February 18, 2016

Dương Kế Thằng – Nền chính trị hại dân của Mao trong thời kì Đại Nhảy vọt ở Trung Quốc: Lời nói đầu cho cuốn “Bia mộ” (2)

Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Dương Kế Thằng, tác giả Bia Mộ
Sau khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc bưng bít hết mọi nguồn thông tin từ nước ngoài, đồng thời phủ nhận toàn bộ những chuẩn mực đạo đức truyền thống của Trung Quốc. Chính phủ nắm độc quyền thông tin nên cũng nắm độc quyền về chân lí. Là trung tâm quyền lực, Trung ương Đảng cũng là trung tâm chân lí và thông tin. Tất cả các cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội cúc cung tận tụy xác nhận tính chính đáng của chế độ cộng sản; mọi đoàn văn công nỗ lực hết mình ca tụng Đảng Cộng sản Trung Quốc; tất cả các cơ quan truyền thông đưa tin đăng bài chứng minh sự sáng suốt và sức mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ nhà trẻ đến đại học, sứ mệnh chính là cấy thế giới quan cộng sản vào tâm trí của học sinh, sinh viên các cấp. Các viện nghiên cứu khoa học xã hội, đoàn văn công, cơ quan truyền thông và trường học tất thảy đều trở thành công cụ cho sự độc quyền của Đảng về tư tưởng, tinh thần và quan điểm, và tất cả các cơ quan này liên tục tham gia nhào nặn tâm hồn của thế hệ trẻ Trung Quốc. Những người làm công việc này hãnh diện được gọi là ‘kĩ sư tâm hồn’.


Trong hoàn cảnh suy nghĩ và thông tin bị bưng bít như vậy, chính quyền trung ương dùng bộ máy độc quyền của mình cho công tác lâu dài là làm cho mọi người thấm nhuần các giá trị cộng sản đồng thời phê phán và bài trừ bất cứ giá trị nào khác. Bằng cách này, tâm trí của giới trẻ hình thành những cảm xúc rõ rệt và sâu sắc về đúng/sai và yêu/ghét, và những cảm xúc đó hóa thành niềm khao khát mãnh liệt muốn biến các lí tưởng cộng sản thành hiện thực. Lúc đó, bất cứ lời nói hay hành động nào phản đối hay đi chệch khỏi những lí tưởng này sẽ bị toàn thể mọi người nhất loạt đả kích.

Trong công tác tuyên truyền cho thấm nhuần các giá trị [cộng sản], cơ cấu tổ chức của Đảng thậm chí còn hữu hiệu hơn cả các viện nghiên cứu khoa học xã hội, cơ quan truyền thông, đoàn văn công và trường học. Mỗi cấp ủy Đảng có một bộ phận nòng cốt được hậu thuẫn của những đảng viên tích cực, cấp trên quản lí cấp dưới, cấp dưới trung thành với cấp trên. Những phong trào chính trị liên tiếp, hàng trăm hàng ngàn cuộc họp lớn nhỏ, những buổi lễ tuyên dương và các buổi đấu tố, các phần thưởng và hình phạt, tất thảy đều dùng để lôi kéo giới trẻ vào một quỹ đạo duy nhất. Tất cả những quan điểm khác với các quan điểm của Đảng đều bị tiêu diệt từ trong trứng nước.

Lúc đó tôi thật lòng tin rằng một nước Trung Quốc yếu kém và nghèo đói, từng bị bọn đế quốc áp bức trong gần 100 năm, có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường “Ba ngọn cờ hồng” và tiếp tục thực hiện lí tưởng cao nhất của nhân loại – đó là chủ nghĩa cộng sản. So với lí tưởng cao cả này, những khó khăn cỏn con tôi gặp phải thì nghĩa lí gì?

Tôi tin tưởng chủ trương “Ba ngọn cờ hồng” không chỉ vì u mê ngu dốt, mà còn vì áp lực chính trị kinh khủng đè nặng lên toàn xã hội, cái kiểu áp lực không cho ai nghi ngờ. Bản thân tôi chứng kiến nhiều biến cố đau lòng. Vạn Thượng Quân (萬尚君), học cùng trường nhưng trên tôi một lớp, mất cơ hội thi đại học vì anh ấy ca ngợi một bài diễn văn của Tito phê phán ‘phe xã hội chủ nghĩa’. Anh ấy từng đỗ đầu trong kì thi vào trường cấp hai của huyện trước tôi một năm, nên tôi biết rõ về anh. Anh là học sinh xuất sắc và chín chắn nhưng lại mất hết triển vọng cho tương lai ở tuổi mười bảy vì anh suy nghĩ quá độc lập. Trong một vụ khác xảy ra vào mùa Xuân năm 1959, có người phát hiện dòng chữ ‘Đả đảo Mao’ viết nguệch ngoạc trên vách ngăn cầu tiêu, và hoảng hốt đi báo lãnh đạo nhà trường. Trường vội vã báo lên Sở Công an, và Sở nhanh chóng phá án. Hóa ra một anh học trên tôi một lớp, đói quá hóa rồ, trong cơn tức giận đã viết dòng chữ đó. Tôi tận mắt thấy anh bị cùm tay và tống vào tù.

