những lời có cánh và những
ẩn dụ mà nó sử dụng. Viện dẫn truyền thống là biện pháp rất thịnh hành ở Nhật.
Tách hẳn khỏi các sự kiện lịch sử thì không một tư tưởng gia nào có thể hi vọng
thành công. Vì vậy mà các kiến trúc sư toàn trị Nhật Bản không có tinh thần
dũng cảm và táo bạo như các “đồng sự” của họ ở phương Tây. Cũng vì vậy mà chế
độ toàn trị Nhật Bản không thể (không muốn) tạo ra được “phong cách” hoành
tráng (trong nghệ thuật, hội họa, kiến trúc, văn học), dù còn lâu mới làm người
ta nhớ tới những công trình sáng tạo được chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng
sản hà hơi tiếp sức.
Khi
viết tác phẩm này, không chỉ sự tương đồng mà tính đặc thù trong quá trình xây
dựng xã hội toàn trị Nhật Bản cũng làm tôi băn khoăn lo lắng. Tính đặc thù xuất
hiện khắp nơi: trong các mục tiêu, trong tương tác giữa giới tinh hoa cầm quyền
với xã hội, trong các phương pháp giáo dục con người lí tưởng, trong bức tranh
về thế giới, trong động cơ hành động, trong phong cách sống và chết. Nói cách
khác, tôi cố gắng tìm hiểu: Người Nhật trong nửa đầu thế kỉ XX là những người
như thế nào. Vì rằng “người Nhật” trong giai đoạn này đã không hoàn toàn có
nghĩa như trước đây nữa. Khi viết tác phẩm Hoàng
đế Minh Trị và nước Nhật Bản của Ngài[1], với
các sự kiện kết thúc vào năm 1912 - tức là khi vị hoàng đế này băng hà - tôi
cũng đặt ra cho mình nhiệm vụ mô tả cảm quan của chính người Nhật Bản: cuốn Là người Nhật là phần tiếp nối
của tác phẩm nói trên. Những ai đã đọc tác phẩm trước hẳn có điều kiện khẳng
định rằng người Nhật vẫn nói tiếng Nhật, nhưng tiếng Nhật bây giờ đã khác
trước. Dĩ nhiên là mỗi người Nhật đều đã sống một cuộc đời riêng, mỗi cuộc đời
đó đương nhiên cũng không chỉ là thực hiện những chức năng mà xã hội và nhà
nước giao cho từng người. Tuy nhiên vẫn có một cái gì đó giống nhau, chính cái
sự giống nhau này đã đưa số phận của từng cá nhân vào một mẫu số chung. Tôi đã
cố gắng quan sát những chiếc kim nhằm gắn kết, nhằm biến những cái riêng thành
mẫu số chung đó.
Chế độ
toàn trị Nhật Bản kéo dài không lâu. Tác phẩm này mô tả quá trình hình thành,
hoạt động và cáo chung, cũng như những tình cảm lên quan đến quá trình xây dựng
nó. Xây dựng chế độ toàn trị là một công việc to tát, có hàng triệu người tham
gia. Có cả những diễn viên chính lẫn những kẻ “cờ đèn kèn trống”. Nhưng tất cả
bọn họ đều là diễn viên của cùng một vở kịch. Một vở kịch không thể diễn đến
lần thứ hai. Dù có đầy đủ tính khoa trương, thiếu tự nhiên và xung động như mọi
chế độ toàn trị khác, chế độ toàn trị Nhật Bản, về bản chất, là hiện tượng cực
kì nghiêm túc. Trên sân khấu không có gì là giả mạo hết, tất cả các diễn viên
đã sống và chết một cách nghiêm túc. Trong vở kịch này không có chỗ cho sự tự
trào, chính vì vậy mà bao giờ nó cũng có kết cục khủng khiếp.
Câu
chuyện kết thúc vào giai đoạn người Mĩ chiếm đóng Nhật Bản, đặt dấu chấm hết
cho chế độ và con người toàn trị Nhật Bản - kẻ sáng tạo ra (cũng đồng thời là
sản phẩm của) chế độ đó. Trên đống đổ nát của chế độ cũ, từ con người “Nhật Bản
tan hoang” bắt đầu hình thành một con người Nhật Bản hoàn toàn khác. Đấy là con
người có nhiều điểm chung với hình ảnh đã ăn sâu vào nhận thức của độc giả
trong nước hiện nay (ý nói nước Nga - ND), quá trình hình thành nên người Nhật
Bản mới này là đề tài của một câu chuyện khác. Tác phẩm này mới chỉ đề cập sơ
qua mà thôi.
