Nguyễn
Đình Hách dịch
Câu hỏi 1: Mối quan hệ guru / môn đệ là gì?
Trước
tiên, vị guru không phải là thầy dạy; guru là con người đã đạt tới lối sống tôn
giáo. Tôn giáo không phải là thông tin, nó không thể được dạy bởi vì tôn giáo
là cách sống. Sự hiện diện thực sự của vị guru là sự đồng cảm. Và đối với người
sống trong mối quan hệ với vị đó, có một cái gì đó được giao tiếp - mặc dù
không thông qua lời nói. Mối quan hệ thân mật đến mức nó ít giống mối quan hệ
giữa người rao giảng và người nghe mà giống nhiều hơn với mối quan hệ giữa
người yêu và người được yêu.
Chính vị
guru phải là người giác ngộ, chính vị đó phải đạt được, bởi vì người ta không
thể giao tiếp với người chưa thực chứng. Trải nghiệm tôn giáo có thể được giao
tiếp chỉ khi nó là trực tiếp. Người rao giảng không cần là người đã tự thực
chứng, nhưng vị guru thì phải như vậy. Người rao giảng có thể trao thông tin cũ
từ những kinh sách hoặc từ những truyền thống, nhưng vị guru thì không thể.
Guru là người đã thực chứng sự thật. Bây giờ người đó là suối nguồn nguyên
thủy; chính người đó đã đối mặt với thực tại, mặt đối mặt với nó. Người môn đệ
xuất hiện trong mối liên hệ bởi nhận biết trực tiếp, bởi vì bất kỳ điều gì được
nói hoặc được giao tiếp thì cũng bằng chính thẩm quyền của vị guru.
Điều thứ
hai, vị guru không nhận biết tính guru của mình; vị đó không thể. Vị guru không
thể tuyên bố rằng mình là một guru - không có kiểu tuyên bố như thế. Người ta
chỉ có thể biết vị đó đã đáp ứng trạng thái vô ngã hay không; nếu không vị đó
không thể đối mặt với sự thật. Sự thật được trực diện chỉ khi bản ngã tuyệt đối
vắng mặt.
Tôi luôn
nói rằng trong tôn giáo, trong vấn đề tâm linh, chỉ có các môn đệ tồn tại - bởi
vì vị guru không có mặt, ông ấy chỉ là sự hiện diện. Chính thái độ không tuyên
bố, vô ngã, không thuyết giảng và cuộc sống thực sự của vị đó, là sự giao cảm.
Cho nên người nào tuyên bố mình là guru thì chỉ là một người rao giảng, người
đó không phải là một vị guru.
Không có
từ nào trong tiếng Anh để dịch từ guru, bởi vì mối quan hệ giữa vị guru và
người môn đệ về cơ bản mang tính phương Đông. Không có mối quan hệ như vậy tồn
tại trong văn hóa và truyền thống phương Tây, cho nên không ai ở phương Tây có
thể hiểu guru là gì. Nhiều nhất thì họ cũng chỉ hiểu người thuyết giảng là gì.
Mối quan
hệ giữa vị guru và môn đệ là rất thân mật... nó giống như tình yêu. Lòng sùng
kính được cảm nhận như tình yêu, nhưng có một khác biệt: tình yêu là song song,
lòng sùng kính là cho người ở bên trên, người cao cả hơn. Tình yêu tạo ra mối
quan hệ bạn bè bởi vì người yêu và người được yêu cùng đẳng cấp. Lòng sùng kính
cũng là một dạng tình yêu nhưng có sự khác biệt lớn: nó không cùng đẳng cấp;
một người cao hơn. Nếu có tình thân mật yêu thương với cá nhân cao cả hơn thì
lòng sùng kính được tạo ra quanh vị guru một cách tự động. Nhưng không được
mong chờ, không được đòi hỏi.