Những đợt phê bình không ngừng nghỉ của quần chúng cách mạng và những hình phạt khắc nghiệt mà ta chứng kiến dần dần tiêm vào ta cảm giác kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng đó không phải là cảm giác khiếp sợ chợt đến khi ta thấy rắn độc hay thú dữ, mà là nỗi ghê sợ ăn dần thấm dà vào thần kinh ta, vào máu ta, để rồi trở thành một phần trong bản năng sinh tồn của một con người. Người dân biết cách tránh hiểm họa chính trị như thể thấy cháy nhà thì ráng chạy thoát thân.

Ở một đất nước vốn từ xa xưa đã có tâm lí tôn vua kính chúa, ngay từ đầu người dân đã xem chính quyền trung ương là tiếng nói quyền uy, và Đảng dùng ‘sức mạnh diệu kỳ’ của chính quyền trung ương để khiến toàn dân thấm nhuần các giá trị thống nhất. Giới trẻ ít kinh nghiệm thật lòng tin tưởng những giáo điều này, còn cha mẹ của chúng tuy có nhiều kinh nghiệm hơn chút ít nhưng vì lòng tin mù quáng vào ‘sức mạnh diệu kỳ’ hoặc vì sợ chế độ nên cố gắng hết sức để ngăn không cho con cái bộc lộ bất cứ luồng tư tưởng nào khác với tư tưởng của chính quyền, buộc con cái phải phục tùng và vâng lời.

Năm 1960 tôi thi đỗ vào Viện Đại học Thanh Hoa. Ngay sau khi nhập học, tôi tham quan triển lãm “chống hữu phái” của trường và bắt đầu dấn thân vào con đường giáo dục lòng trung thành của tôi. Tiếp đến là hơn năm mươi ngày làm việc cực nhọc ở nông thôn để được giáo dục qua lao động và tập tranh luận biện hộ cho “Ba ngọn cờ hồng”. Dù bụng đói sôi sùng sục, chúng tôi cũng chưa bao giờ hoài nghi về “Ba ngọn cờ hồng”.

Trường đại học này từng nổi tiếng về tính cởi mở của giới trí thức, nhưng hóa ra lại hết sức hẹp hòi. Viện đại học Thanh Hoa từng có nhiều giáo sư lừng danh, nhưng tôi chỉ biết đến Văn Nhất Đa (聞一多) và Chu Tự Thanh (朱自清) từ những trước tác của Mao Trạch Đông, và chưa hề nghe đến Trần Dần Khác (陳寅恪) hay Ngô Mật (吳宓)[i]. Thư viện của trường có sách nhiều đáng nể, nhưng những cuốn duy nhất tôi có thể mượn được, ngoài những cuốn về khoa học kĩ thuật, đều liên quan đến chủ nghĩa cộng sản. Hai cựu sinh viên của trường, Dương Chấn Ninh (楊振宁) và Lý Chính Đạo (李政道), đã giành giải Nobel vật lí năm 1957,[ii] nhưng trường lại giữ kín chuyện này. Trong những buổi họp cán bộ Đoàn Thanh niên, trường thậm chí còn cảnh báo rằng hai người này là phần tử trí thức phản động, và chúng tôi không nên đi theo con đường ‘tinh hoa chủ nghĩa’ của họ.

Thời đại học, tôi vẫn rất ngoan ngoãn phục tùng, suốt thời gian đó tôi làm bí thư chi đoàn, rồi vào Đảng Cộng sản tháng 5 năm 1964. Thời đó, những thanh niên như tôi được xem là rất ngây thơ và chân chất, và quả đúng như vậy; đầu óc chúng tôi chỉ toàn những niềm tin do bộ máy tuyên truyền tiêm vào, ngoài ra chẳng có gì cả. Bằng cách này Đảng uốn nắn thế hệ đang lớn lên dưới chế độ mới thành những tông đồ trung thành. Nếu không có những sự kiện lớn xảy ra trong những thập niên đó, và nếu chế độ đó vẫn vững vàng tại vị, thế hệ chúng tôi có lẽ vẫn giữ những niềm tin đó trong suốt cuộc đời mình.