Tôi,
tác giả cuốn sách này, sinh năm 1951, là sản phẩm của xã hội toàn trị. Tôi bước
vào đời đúng lúc xã hội đó bắt đầu quá trình phân rã. Khi còn là học sinh, rồi
đội viên và vào đoàn, tôi vẫn chưa có ý niệm gì về những vấn đề toàn trị, những
vấn đề vốn đã là hiện thực khách quan của cuộc sống vô tư lự. Nhưng, như tôi
nhớ, từ khi bước chân vào đại học, những lí tưởng mà chủ nghĩa cộng sản dùng để
quyến rũ tôi đã không còn tạo được bất kì ảo tưởng nào. Nhưng có khá nhiều
người thông minh và tử tế đã lên án những ý kiến mang tính phê phán của tôi.
Tôi hoàn toàn không nghĩ là họ ngu dốt hơn mình. Vần đề là tại sao họ lại gắn
bó với chế độ toàn trị. Cũng như người Nhật và người Đức đã từng gắn bó với nó.
Trong
tác phẩm này tôi phân tích chủ yếu những vấn đề gần gũi với nghề nghiệp của
mình. Tức là Nhật Bản. Nhưng kinh nghiệm sống ở Liên Xô đã cung cấp nền tảng
vững chắc cho những suy nghĩ của tôi. Điều trước tiên tôi muốn tìm hiểu là vì
sao những con người tế nhị, sắc sảo và nhạy cảm lại ngả theo chủ nghĩa toàn
trị. Hiểu điều đó nghĩa là trả lời được câu hỏi: những người vẫn tự gọi mình là
người Nhật thực chất là người như thế nào. Họ cảm nhận về mình như thế nào, họ
dựa vào cái gì để sống và nguồn động viên của họ là gì, điều gì làm họ vui mừng
hay đau khổ. Vì vậy mà tôi không quan tâm nhiều đến bản thân các sự kiện, có
thể tìm được những sự kiện như thế trong các tác phẩm khác. Thảo luận về những
tiểu tiết của những sự kiện cũng không thuộc phạm vi quan tâm của tác phẩm. Vấn
đề tôi quan tâm nhất là những người vẫn tự gọi mình là người Nhật đó nhận thức
các sự kiện như thế nào.
Hiều
biết hiện nay của chúng ta về những sự kiện đó khác hẳn với hiểu biết của người
đương thời. Nhận thức của họ cũng khác hẳn nhận thức của chúng ta. Nhưng chính
họ lại tin là mình biết khá rõ những sự kiện đang diễn ra. Kiến thức tạo ra
trong lòng người ta tình cảm và quyết định những hành vi tiếp theo. Những ẩn dụ
mà họ sử dụng tiềm ẩn khả năng xây dựng cũng như phá hoại rất lớn. Nói cách
khác, tác giả không chỉ giữ vai trò của một nhà sử học cố gắng mô tả những sự
kiện lịch sử theo quan niệm hiện nay mà còn đóng vai một nhân chứng-người đương
thời với các sự kiện nữa. Theo quan niệm của tôi, cách tiếp cận như thế giúp dễ
dàng giải thích và nhận thức hiện thực lịch sử và con người.
Dĩ
nhiên, ngay cả bằng cách tiếp cận như thế, tôi vẫn không thể (không muốn) tránh
được những nhận định cảm tính và mang tính cá nhân, đấy là do những thiên kiến
và kinh nghiệm sống của mình mà ra. Trong thời gian viết tác phẩm này, có những
lúc cảm xúc đã xâm chiếm trọn vẹn tâm hồn tôi. Theo quan niệm của tôi đấy là
những tình cảm hữu ích - trách nhiệm nhà sử học của tôi được thể hiện qua những
tình cảm đó. Trong đó, theo tôi, không chỉ có khía cạnh nhận thức mà còn hàm
chứa cả khía cạnh đạo đức. Tôi nghĩ rằng suy tư về “đề tài Nhật Bản” giúp chúng
ta hiểu tại sao chúng ta lại rơi vào (và rơi vào như thế nào) cái bẫy toàn trị,
mà hôm nay chúng ta vẫn chưa thể (chưa muốn) thoát ra được. Thật đáng tiếc là
tại nước Nga hiện nay, vấn đề trách nhiệm về mặt văn hóa và trách nhiệm của
nhân dân đối với quá khứ toàn trị đẫm máu đã không được đem ra thảo luận. Người
ta đã gán nó cho một cá nhân và gọi là chủ nghĩa Stalin, điều đó chứng tỏ rằng
tư duy lịch sử-văn hóa và trách nhiệm của chúng ta còn ở trình độ cực kì thấp
kém.