Chỉ các
môn đệ tồn tại - bởi vì họ cố ý là môn đệ, họ chọn là môn đệ. Vị guru không
chọn, vị đó hành động. Cuộc sống của vị đó và hành động là một, và vì thế vị đó
có thể thuyết giảng bởi chính hành động của mình. Thuyết giảng của vị đó và
cuộc sống của vị đó là hai khía cạnh của một tồn tại. Chính việc đi, đứng,
ngồi, nói, sự tĩnh lặng của vị đó - mọi thứ đều là dấu hiệu. Một cái gì đó xuất
hiện thông qua sự tồn tại của vị guru, và người môn đệ phải luôn luôn đón nhận
nó. Người môn đệ có nghĩa là người có tâm trí cởi mở, đón nhận cho nên anh ta
không chỉ học hỏi mà còn đón nhận. Chính vì vậy mà sự tin cậy là nền tảng cơ
bản để trở thành một người môn đệ.
Bất kỳ khi
nào chúng ta đối mặt với cái chưa biết thì không có logic nào, không sự giải
thích lý lẽ nào là khả dĩ. Bất kỳ khi nào chúng ta đối mặt với cái chưa biết
thì chỉ có sự tin tưởng mới có thể dẫn lối chúng ta. Nếu tôi nói điều gì đó về
cái đã biết thì bạn có thể tranh luận
điều đó với tôi, bởi vì bạn cũng biết nó. Chúng ta có thể lý lẽ về điều đó,
chúng ta có thể tranh luận về điều đó - đối thoại là điều có thể. Nhưng nếu tôi
nói về điều gì đó tuyệt đối không biết đối với bạn, thì không cuộc đối thoại
nào là có thể và không thể có tranh luận. Không thể có sự tiếp cận lý trí về
điều đó bởi vì lý trí chỉ có thể tác dụng xung quanh cái đã biết.
Thời điểm
cái chưa biết xuất hiện thì lý trí là vô dụng: nó trở nên vô nghĩa. Nghĩ là vớ
vẩn bởi vì bạn không thể nghĩ về cái chưa biết. Giống như bạn bị mù và tôi nói
với bạn về ánh sáng. Bạn chỉ có thể coi những gì tôi nói là niềm tin; không có
cách nào khác.
Mối quan
hệ giữa người môn đệ và vị guru là một mối quan hệ tin cậy, mật thiết. Đó không
có nghĩa là niềm tin mù quáng, bởi vì vị guru không bao giờ mong chờ bạn tin vị
đó - đó không phải là một sự mong chờ. Nhưng chính bản chất của cái chưa biết
như vậy mà bạn không thể bước nổi một bước về phía trước mà không có sự tin
cậy. Sự tin cậy đòi hỏi nơi người môn đệ, bởi vì anh ta sẽ không thể thực hiện
nổi một bước vào vùng chưa biết mà không có sự tin cậy vào vị guru. Vùng chưa
biết là bóng tối, là miền chưa được thám hiểm - đó không phải là phúc lạc,
không phải là điều tối thượng - và vị guru luôn nói, “Hãy nhảy vào đó! Hãy thực
hiện!” Nhưng trước khi bạn có thể nhảy, sự tin cậy là cần thiết hoặc bạn sẽ
không nhảy. Và kiến thức chỉ có thể xuất hiện thông qua cú nhảy.
Trong khoa
học, giả thuyết là cần thiết trước khi có những thử nghiệm. Giả thuyết có nghĩa
là tin mà không chắc chắn. Nếu thử nghiệm chứng minh được giả thuyết thì nó trở
thành một sự thật, nhưng nếu thử nghiệm không chứng minh được thì giả thuyết
trở thành giả. Nhưng không có giả thuyết, không có niềm tin tạm thời thì không
thể có thử nghiệm.