Điều dẫn đến thay đổi đầu tiên trong suy nghĩ của tôi là Cách mạng Văn hóa. Lúc khởi đầu Cách mạng Văn hóa, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ở Viện Đại học Thanh Hoa xuất hiện hàng ngàn “Đại tự báo” tố cáo cuộc sống hủ bại và tinh thần đê hèn của những nhà cách mạng lão thành mà tôi kính nể từ lâu. Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1966, tôi và nhiều bạn cùng lớp đi đến hơn 20 thành phố để ‘thiết lập quan hệ’, và ở những nơi đó chúng tôi cũng thấy nhiều “Đại tự báo” tiết lộ sự tham nhũng và đặc quyền của những cán bộ cấp cao. Tôi bắt đầu mất niềm tin vào hệ thống công quyền, và tôi chẳng còn tin những gì mình đọc trên báo. Tôi bắt đầu nghi ngờ những huyền thoại mà Đảng đã khắc ghi trong tâm trí tôi suốt những năm qua. Giống như hầu hết những người dân thường, tôi tham gia vào Cách mạng Văn hóa chỉ vì phản đối đặc quyền của các quan chức. Và chính trong thời kì Cách mạng Văn hóa, Trương Thể Học (張體學), Chủ tịch tỉnh Hồ Bắc, đã nói một điều làm tôi sửng sốt: trong ba năm khốn khó ở tỉnh Hồ Bắc, khoảng 300.000 người đã chết đói! Chỉ khi ấy tôi mới nhận ra rằng bi kịch của gia đình tôi không phải là đơn nhất.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được phân công làm việc tại Tân Hoa Xã. Các phóng viên Tân Hoa được gặp gỡ mọi tầng lớp xã hội mà những người khác chẳng bao giờ có thể tiếp xúc. Tôi không chỉ biết nhiều sự thật mâu thuẫn với những điều đã viết trong sách sử của Đảng, mà còn quan sát cuộc sống vất vả của giới công nhân thành thị. Là phóng viên Tân Hoa, tôi biết ‘tin tức’ đăng trên báo chí đã được chế tác ra sao, và tôi cũng biết các cơ quan truyền thông đã thành cái loa của nhà cầm quyền như thế nào.

Chủ trương cải cách và mở cửa đã nới lỏng đáng kể những ràng buộc trước đây bóp nghẹt giới trí thức của Trung Quốc, và một số sự thật lịch sử bắt đầu hé lộ. Trong quá khứ, Đảng đã dạy chúng tôi rằng trong cuộc kháng chiến chống Nhật, chỉ có người cộng sản đánh Nhật, còn Quốc dân Đảng hoàn toàn đầu hàng và cộng tác với địch. Giờ đây chúng tôi biết rằng khoảng hai trăm tướng lĩnh Quốc dân Đảng đã hi sinh tính mạng để duy trì công cuộc kháng chiến. Trước kia, Đảng đã dạy chúng tôi rằng thiên tai đã gây ra nạn đói ở một số ít vùng trên toàn quốc. Giờ đây chúng tôi biết rằng đó hoàn toàn là nhân họa khiến hàng chục triệu người đói đến chết. Tôi bắt đầu hiểu rằng lịch sử Đảng, và lịch sử một trăm năm gần đây của Trung Quốc, đã bị xuyên tạc và biên tập cho phù hợp với nhu cầu của Đảng.

Nhờ nhận ra mình đã bị lừa dối trong suốt thời gian dài như vậy, tôi bỗng có sức mạnh ghê gớm để rũ bỏ sự dối trá này. Chính quyền càng che giấu sự thật, tôi càng quyết tâm theo đuổi sự thật. Tôi bắt đầu đọc hàng tập tư liệu mới xuất bản, và trong công việc tường thuật tin tức tôi cố gắng tìm hiểu sự thật của quá khứ. Kinh nghiệm cá nhân của tôi về cuộc biến động ở Bắc Kinh năm 1989 (sự kiện Thiên An Môn – 天安門事件) đã thức tỉnh tôi đáng kể: máu của những sinh viên trẻ tuổi đó đã rửa sạch đầu óc của tôi, gột sạch tất cả những điều dối trá mà đầu óc tôi đã chấp nhận trong mấy chục năm trước. Trong vai trò nhà báo, tôi phấn đấu tường thuật và bàn luận đúng sự thật. Trong vai trò học giả, tôi cảm thấy có trách nhiệm phục hồi lịch sử trở lại với đúng bản chất của nó, và kể sự thật lịch sử cho những người đã từng bị lừa dối nghe.

Trong nỗ lực phá bỏ sự lừa dối và theo đuổi sự thật, tôi dần dần hiểu được bối cảnh xã hội lúc cha tôi mất. Dù mấy chục năm đã trôi qua, những hồi tưởng của tôi về nguyên nhân khiến cha tôi chết và những điều tôi suy nghĩ về ông ngày càng thấm thía. Đến thập niên 1980, dân làng ở quê tôi bắt đầu có xu hướng dựng bia mộ cho những người đã khuất. Những người làm cán bộ cao cấp ở nơi khác dựng bia mộ rất hoành tráng. Bạn bè và bà con họ hàng động viên tôi dựng bia mộ cho cha tôi. Tôi nghĩ dù mình chẳng phải là cán bộ cao cấp gì cho cam, tôi cũng sẽ dựng bia mộ cho cha còn hoành tráng hơn bất cứ bia mộ nào khác. Nhưng tôi nhớ đến số phận những bia mộ ở làng tôi vào năm 1958. Có bia mộ đã bị phá dỡ để dùng trong các công trình thủy lợi lớn, hoặc dùng làm nền cho các lò luyện kim trong chiến dịch sản xuất thép thời kì Đại Nhảy vọt; có bia mộ bị dùng để lót đường cho hàng ngàn người đi qua. Bia mộ càng uy nghi thì càng có khả năng bị phá bỏ. Bia mộ của cha tôi phải được dựng, nhưng không phải trên đất, mà là dựng trong tim. Bia mộ trong tim chẳng bao giờ bị phá dỡ hay bị thiên hạ giày xéo lên.

