Thị trường và đạo đức
Tác
giả: TOM G. PALMER
Dịch
giả: Phạm Nguyên Trường
Hiệu
đính: Đinh Tuấn Minh
Năm
xuất bản: 2014
Hai
mươi ngộ nhận về thị trường (Kì 2)
10. Thị trường dẫn
tới những chu kì kinh tế đầy tai họa, thí dụ như cuộc Đại khủng hoảng
Dựa
vào các lực lượng thị trường có thể dẫn tới những chu kì kinh tế “bùng nổ - đổ
vỡ”. Sự tự tin quá đáng của các nhà đầu tư dẫn tới sự bùng nổ về đầu tư, sau đó
nhất định sẽ là giai đoạn thu hẹp sản xuất, thất nghiệp và tình hình kinh tế sa
sút.
Có người cho rằng chu kì
kinh tế “bùng nổ - đổ vỡ” là do thị trường mà ra. Nhưng bằng chứng lại cho thấy
rằng sản xuất thừa không phải là tính chất của thị trường: khi có nhiều hàng
hóa và dịch vụ được đưa ra thì giá cả sẽ điều chỉnh và kết quả là thịnh vượng
chứ không phải là “đổ vỡ”. Nếu một ngành
công nghiệp nào đó phát triển quá mức, không thể duy trì được lợi nhuận hợp lí trên
thị trường thì cơ chế tự điều chỉnh sẽ hoạt động, lợi nhuận sụt giảm sẽ là tín
hiệu để người ta hướng các nguồn lực sang những lĩnh vực khác. Không có lí do để
khẳng định rằng việc điều chỉnh như thế diễn ra trong tất cả các ngành công
nghiệp; thực ra, đấy là khẳng định chứa đầy mâu thuẫn (vì nếu vốn đầu tư được
rút ra khỏi tất cả các ngành, rồi lại được tái phân bố vào tất cả các ngành thì
vốn đầu tư không bị rút đi đâu hết).
Tom Palmer in Athens, November 2014
Tuy nhiên, có thể xảy ra những
giai đoạn thất nghiệp trên diện rộng và kéo dài, đấy là khi chính phủ can thiệp
vào hệ thống tiền tệ, làm biến dạng hệ thống giá cả; chính sách sai lầm thường
đi kèm với việc tài trợ cho những ngành đáng lẽ phải thu hẹp sản xuất và đi kèm
với việc kiểm soát giá cả và tiền lương làm cho thị trường không thể tự điều chỉnh
được, những chính sách này chỉ làm cho nạn thất nghiệp kéo dài thêm mà thôi. Đấy
là sự kiện đã từng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng kéo dài từ năm 1929 đến hết
Thế chiến II. Các nhà kinh tế học (trong đó có Milton Friedman, giải Nobel về
kinh tế) đã chứng minh rằng khủng hoảng là do Cục dự trữ liên bang Mĩ, trong
khi theo đuổi các mục tiêu chính trị, đã bất ngờ cắt giảm, không đưa vào lưu
thông một lượng tiền rất lớn. Sau đó, chính sách bảo hộ làm cho suy thoái càng
lún sâu thêm và lan ra toàn cầu; suy thoái kéo dài chủ yếu là do những chính
sách như Luật khôi phục kinh tế quốc dân (National Recovery Act), chương trình
nhằm giữ cho giá lương thực ở mức cao (bằng cách tiêu hủy một lượng lớn lương
thực và hạn chế nguồn cung), và những chính sách nằm trong chương trình “Chính
sách kinh tế mới” (New Deal), không để cho các lực lượng của thị trường điều chỉnh
những hậu quả tai hại của chính sách kinh tế sai lầm của chính phủ. Những vụ đổ
vỡ trong thời gian gần đây, ví dụ như vụ khủng hoảng tài chính ở châu Á vào năm
1997, là do chính sách tiền tệ và ngoại hối thiếu thận trọng đã làm biến dạng
những tín hiệu của thị trường, trước khi những tín hiệu này đến được với các
nhà đầu tư. Các lực lượng của thị trường đã sửa chữa những khiếm khuyết trong
chính sách của các chính phủ, nhưng quá trình này cũng gặp một số khó khăn.
Song khó khăn không phải là do thuốc chữa bệnh, mà là do chính sách tiền tệ và
ngoại hối sai lầm của các chính phủ, gây ra sự mất ổn định của dòng vốn chảy
vào những nước này.