Với tôn
giáo điều đó cũng chính xác như vậy: sự tin cậy là cần thiết giống như giả
thuyết là cần thiết trong khoa học. Nhưng có một sự khác biệt lớn giữa thái độ
khoa học và thái độ tin. Về mặt giả thuyết, con người có thể tin vào một đề
xuất khoa học và cũng còn hoài nghi về điều đó. Lòng sùng kính là không cần đến
bởi vì khoa học liên quan đến hiện tượng khách quan - bạn có thể thử nghiệm nó
và có thể nhìn thấy nó xuất hiện như thế nào. Nhưng trong tôn giáo, niềm tin
giả thuyết là không đủ bởi vì bạn không giải quyết vấn đề khách quan bên ngoài
bạn. Bạn sẽ phải xử trí chính bạn; đó là hiện tượng chủ quan. Bạn sẽ phải liên
quan, phải cam kết. Bạn sẽ không thực hiện thử nghiệm từ bên ngoài, bạn sẽ là
sự thử nghiệm. Bạn sẽ phải nhảy vào và trở thành một phần của nó. Sự tin cậy
sâu sắc là cần thiết.
Cho nên
mối quan hệ giữa vị guru và người môn đệ là một trong những sự tin cậy sâu sắc
nhất, tình yêu thân mật, lòng sùng kính. Nhưng những điều đó không được yêu
cầu. Thời điểm chúng được yêu cầu thì chúng trở thành sự lợi dụng; thời điểm
chúng bị ép buộc thì chúng trở thành bạo lực, bởi vì không ai sẽ tự ép
buộc lên bất kỳ ai. Đó không phải là sự
ép buộc lên phía vị guru, đó là sự sẵn lòng từ phía môn đệ cho phép vị guru thể hiện.
Nhưng
thường thì người môn đệ không sẵn lòng còn vị guru thì ép buộc. Nếu vậy, mọi
thứ sẽ trở nên vô nghĩa. Thời điểm mà vị guru cố ép buộc một cái gì đó lên một
người nào đó thì đó là hủy hoại, là kết liễu, bởi vì đó là hành động bạo lực
chống lại bản ngã của một ai đó. Nhưng nếu người môn đệ sẵn lòng, nếu anh ta
dâng lên vị guru sự tin tưởng tuyệt đối của mình - nếu đó không phải là ép
buộc, nếu đó là sự sẵn sàng buông bỏ của anh ta - vậy thì sự chuyển hóa lớn lao
sẽ xuất hiện: môn đệ được chuyển hóa bởi chính sự buông bỏ của mình.
Đây là một
hành động quan trọng nhất: buông bỏ hoàn toàn, tự buông bỏ toàn bộ với một người nào đó khác. Đó không chỉ là
sự tin cậy vào một người nào đó khác mà cơ bản là tin chính mình. Bạn không thể
tự buông bỏ nếu bạn không đủ tự tin về quyết định của mình, bởi vì đó là quyết
định quan trọng - tuyệt đối và vô điều kiện. Bất kỳ khi nào người môn đệ buông
bỏ chính mình thì ý chí của người đó cũng sẽ liên quan, và từ ý chí đó mà quyết
định nảy sinh. Người môn đệ trở thành một tính cách kết tinh thông qua sự buông
bỏ, bởi vì quyết định quá lớn lao, quá toàn bộ, quá tuyệt đối và vô điều kiện.
Không sự
buông bỏ nào có thể trở thành điều kiện; không thể có điều kiện với vị guru.
Bạn không thể nói, “Nếu thầy thực hiện điều này thì tôi sẽ buông bỏ”. Thế thì
đó sẽ không là buông bỏ. Không có “nếu” - bạn buông bỏ toàn bộ. Bạn nói, “Xin
hãy thực hiện bất kỳ điều gì thầy muốn. Tôi đang trong tay thầy. Hãy yêu cầu
tôi nhảy vào bức tường và tôi sẽ nhảy!”
Chính
quyết định quan trọng để buông bỏ hoàn toàn này là sự chuyển hóa và kết tinh.