Tôi quả thực đã dựng bia mộ cho cha trong tim tôi. Cuốn sách này viết nên từ những chữ tôi khắc lên bia mộ đó. Ngay cả sau khi tôi nhắm mắt xuôi tay, cảm xúc chân thành được thể hiện bằng những từ ngữ này sẽ vẫn lưu lại trong các thư viện trên khắp thế giới.

II.

Tấn bi kịch xảy ra trong gia đình tôi cũng đồng thời ập xuống hơn mười triệu gia đình trên khắp đất nước Trung Quốc.

Trong những chương nói về tổn thất dân số, người đọc sẽ thấy tôi tham khảo nhiều loại tài liệu từ Trung Quốc và từ nước ngoài để khẳng định rằng khoảng 36 triệu người đã chết vì đói ở Trung Quốc từ năm 1958 đến năm 1962. Vì nạn đói cũng làm giảm tỉ lệ sinh, trong những năm đó số trẻ ra đời ước tính thấp hơn 40 triệu so với con số lẽ ra đã có trong hoàn cảnh bình thường. Tính chung có tổng cộng 76 triệu mạng sống bị mất đi do nạn đói trong bốn năm đó.

Ở các vùng Tín Dương (信陽, tỉnh Hà Nam), Thông Vị (通渭, tỉnh Cam Túc), Phụng Dương (鳳陽, tỉnh An Huy), Hào Châu (亳州, tỉnh An Huy), La Định (羅定, tỉnh Quảng Đông), Vô Vi (無為, tỉnh An Huy), Quán Đào (館陶, tỉnh Hà Bắc), Tế Ninh (濟宁, tỉnh Sơn Đông) và nhiều vùng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, gần như gia đình nào cũng có ít nhất một người chết vì đói, và không ít gia đình bị xóa sổ hoàn toàn. Trong một số trường hợp, cả làng không còn một người nào. Cảnh tượng này giống như Mao Trạch Đông tả trong một bài thơ của ông: ‘Ngàn làng mạc mênh mông cỏ dại, người muôn người chết dần chết dà; Vạn ngôi nhà chỉ còn bóng ma lởn vởn hát ca’.[iii]

Hãy khoan nói đến 40 triệu người chưa bao giờ ra đời, làm sao ta có thể hình dung nổi 36 triệu người đang sống lại bị bỏ đói đến chết? Con số này tương đương 450 lần số người chết vì bom nguyên tử thả xuống Nagasaki vào ngày 9 tháng 8 năm 1945.[iv] Như thể có kẻ cho thả 450 quả bom nguyên tử xuống các làng mạc Trung Quốc. Con số này gấp 150 lần số người chết trong trận động đất Đường Sơn (唐山, tỉnh Hà Bắc) vào ngày 28 tháng 7 năm 1976.[v] Con số này lớn hơn số người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Khoảng 10 triệu người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hay trung bình hai triệu người mỗi năm từ năm 1914 đến 1918. Chỉ trong năm 1960, 15 triệu người chết đói ở Trung Quốc. Mức độ tàn khốc của nạn đói này ở Trung Quốc thậm chí vượt xa cảnh khốc liệt của Chiến tranh Thế giới thứ hai với 40-50 triệu người thiệt mạng.[vi] Những ca tử vong trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trải ra trên khắp Châu Âu, Châu Á và Châu Phi trong thời gian bảy hay tám năm; còn 36 triệu nạn nhân của nạn đói ở Trung Quốc chết trong thời gian chỉ ba hay bốn năm, và ở đa số vùng, số tử vong tập trung chỉ trong vòng sáu tháng.

Nạn đói thời kì 1958-1961 khiến tất cả những nạn đói khác trong lịch sử Trung Quốc trở nên mờ nhạt. Nạn đói trầm trọng nhất trước kia được ghi lại trong sử Trung Quốc diễn ra trong những năm 1928–1930, trong thời gian đó một thiên tai đã ảnh hưởng đến 22 tỉnh. Nạn đói đó phá vỡ mọi kỉ lục có trước, nhưng tổng cộng chỉ có 10 triệu người chết. Trong 17 năm từ 1920 đến 1936, nạn đói do mất mùa cướp đi sinh mạng của 18,36 triệu người.[vii] Lý Văn Hải (李文海) và những đồng tác giả khác, trong các cuốn Những nạn đói gần đây ở Trung Quốc và 10 nạn đói lớn nhất gần đây của Trung Quốc,[viii] thực sự tin rằng con số đó bị phóng đại, và số người chết trong nạn đói trầm trọng nhất thời kì 1928–1930 không vượt quá 6 triệu, trong khi 140.000 người chết do những trận lụt sông Dương Tử năm 1931. Số người chết đói từ năm 1958 đến 1962 gấp nhiều lần so với số người chết trong bất kì thảm họa nào trước kia ở Trung Quốc.