Khi các cơ quan quản lí
trong lĩnh vực tiền tệ áp dụng chính sách tiền tệ khôn ngoan hơn thì những chu
kì như thế có xu hướng giảm. Kết hợp với việc sử dụng nhiều hơn nữa quá trình
điều tiết của thị trường sẽ dẫn đến kết quả là thời gian giữa các chu kì sẽ dài
ra, mức độ gay gắt của chu kì kinh tế giảm đi; sự cải thiện điều kiện kinh tế sẽ
diễn ra một cách liên tục và dài hạn tại những nước theo đuổi chính sách thương
mại tự do, ràng buộc về ngân sách và chế độ pháp quyền.
11. Dựa hoàn toàn vào thị trường là chính sách xuẩn ngốc chẳng khác gì
dựa hoàn toàn vào chủ nghĩa xã hội: nền kinh tế hỗn hợp là tốt nhất.
Phần
đông người ta nghĩ rằng cho tất cả trứng vào một rổ là thiếu khôn ngoan. Các
nhà đầu tư khôn ngoan bao giờ cũng tìm cách đa dạng hóa danh mục đầu tư và như
vậy, “gói chính sách đa dạng hóa”, nghĩa là hỗn hợp giữa chủ nghĩa xã hội và thị
trường là việc làm hợp lí vậy.
Những nhà đầu tư khôn ngoan
– đấy là nói những người không thể tiếp xúc được với thông in nội bộ - thường
đa dạng hóa danh mục đầu tư để tránh rủi ro. Nếu một cổ phiếu nào đó hạ mà cổ
phiếu khác tăng giá thì lợi nhuận sẽ bù đắp được thiệt hại. Trong dài hạn, danh
mục đầu tư được đa dạng hóa một cách đúng đắn sẽ mang lại lợi nhuận cho nhà đầu
tư. Nhưng chính sách thì không thể như thế được. Một số chính sách luôn luôn gặp
phải thất bại, trong khi một số khác thì bao giờ cũng thành công. Sẽ là sai lầm
khi “danh mục đầu tư” bao gồm cổ phiếu của những công ty biết chắc là sẽ thua lỗ
và những công ty biết chắc là sẽ thành công; người ta phải đa dạng hóa danh mục
đầu tư là vì không biết là công ty nào sẽ có lời, còn công ty nào thì không.
Những công trình nghiên cứu
các dữ liệu kinh tế hằng năm do Viện Fraser (Fraser Institute) ở Canada và những
tổ chức quốc tế khác tiến hành trong hàng chục năm chứng tỏ xu hướng rõ ràng rằng
dựa vào lực lượng thị trường dẫn tới mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn,
kinh tế phát triển nhanh hơn, sống thọ hơn, tỉ lệ trẻ em tỉ vong thấp hơn, tỉ lệ
lao động trẻ em giảm, nhiều người dân được tiếp xúc với nước sạch và dịch vụ y
tế hơn, nhiều người được tiếp xúc với những
tiện ích của đời sống hiện đại, trong đó có môi trường trong lành và chính quyền
tử tế hơn, ví dụ như mức độ tham nhũng giảm, còn trách nhiệm giải trình mang
tính dân chủ lại gia tăng.
Hơn nữa, ở đây không thể có
cái gọi là “trung đạo”. Sự can thiệp vào thị trường của nhà nước thường làm cho
nó méo mó, thậm chí dẫn tới khủng hoảng; điều này, đến lượt nó, lại được coi là
lí do để nhà nước can thiệp thêm nữa. Ví dụ, “gói chính sách” bao gồm chính
sách tiền tệ thiếu khôn ngoan dẫn tới tốc độ cung tiền lớn hơn là tốc độ phát
triển của nền kinh tế, kết quả là giá cả leo thang. Lịch sử đã cho thấy rằng
các chính trị gia thường phản ứng không phải bằng cách từ bỏ những chính sách
thiếu khôn ngoan của họ mà họ lại phản ứng bằng cách phê phán nền kinh tế phát
triển “quá nóng” hay lên án “những kẻ đầu cơ không có tinh thần yêu nước” và
sau đó thì kiểm soát giá cả. Khi giá cả không được điều tiết bằng quan hệ cung
cầu (trong trường hợp này, lượng tiền cung gia tăng sẽ làm cho giá trị đồng tiền
– thể hiện qua giá hàng hóa – giảm), kết quả là hàng hóa và dịch vụ thiếu hụt
vì có nhiều người muốn mua những món
hàng có số lượng giới hạn vì giá cả được giữ ở mức thấp hơn là giá mà người sản
xuất muốn bán. Ngoài ra, thiếu vắng thị trường tự do sẽ đưa người dân tới thị
trường chợ đen, buộc họ phải hối lộ các quan chức và những hiện tượng phạm pháp
khác. Hàng hóa khan hiếm và tệ tham nhũng lại làm cho quá trình thiết lập nhà
nước toàn trị diễn ra nhanh chóng hơn. Như vậy là, “gói chính sách” trong đó có
cả những chính sách được khẳng định là tồi tệ sẽ làm suy yếu nền kinh tế, tạo
ra nạn tham nhũng, thậm chí đe dọa cả chế độ dân chủ hợp hiến nữa.