Thái độc của người môn đệ luôn là một sự buông bỏ toàn bộ. Thế rồi vị guru có
thể thực hiện bất kỳ điều gì, bởi vì thông qua sự đón nhận toàn bộ của bạn đối
với vị đó mà bạn có thể giao cảm với vị đó. Thế rồi dần dần bạn thay đổi.
Vấn đề rất
tinh tế, nó rất nhạy cảm. Thay đổi một thực thể sống, thay đổi tính cách con
người là điều lớn lao nhất, gian khổ nhất và tinh tế nhất. Tính cách con người
rất phức tạp và xung đột, rất nhiều điều bị kìm nén và bị xuyên tạc đến mức để
biến đổi nó và làm cho nó nở hoa, biến nó thành một món quà giá trị đối với
điều linh thiêng, là một khả năng nghệ thuật hay khoa học kỳ diệu.
Nhưng bạn
phải nhớ rằng những gì tôi đã nói luôn xuất phát từ người môn đệ, mà không bao
giờ từ vị guru. Nếu điều đó xuất hiện từ vị guru thì Krishnamurti đúng: vậy thì
tính guru là một trong những sự lợi dụng tinh vi nhất và hủy hoại nhất. Nhưng
Krishnamurti không thực sự đúng, bởi vì buông bỏ chưa bao giờ là một yêu cầu
của vị guru; nó là điều kiện cơ bản của tính môn đệ. Không có vị guru hoặc
không có mối quan hệ tin cậy thì sự phát triển tâm linh là rất khó. Thực tế, đó
là điều không thể.
Có mọi khả
năng rằng con người có thể nở hoa mà không có vị guru nào, nhưng người đó cũng
sẽ phải buông bỏ, anh ta sẽ phải tin - nếu không tin vào người cụ thể thì cũng
tin vào cái toàn bộ. Những yêu cầu cơ bản phải được thực hiện. Cho dù chúng
được thực hiện trong mối liên hệ với một người hoặc không thì cũng là thứ yếu.
Tin vào
một người dễ hơn tin vào cái toàn bộ. Nếu bạn không tin vào một người thì bạn
không bao giờ có thể tin vào tồn tại như vậy. Nếu bạn không thể buông bỏ trong
mối quan hệ có tính cách thì bạn không bao giờ có thể buông bỏ với đấng linh
thiêng phi tính cách. Cho nên vị guru là một bước đi tới trạng thái mất tính
cách, là một cách giúp con người buông bỏ với cái toàn bộ, với chính tồn tại.
Đối với
tâm trí con người, mọi mối quan hệ là cá nhân. Đó có thể là tình yêu, có thể là
sự kính trọng, có thể là bất kỳ điều gì, nhưng đó là cá nhân. Cho nên bước đầu
tiên đi tới sự thực chứng về sự thật, hay sự thực chứng về thực tại vũ trụ cũng
buộc phải mang tính cá nhân. Một người nào đó sẽ phải được sử dụng như một là
bục nhảy.
Và cũng
còn những thứ khác…
Liên quan
đến tâm linh thì những lời nói không thể giao tiếp lại rất ý nghĩa. Chính hiện
tượng như vậy lại không thể biểu cảm. Nếu bạn nghe nhạc cụ nào đó, bạn không
thể truyền đạt ý nghĩa của nó thông qua lời nói. Bạn có thể dùng những từ để
đánh giá - tốt, xấu - nhưng chúng không chứa đựng bất kỳ điều gì. Bạn chỉ có
thể truyền đạt những cảm nhận của bạn, nhưng điều này cũng rất không thỏa đáng.