Không một tiếng kêu khóc thống thiết khẩn cầu trời đất, không còn đám tang tẩm liệm đàng hoàng, không có tiếng pháo đì đùng và tiền âm phủ để tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng, không còn ai để thương cảm và đau buồn, không một giọt nước mắt, cũng chẳng còn sửng sốt hay hoảng loạn. Hàng chục triệu người rời bỏ trần gian trong một không khí hờ hững câm lặng.

Một số làng dùng xe tải chở xác đi chôn trong những nấm mồ tập thể ở ngoại vi. Ở những làng mà người sống không đủ sức mai táng người chết cho đàng hoàng, chân tay của người chết trồi lên mặt đất. Ở một số nơi, người chết nằm ven đường khi họ gục xuống trong lúc đang vô vọng đi tìm thức ăn. Không ít người bị bỏ lại tại nhà, để rồi lũ chuột gặm nhấm mũi và tai họ.

Mùa Thu năm 1999, tôi đến Cao Du phường (高油坊) ở làng Phòng Hồ (防胡鄉) thuộc huyện Hoài Tân, thành phố Tín Dương, để tìm hiểu thêm về tình hình ở đây. Một ông lão trong làng, Dư Văn Hải (餘文海), tuổi trạc thất tuần, dẫn tôi ra một đồng lúa ở rìa làng. Cụ vừa chỉ đám cây mọc trên đồng vừa nói, ‘Chỗ mấy cái cây kia từng là hố chôn ít nhất 100 xác người’. Nếu cụ Dư với tư cách là nhân chứng của những sự kiện đó không nhắc chuyện này, có lẽ đã chẳng ai biết đến bi kịch kinh khủng chôn vùi dưới đám mạ xanh mơn mởn và những cái cây dáng vẻ oai nghiêm kia.

Cơn đói dằn vặt con người trước khi chết còn tàn khốc hơn chính cái chết. Lúa gạo ngũ cốc không còn một hạt, cỏ cây dại đã ăn sạch, thậm chí vỏ cây cũng tước ra ăn, rồi chuột, phân chim, và cả bông nhồi trong chăn, tất thảy đều cho vào mồm hòng nhét đầy bao tử. Trên những đồng đất sét cao lĩnh,[ix] những người đói quay quắt vừa đào đất sét vừa nhai trệu trạo. Xác của những người chết, của những nạn nhân từ các làng khác đến lánh nạn đói, và thậm chí của chính người thân trong gia đình, trở thành thức ăn cho những kẻ đang tuyệt vọng.

Chuyện ăn thịt người không còn là cá biệt. Sách sử xưa thuật lại nhiều trường hợp các gia đình đổi con cho nhau để ăn trong những nạn đói trầm trọng, còn trong thời kì Nạn đói 1958-1961 này, một số gia đình chỉ còn biết ăn con của chính mình. Ở một số huyện ở Tín Dương, ở Thông Vị, tỉnh Cam Túc, và ở tỉnh Tứ Xuyên, người sống sót kể lại nhiều chuyện ăn thịt người kinh hoàng. Tôi đích thân gặp nhiều người từng ăn thịt người và nghe họ mô tả mùi vị của nó.

Qua phân tích những bằng chứng đáng tin cậy mà tôi thu thập được, có thể thấy có hàng ngàn vụ ăn thịt người trên khắp Trung Quốc trong thời gian đó.[x] Tôi đã nêu chi tiết những trường hợp bi thảm này trong các chương liên quan đến từng tỉnh cụ thể.

Đây là thảm kịch vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Trong một thời kì có khí hậu bình thường, không có chiến tranh hay dịch bệnh mà lại có đến hàng chục triệu người bị đói đến chết và thậm chí phải ăn cả thịt người, thì quả là chưa từng có trong lịch sử thế giới.

Trong thời kì ấy và nhiều thập niên sau đó, sách báo và các văn bản chính thức soạn ở Trung Quốc tích cực tránh né và che giấu thảm kịch khủng khiếp này. Cán bộ ở mọi cấp chính quyền đều không hé môi về chủ đề người dân đói dần đến chết. Cán bộ ở mọi cấp chính quyền giả mạo số liệu thống kê về số người chết và cắt giảm số liệu bằng mọi phương tiện có trong tầm tay. Để vĩnh viễn che giấu chuyện này, chính quyền đã ra lệnh hủy toàn bộ dữ liệu ở tất cả những tỉnh báo cáo dân số giảm đi hàng chục triệu người.