Tác
giả nhận thức rõ rằng đối với nhiều vấn đề, tác phẩm này mới chỉ đề ra được
cách tiếp cận mang tính nghiên cứu mà thôi. Vấn đề ở đây không chỉ là ở sự phức
tạp của đối tượng nghiên cứu và sự hiểu biết chưa đầy đủ của tác giả. Chủ nghĩa
toàn trị Nhật Bản cần phải được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn. Sau Thế chiến II, các
nhà sử học cánh “tả” giữ thế thượng phong trong ngành sử liệu học Nhật Bản.
Đồng tình với những lời lên án chế độ toàn trị và những kiến trúc sư rất thiếu
thiện cảm của chế độ đó, tôi vẫn phải ghi nhận rằng trong rất nhiều tác phẩm,
lòng nhiệt tình mang tính chính luận đã lấn át chức năng phân tích. Sự phân
chia một cách dứt khoát thành “giới thượng lưu” cầm quyền đầy sức mạnh và “nhân
dân”chẳng có chút quyền hành nào đã dẫn đến kết quả là người ta đổ riệt mọi tai
họa cho “bọn quân phiệt”. Với cách tiếp cận như thế, những cơ cấu do tâm lí và
văn hóa tạo ra, làm cho chủ nghĩa toàn trị trở thành chế độ được nhiều người
hâm mộ đã không được xem xét nữa. Sau khi Thế chiến II kết thúc, “bọn quân
phiệt” được coi là những kẻ có tội trong việc làm cho đất nước sụp đổ, và như
thế là vô hình trung đã làm cho những người đại diện “bình thường” của nền văn
hóa Nhật không cần phải trăn trở, không cần phải chịu trách nhiệm cá nhân gì
hết. Dư luận xã hội giữ vị trí “thụ động”: họ cho rằng nhân dân Nhật Bản đã bị
một lũ lưu manh “lừa bịp”. Như thế lại càng cần phải hiểu vì sao nước Nhật lại
bó tay trước sức cám dỗ của chủ nghĩa toàn trị. Chủ nghĩa toàn trị Đức và Nga
sinh ra phần lớn là do sức ép của những hoàn cảnh cực kì khắc nghiệt: Thế chiến
I. Vì đóng góp của Nhật vào cuộc chiến này là rất ít cho nên phải công nhận
rằng chủ nghĩa toàn trị Nhật Bản chủ yếu là hiện tượng nội sinh. Theo nghĩa đó,
Nhật Bản là ví dụ về chủ nghĩa toàn trị “thuần chất”, không pha tạp. Là ví dụ
về chủ nghĩa toàn trị được khuyến khích bởi những toan tính trừu tượng và những
cảm xúc đầy chất thơ.
Việc
quy toàn bộ trách nhiệm cho “bọn quân phiệt” ở Nhật Bản lại trùng hợp một cách
khác thường với xu hướng chủ đạo trong ngành sử liệu học ở Mĩ và Liên Xô. Đại
diện của ngành sử liệu học ở những nước này cũng coi “chủ nghĩa quân phiệt” là
“sự chệch hướng” của các sự kiện, các sự kiện đã không đi theo tiến trình “bình
thường” và “tự nhiên”, tức là tiến trình dường như chắc chắn sẽ dẫn tới xã hội
(xã hội chủ nghĩa) hòa bình và dân chủ. Hành động của “bọn quân phiệt” được coi
là âm mưu đểu cáng nhằm lừa bịp toàn thế giới cũng như nhân dân nước mình. Cơ
sở của quan điểm như thế là niềm tin mang tính “dân chủ” (“dân tuý”) rằng “nhân
dân”, về bản chất, là người đại diện của những tư tưởng cao cả, đúng đắn và bẩm
sinh là không thể làm điều ác. Qua phân tích các sự kiện, các thảm họa cả về
mặt xã hội lẫn con người, diễn ra trong thế kỉ XX, tác giả không thể đồng tình
với quan điểm đó. Theo thiển ý, “nhân dân” và những thành viên của nó cũng phải
chịu trách nhiệm trước lịch sử, tương tự như “chính quyền”: họ là những chiến
binh của cùng một hệ tư tưởng.