Phê
phán từ quan điểm kết hợp giữa kinh tế và đạo đức
12. Thị
trường tạo ra nhiều bất bình đẳng hơn là những quá trình phi thị trường
Về
bản chất, thị trường tưởng thưởng cho những người có khả năng đáp ứng lựa chọn
của người tiêu dùng và vì khả năng của người ta là khác nhau nên thu nhập cũng
khác nhau. Còn chủ nghĩa xã hội, về bản chất, là xã hội công bằng, vì vậy mỗi
bước tiến về phía chủ nghĩa xã hội là một bước tiến về phía công bằng.
Cần phải nhớ rằng sở hữu là
một khái niệm pháp lí, còn của cải lại là khái niệm kinh tế. Hai khái niệm này
hay bị lẫn lộn, nhưng chúng ta cần phải phân biệt rõ. Những tiến trình diễn ra
trên thương trường làm cho tài sản liên tục được tái phân bố trên diện rộng.
Ngược lại, luật lệ của thị trường tư do cấm tiến hành tái phân phối sở hữu một
cách miễn cưỡng (khi các cá nhân làm việc đó thì bị gọi là “ăn cắp”), thị trường
tự do đòi hỏi rằng sở hữu phải được xác định một cách dứt khoát và phải được
pháp luật bảo vệ. Thị trường có thể tái phân phối tài sản, thậm chí ngay cả
trong những trường hợp khi mà sở hữu vẫn nằm trong tay những người chủ cũ. Mỗi
khi giá trị của tài sản (mà người chủ có quyền sở hữu) thay đổi thì của cải của
người chủ khối tài sản đó cũng thay đổi theo. Khối tài sản mà hôm qua có giá
600 Euro, hôm nay có thể chỉ còn 400 Euro thôi. Đây chính là sự tái phân phối
khối lượng tài sản trị giá 200 Euro thông qua thị trường, mặc dù không có sự
tái phân phối sở hữu. Như vậy, thị trường thường xuyên làm công việc tái phân
phối tài sản và quá trình tái phân phối lại khuyến khích chủ sở hữu tìm cách tối
đa hóa giá trị tài sản của họ hoặc chuyền tài sản đó cho những người muốn mua.
Quá trình tái phân phối diễn ra liên tục - do ước muốn tối đa hóa giá trị - là
sự chuyển dịch tài sản trên bình diện rộng lớn mà đa số những người làm chính
trị không thể nào tưởng tượng được. Ngược lại, trong khi thị trường tái phân phối
của cải thì chính trị gia lại chỉ có có thể tái phân phối sở hữu mà thôi. Nhưng
quá trình này lại làm cho quyền sở hữu không còn được bảo vệ như cũ nữa, sở hữu
mất giá và của cải cũng không còn. Quá trình tái phân phối càng khó dự đoán thì
sự mất mát của cải do sự đe dọa của quá trình tái phân phối sở hữu gây ra sẽ
càng lớn hơn.