Những người tị nạn lánh được sang Hương Cảng và thân nhân của Hoa kiều đã xoay xở loan truyền được chút ít tin tức về thảm họa này, và dựa trên thông tin này, một số cơ quan truyền thông phương Tây đã đưa tin về nạn đói ở Trung Quốc. Những bản tin này tủn mủn, vụn vặt, nhưng chính phủ Trung Quốc đã nhất quyết gọi đó là ‘những trò công kích ác ý’ và ‘những tin đồn vu khống’.

Nhằm đảo ngược dư luận quốc tế, chính phủ Trung Quốc đã mời một số ‘người bạn của Trung Quốc’ đến thăm và tận mắt chứng kiến, với hi vọng họ sẽ viết bài ‘làm sáng tỏ các dữ kiện và sự thật’. Chính phủ Trung Quốc đã chuẩn bị hết sức thấu đáo cho mỗi chuyến viếng thăm này, tỉ mỉ dàn xếp từng chặng trong lộ trình của khách mời, bao gồm những nơi họ sẽ đến thăm, những người họ có thể tiếp xúc, và những điều sẽ nói khi tiếp khách. Trong những cuộc viếng thăm này, các vị khách nước ngoài bị tách biệt hẳn với dân thường, và một số nơi thậm chí còn trưng ra những người được ăn uống đầy đủ và áo quần chỉnh tề.

Phương Thực (方實), lúc đó là Phó trưởng ban đối nội của Tân Hoa Xã, có lần được giao nhiệm vụ tháp tùng các vị khách nước ngoài trong chuyến tham quan tỉnh An Huy. Về già, ở tuổi 85, ông kể với tôi cách Tỉnh ủy An Huy lừa dối khách nước ngoài như thế nào (được mô tả ở phần sau trong cuốn sách này). Những vị khách bị lừa gạt này lúc về nước đăng những bài báo dựa trên ‘những điều mắt thấy tai nghe’ của họ, ca ngợi ‘những thành tựu vĩ đại’ của Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc lúc đó không bị nạn đói và người dân Trung Quốc đủ ăn đủ mặc.

Nhà báo Anh Felix Greene, trong tác phẩm nổi tiếng của ông về Trung Quốc in năm 1965, Tấm màn ngu tối (A Curtain of Ignorance), viết rằng trong năm 1960 ông đã đi khắp Trung Quốc trong thời kì mà ngũ cốc được chia khẩu phần rất eo hẹp, nhưng chẳng hề thấy dấu hiệu nào của nạn đói đại trà. Nhà báo Mỹ Edgar Snow (tên ông đã trở nên quen thuộc ở Trung Quốc) là một trong những người bị Trung Quốc lừa gạt rồi truyền bá sự dối trá đó sang người khác. Tân Hoa Xã dịch tất cả những bài báo nước ngoài này sang tiếng Trung như “hàng xuất khẩu bán ở thị trường nội địa’ để phổ biến trong Tin tức tham khảo (參考消息) và Tư liệu tham khảo (参考資料) nhằm làm công cụ thống nhất dư luận và đàn áp những quan điểm khác trong nước.

Khoảng 20 năm sau những sự kiện này, một số học giả nước ngoài và người Hoa sống bên ngoài đại lục bắt đầu nghiên cứu và báo cáo về thảm họa vô tiền khoáng hậu này. Những nghiên cứu này có giá trị cao, nhưng vì các tác giả không ở trong nước, họ không tiếp cận được những tư liệu nội bộ trong các văn khố lưu trữ chính thức của Trung Quốc, nên kết quả nghiên cứu của họ chưa đầy đủ.

Từ đầu thập niên 1990, tôi tận dụng những chuyến công tác của mình để tham khảo những tư liệu liên quan trên khắp đất nước và phỏng vấn những người đã sống sót qua nạn đói đó. Tôi đi từ miền Tây Bắc xuống Tây Nam, từ Hoa Bắc sang Hoa Đông, từ vùng Đông Bắc xuống Hoa Nam, tham khảo văn khố lưu trữ ở hơn chục tỉnh và phỏng vấn hơn một trăm nhân chứng. Sau mười năm nỗ lực, tôi đã tích lũy văn bản tổng cộng hàng triệu từ và mười cuốn sổ ghi chép các cuộc phỏng vấn. Bằng cách này tôi có được hiểu biết toàn diện và sâu sắc về những hoàn cảnh thực sự của Nạn đói 1958-1961.