Sau
khi đã nói đến quá trình nghiên cứu còn nhiều khiếm khuyết về hiện tượng toàn
trị Nhật Bản, người viết buộc phải bổ sung thêm: lĩnh vực sử liệu học Nhật Bản
trong những năm gần đây đã có những thay đổi căn bản. Ở Nhật Bản đã bắt đầu
xuất hiện những công trình nghiên cứu coi những điều đã xảy ra không phải là
thảm họa mà là kết quả hợp quy luật của quá trình phát triển cả về lịch sử lẫn
văn hóa của đất nước. Độc giả có thể tìm thấy trích dẫn từ những công trình như
thế trong cuốn sách này.
Xuất
phát điểm của cuốn sách này là vương triều của hoàng đế Đại Chính (1879-1926, ở
ngôi từ năm 1912 đến năm 1926). Khi còn sống, các thần dân vẫn gọi ngài là
“hoàng đế Yosihito” (Gia Nhân). Chỉ sau khi băng hà, người ta mới gọi ngài là
Đại Chính. Tương tự trường hợp hoàng đế Minh Trị. Để tránh lầm lẫn chúng ta sẽ
gọi ngài là “hoàng đế Đại Chính”, tức thuỵ hiệu mà người ta vẫn gọi ngài hiện
nay. Ta cũng sẽ làm như thế với con của ngài. Khi còn là đông cung thái tử,
chúng ta gọi ngài là hoàng tử Hirohito (Dụ Nhân) (1901-1989, ở ngôi từ năm 1926
đến 1989). Sau khi lên ngôi, ngài trở thành hoàng đế Chiêu Hòa, mặc dù người
đương thời biết rằng ngài chính là Hirohito. Thuật ngữ “vương triều Đại Chính”
hay “vương triều Chiêu Hòa” là do truyền thống và chỉ có tính chất kĩ thuật -
các “hoàng đế” Nhật Bản không liên quan gì đến việc cai trị, mặc dù hình ảnh
của họ giữ vai trò vô cùng to lớn trong thế giới quan của người Nhật hồi đó.
Tôi
xin chân thành cảm ơn những người đã góp ý, giúp đỡ tài liệu và đưa ra nhận xét
trong quá trình biên soạn tác phẩm này. Trước hết, đấy là A. R. Viatkin, A. M.
Gorbylev, O. A. Mudrak, K. K. Podlesky, E. K. Simonova-Gudzenko, V. V. Sumsky.
Tôi
không thể không nhắc đến những người mà tình bạn và những buổi thảo luận với họ
đã giúp hình thành tư tưởng và niềm tin của tôi. Đấy là nhà kinh tế học A. A.
Konius (1895-1990) và nhà Trung Quốc học G. A. Tkatrenko (1947-2000). Họ đã
không còn, nhưng quá trình tiếp xúc lâu dài và thường xuyên với họ là món quá
vô giá mà tôi hi vọng rằng tôi đã rút ra được những bài học nhất định[2].
Bác cho em xin bài này về blog em, cảm tạ bác !
ReplyDeletehttp://giaovn.blogspot.jp/2014/11/sach-cua-mesheriakov-ve-nhat-ban-co-ban.html
OK.
DeleteThis comment has been removed by the author.
ReplyDeleteThis comment has been removed by a blog administrator.
DeleteĐề nghị không viết linh tinh.
DeleteCháu đã đọc quyển sách này, sách rất hay ạ. Nhưng cháu tìm mãi không biết quyển "A. N. Mesheriakov, Hoàng đế Minh Trị và nước Nhật Bản của ngài, Moskva: Natalis, 2006 " này ở đâu, bác biết thì giúp cháu với. Cảm ơn bác nhieeuf lắm ạ!
DeleteCông ty dịch thuật A2Z chuyên cung cấp các dịch vụ phiên dịch - dịch thuật như sau:
ReplyDeleteDịch thuật Huế
Dịch thuật Hà Tĩnh
Dịch thuật Nghệ An
Dịch thuật Đà Nẵng
Dịch thuật Mỹ Tho
Dịch thuật Vũng Tàu
Dịch thuật Hải Phòng
Dịch thuật Nha Trang
Dịch thuật Tiền Giang
Dịch thuật Đồng Hới
Dịch thuật Quảng Bình
Dịch thuật Buôn Ma Thuột