Nếu bạn đã
nhìn thấy một bông hoa, bạn có thể nói nó đẹp. Nhưng điều đó không truyền đạt
bất kỳ điều gì. Những lời nói của bạn không bao giờ truyền đạt nhận biết thực
của thời điểm, bởi vì chúng có thể có bất kỳ ý nghĩa nào đối với người được
chúng truyền đạt. Con người chưa bao giờ nhìn thấy vẻ đẹp của bất kỳ bông hoa
nào thì sẽ nghe những lời nói của bạn và hiểu ý nghĩa của chúng, nhưng lại
không hiểu bất kỳ điều gì, bởi vì lời nói đẹp không mang ý nghĩa gì đến cho
người đó.
Ngay cả những
khái niệm như là vẻ đẹp cũng không thể biểu cảm toàn bộ - chúng ta chỉ có thể
cố để biểu đạt chúng. Những vấn đề tâm linh quá hoàn hảo, quá tĩnh lặng, quá vô
hạn đến mức ngôn ngữ làm hủy hoại chúng. Lời nói hạn chế chúng trong một cái vỏ
quá hạn hẹp đến mức ý nghĩa không thể được truyền đạt. Chính vì vậy mà tôi đã
nói rằng tôn giáo không thể được thuyết giảng.
Tuy nhiên
đó là khó khăn, toán học có thể được dạy bởi vì đó là biểu tượng, những biểu
tượng có thể được truyền đạt. Vật lý có thể được dạy, bởi vì không có gì không
thể biểu đạt về nó. Nhưng bạn càng đến gần hơn với trái tim con người - ví dụ,
trong thơ ca - bạn càng cảm thấy rằng những lời nói của bạn đã không chuyển tải
được vấn đề, một cái gì đó đã bị để lại phía sau. Cái vỏ có đó nhưng cái thứ
bên trong đã bị để lại phía sau. Những lời nói đã chạm tới nhưng ý nghĩa đã ở
lại phía sau. Bông hoa đã được nhận, nhưng hương thơm đã không còn ngay lúc nó
được trao.
Ngôn ngữ
là điểm ở giữa khoa học và tôn giáo. Trong khoa học mọi thứ đều có thể được truyền
đạt; trong tôn giáo không gì có thể được truyền đạt. Có ba con đường: khoa học,
có nghĩa là lý luận, và có thể biểu đạt; thơ ca và nghệ thuật, nó là xúc cảm,
và có thể biểu đạt tới điểm nào đó, mà nếu vượt qua điểm đó thì chúng không thể
biểu đạt; và tôn giáo, tâm linh là tuyệt đối không thể biểu đạt. Chính vì vậy
mà mối quan hệ giữa người môn đệ và vị guru không phải là mối quan hệ thầy trò.
Tôn giáo
không thể được dạy.
Vậy thì
làm cách nào có thể truyền đạt? Có hai phương pháp.
Khi bạn
đang yêu một người nào đó thì lần đầu tiên những điệu bộ trở nên ý nghĩa. Nỗi
đau thầm kín trên nét mặt được phát hiện, nỗi thổn thức mong manh trong đôi mắt
được nhận ra và được đoán ra. Trừ khi bạn đang yêu, bạn không bao giờ chú ý tới
những điều tinh tế như vậy; bạn nhìn thấy khuôn mặt, nhưng bạn không nhìn thấy
toàn bộ sự phức tạp của nó, bạn không nhìn thấy sự thay đổi hình thái liên tục
của nó. Bạn nhìn thấy khuôn mặt như là ngoại vi, bạn chưa bao giờ thấy nội dung
bên trong nó. Nhưng khi bạn yêu ai đó thì nét mặt không như là một hình ảnh mà
là một hình thái sống động. Những chi tiết nhỏ và những thay đổi tinh tế khi
biểu cảm được phát hiện và đoán ra. Thậm chí trước khi người yêu nói điều gì đó
thì bạn đã biết nó là gì rồi. Thậm chí trước khi người yêu biết rằng chàng (hay
nàng) đã cảm nhận một cái gì đó thì bạn có thể đã đoán ra.
No comments:
Post a Comment