Đối mặt với những hậu quả trầm trọng của Nạn đói 1958-1961, Lưu Thiếu Kỳ có lần nói với Mao Trạch Đông, ‘Lịch sử sẽ ghi lại vai trò của đồng chí và tôi trong chuyện quá nhiều người dân bị đói, và nạn ăn thịt người cũng sẽ được khắc ghi!’.[xi] Mùa Xuân năm 1962, trong một lần nói chuyện với Đặng Lực Quần (鄧力群), Lưu Thiếu Kỳ một lần nữa lại nhắc rằng ‘những cái chết vì đói sẽ được ghi lại trong sử sách’. Tuy nhiên, sau hơn bốn mươi năm, không có cuốn sách nào như vậy về Nạn đói 1958-1961 được xuất bản ở Trung Hoa đại lục. Điều đó không chỉ đáng tiếc từ góc độ lịch sử mà còn xúc phạm đến kí ức về hàng chục triệu nạn nhân vô tội. Tôi đã dành nhiều năm trời để hoàn tất cuốn sách này. Cuốn sách này có thể xem như bia mộ dành cho hàng chục triệu linh hồn đói khát đó, và tôi hi vọng nó sẽ phần nào an ủi cho họ.

Lưu Thiếu Kỳ cũng từng nói rằng thảm họa này nên được khắc bia tưởng niệm làm di tích ‘truyền lại cho con cháu chúng ta để một lỗi lầm như vậy sẽ không bao giờ tái diễn’. Phải, nên dựng một đài tưởng niệm lớn cho một sự kiện lịch sử trọng đại như vậy như một lời cảnh báo cho các thế hệ tương lai. Tôi tin rằng chỉ một cuốn sách của tôi sẽ không đủ để khắc ghi sâu trong tâm trí bài học lịch sử này. Đã có những đài tưởng niệm cho nạn nhân trận động đất Đường Sơn, cho Hiroshima và Nagasaki, và cho các nạn nhân của Chiến tranh Thế giới thứ hai trên khắp châu Âu. Trung Quốc cũng nên dựng những đài tưởng niệm các nạn nhân của Nạn đói 1958-1961 ở những nơi tập trung số người chết nhiều nhất, ví dụ như Tín Dương, Thông Vị, La Định, Hào Châu, Phụng Dương, Tuân Nghĩa (遵義, tỉnh Quý Châu), Kim Sa (金沙, tỉnh Quý Châu), huyện Bì (郫縣, Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), huyện Vinh (榮縣, tỉnh Tứ Xuyên), Phong Đô (豐都, Trùng Khánh, Tứ Xuyên), Đại Ấp (大邑, Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), Quán Đào, Tế Ninh, v.v… và ở tỉnh lị của những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đó là Tứ Xuyên, An Huy, Quý Châu, Hà Nam, Sơn Đông, Cam Túc và Thanh Hải, cũng như ở quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh. Những đài tưởng niệm này sẽ không chỉ tưởng nhớ người chết mà còn để nhắc nhở đến tai họa này, từ đó có thể rút ra bài học để ngăn chặn sự tái diễn của một thảm kịch như vậy trong tương lai.

III.

Dù đất canh tác giảm đi và dân số gia tăng 200 triệu trong thập niên 1980 và 1990, nguồn cung cấp ngũ cốc của Trung Quốc nay dồi dào hơn bao giờ hết; giới trẻ không biết đói là gì, và nông dân thậm chí khó bán hết thu hoạch vụ mùa của mình. Tất thảy những thành quả này đều nhờ những thay đổi về hệ thống nông nghiệp của Trung Quốc kể từ khi Công xã Nhân dân được thay thế bằng hệ thống trả công gắn với sản lượng, và điều đó chứng tỏ ảnh hưởng quan trọng của một hệ thống đối với nạn đói.

Amartya Sen, người đoạt giải Nobel [Kinh tế] năm 1998 nhờ những nghiên cứu của ông về nạn đói, đã viết:

Trong lịch sử khủng khiếp của những nạn đói trên thế giới, chưa có một nạn đói lớn nào từng xảy ra ở một nước độc lập và dân chủ với nền báo chí tương đối tự do. Bất kể tìm ở đâu, chúng ta không tìm được ngoại lệ cho quy tắc này: những nạn đói gần đây ở Ethiopia, Somalia, hay những chế độ độc tài khác; những nạn đói ở Liên Xô trong thập niên 1930; nạn đói 1958-1961 của Trung Quốc với thất bại của “Đại nhảy vọt”; hay thậm chí xưa hơn nữa, những nạn đói ở Ái Nhĩ Lan hay Ấn Độ dưới ách đô hộ của ngoại bang. Dù kinh tế về nhiều mặt khá hơn Ấn Độ, Trung Quốc (khác với Ấn Độ) vẫn để xảy ra nạn đói, thực ra là nạn đói lớn nhất được ghi nhận trong lịch sử thế giới: gần 30 triệu người chết trong nạn đói thời kì 1958–1961, trong khi những chính sách sai lầm của chính phủ vẫn không được sửa đổi trong suốt ba năm đó. Những chính sách này không bị chỉ trích vì không có đảng đối lập trong quốc hội, không có nền báo chí tự do, và không có bầu cử đa đảng. Quả thực chính tình trạng thiếu phản biện đã để cho những chính sách hết sức sai lầm này tiếp diễn mặc dù chúng giết chết hàng triệu người mỗi năm.[xii]
Thực vậy, nguyên nhân cơ bản khiến hàng chục triệu người ở Trung Quốc chết đói là chế độ cực quyền (totalitarianism – cũng còn gọi là chế độ toàn trị). Dĩ nhiên tôi không nói rằng chế độ cực quyền tất yếu sẽ dẫn đến những tai họa trên quy mô lớn như vậy, nhưng trong chế độ cực quyền những chính sách vô cùng khiếm khuyết sẽ dễ xuất hiện hơn, và sau này muốn sửa đổi những chính sách đó sẽ khó hơn. Một điều quan trọng hơn nữa là trong hệ thống này, chính phủ độc quyền thâu tóm mọi sản phẩm và nguồn duy trì sự sống, để rồi một khi thảm họa ập đến, người dân thường không có phương tiện tự cứu mình và chỉ còn ngồi chờ chết.

Trong lĩnh vực chính trị và tư tưởng, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa áp dụng chế độ chuyên chính vô sản toàn diện, đàn áp không thương tiếc bất cứ người bất đồng chính kiến nào. Về mặt kinh tế, nước này thực hiện một nền kinh tế kế hoạch tập trung hóa cao độ trong đó chính phủ nắm độc quyền với tất cả mọi nguồn lực kinh tế. Về mặt ý thức hệ, nước này thực hiện độc quyền nghiêm ngặt về thảo luận và suy nghĩ, và không cho phép bày tỏ những quan điểm khác biệt. Bản thân Mao Trạch Đông mô tả đặc trưng của hệ thống chính trị này là ‘Marx cộng với Tần Thủy Hoàng’. Hệ thống này kết hợp kiểu chuyên quyền tập trung cao độ của Liên Xô với kiểu chuyên chế mà hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc đã áp đặt hơn 2.000 năm trước, và đã dần dần trở nên chặt chẽ hơn qua những triều đại kế tiếp. Kết quả là sự lạm dụng quyền lực hành pháp trầm trọng hơn sự lạm dụng của Liên Xô, hay của bất cứ hoàng đế nào của Trung Quốc. Đó là một hệ thống chuyên chính đúng nghĩa.

Chế độ chuyên chế Trung Quốc bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công nguyên, và đã lưu lại nhiều dấu tích lịch sử trong quá trình hơn hai nghìn năm. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa hệ thống này một cách hiệu quả, và mặc dù sự cai trị của Đảng chỉ là đoạn kết của chế độ chuyên chế phong kiến Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc có được vũ khí, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc và những phương pháp tổ chức hiện đại, nên Đảng càng nắm quyền kiểm soát vừa rộng vừa sâu đối với xã hội, hệ thống công quyền, và người dân với mức độ chặt chẽ hơn và chi li hơn mà chế độ chuyên quyền phong kiến trước kia chưa hề đạt đến. Cái thòng lọng này thắt chặt mọi cơ chế hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và ý thức hệ của xã hội và mọi khía cạnh đời sống thường nhật. Quyền lực cưỡng bức của chế độ độc tài thâm nhập vào mọi ngóc ngách của thậm chí những làng mạc hẻo lánh nhất, chạm đến từng thành viên trong từng gia đình, và len lỏi vào tâm can của từng người. Gọi chế độ này là ‘cực quyền’ nghĩa là nói đến sự bành trướng của quyền lực hành pháp đến mức cùng cực.

(Còn 1 kì)

Nguồn: Tạp chí “Trung Hoa đương đại” (2010), số 19 (66), tháng 9, trang 755-776). Bản tiếng Anh.

Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra; © 2012 Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ
___________________________
Lời cảm tạ: Chúng tôi, những người dịch, xin chân thành cám ơn những người bạn thân đã cổ vũ và giúp đỡ rất nhiều, chẳng hạn như tìm giúp cho bản tiếng Hán, bớt thời gian quý báu của mình đọc trước bản dịch và đóng góp nhiều ý kiến xác đáng.

Lưu ý về chú thích:
- Chú thích của tác giả sẽ viết tắt là TG.

- Chú thích của người dịch bản tiếng Anh sẽ viết tắt là TA.

- Chú thích của người dịch bản tiếng Việt sẽ viết tắt TV.

- Tên riêng nào (chỉ còn có hai cái) chúng tôi chưa tra được nguyên văn tiếng Hán, đành phỏng đoán sát nhất và đánh dấu hoa thị (*).

________________________________________
[i] TA: Văn Nhất Đa (1899–1946), người phê phán chính phủ Quốc dân Đảng, đã chết dưới tay Quốc dân Đảng. Chu Tự Thanh (1898–1948), một người chống đế quốc, đã chết vì đói sau khi từ chối thực phẩm viện trợ của Mỹ. Ngược lại, cả Trần Dần Khác (1890–1969) và Ngô Mật (1894–1978), là những học giả văn hóa cổ truyền được đào tạo ở nước ngoài và cố giữ khoảng cách với Đảng Cộng sản. Họ Ngô bị tra tấn trong Cách mạng Văn hóa.

No comments:

Post a Comment