Bình đẳng giữa người với người
có thể trở thành hiện thực trong nhiều lĩnh vực, nhưng không phải trong tất cả
các lĩnh vực. Ví dụ, mọi người có thể bình đẳng trước pháp luật, nhưng ngay cả
trong trường hợp này, không phải mọi người đều có ảnh hưởng như nhau đối với
chính trị, vì trong số những người sử dụng quyền bình đẳng về tự do ngôn luận lại
có những người nói hay hơn và thuyết phục hơn những người khác, nghĩa là họ gây
được nhiều ảnh hưởng hơn những người kia. Tương tự, quyền bình đẳng trong việc
cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có thể không dẫn tới thu nhập giống
nhau vì một số người làm việc tích cực hơn và nhiều hơn (họ muốn có thu nhập chứ
không cần nghỉ ngơi), hoặc có những tài khéo mà người khác sẵn sàng trả giá
cao. Mặt khác, cố gắng dùng bạo lực nhằm đạt cho bằng được bình đẳng về ảnh hưởng
hoặc bình đẳng về thu nhập sẽ dẫn tới việc một số người sử dụng nhiều quyền lực
hoặc ảnh hưởng chính trị hơn những người khác. Nhằm thực hiện một mô hình phân
bố thu nhập cụ thể nào đó thì một người hay một nhóm người phải có đầu óc của
“thánh nhân”, có thể nhìn thấy chỗ này thiếu hụt cái gì, chỗ kia thừa cái gì và
lầy từ chỗ này chuyển sang chỗ kia. Vì quyền lực nhằm tạo ra thu nhập như nhau
cho tất cả mọi người được tập trung vào tay một số người – như ở Liên Xô, quốc
gia tự nhận là bình đẳng – những người có quyền lực chính trị và pháp lí vượt
trội đó sẽ muốn sử dụng quyền lực nhằm giành được thu nhập cao hơn hoặc được
quyền tiếp cận với các nguồn lực. Cả lí thuyết lẫn thực tế đều cho thấy rằng những
cố gắng mang tính tự giác nhằm tạo ra mức thu nhập như nhau hay thu nhập “công
bằng” hoặc cách thức phân bố thu nhập nào khác với cách thức phân bố mà trật tự
tự phát của thị trường có thể tạo ra đều là những cố gắng vô ích, vì một lí do
đơn giản là những người nắm quyền tái phân phối sẽ sử dụng quyền lực nhằm tự tư
tự lợi, và như vậy là họ đã biến bất bình đẳng về quyền lực chính trị thành những
kiểu bất bình đẳng khác, như tài sản, danh dự..v.v.. Đấy chắc chắn là kinh nghiệm
của các nước tự nhận là cộng sản và đấy cũng là con đường mà Venezuela đang đi.
Ở nước này toàn bộ quyền lực đều tập trung vào tay Hugo Chavez, với lí do là
ông ta cần sự bất bình đẳng khủng khiếp về quyền lực như thế là để tạo ra bình
đẳng về của cải giữa các công dân.
Số liệu trong báo cáo phát
hành năm 2006 của tổ chức gọi là Tự do kinh tế thế giới (Economic Freedom of
the World) cho thấy mức độ tự do kinh tế không có ảnh hưởng nhiều tới sự bất
bình đẳng về thu nhập (các nước được chia thành 4 nhóm, từ ít tự do nhất cho đến
tự do nhất, 10% số người nghèo nhất nhận được trung bình từ 2,2% đến 2,5% tổng
như nhập quốc dân), nhưng mức độ tự do kinh tế lại có mối liên hệ trức tiếp với
thu nhập trung bình của 10% những người có thu nhập thấp nhất (các nước cũng được
chia thành 4 nhóm, từ ít tự do nhất cho đến tự do nhất, thu nhập trung bình của
10% người nghèo nhất là 826, 1186, 2322 và 6519 dollar). Như vậy, cơ chế thị
trường dường như không có ảnh hưởng nhiều tới phân bố thu nhập, nhưng thị trường
làm cho thu nhập của người nghèo tăng lên và có lẽ nhiều người trong số họ ủng
hộ kinh tế thị trường.
13.
Thị trường không thể đáp ứng được một số nhu cầu căn bản của con người, như
chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giáo dục và lương thực
Hàng
hóa phải được phân phối phù hợp với tính chất của chúng. Thị trường phân phối
hàng hóa theo khả năng thanh toán của người tiêu dùng, nhưng chăm sóc sức khỏe,
nhà ở, học hành, lương thực và những nhu cầu căn bản khác của con người – vì là
nhu cầu – cho nên phải được phân bố theo nhu cầu chứ không phải theo khả năng
thanh toán của người dân.
Nếu thị trường đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu của con người – đấy là nói so với những hệ thống khác, chẳng hạn
như chủ nghĩa xã hội, cơ chế thị trường làm cho nhiều người được hưởng mức sống
cao hơn thì cơ chế thị trường cũng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người. Như
đã nói ở trên, thu nhập của những người nghèo nhất gia tăng nhanh chóng cùng với
mức độ tự do kinh tế, nghĩa là người nghèo có nhiều nguồn lực để đáp ứng nhu cầu
của họ hơn trước. (Dĩ nhiên là không phải nhu cầu nào cũng liên quan với thu nhập,
tình bạn và tình yêu chân thành không phải là những nhu cầu như thế. Nhưng cũng
chẳng có lí do nào để nói rằng có thể dùng biện pháp ép buộc nhằm phân phối những
nhu cầu như thế, chứ chưa nói phân phối một cách “công bằng”).
Hơn thế nữa, nếu “nhu cầu”
và “khả năng” là những khái niệm khá mù mờ thì mức độ “sẵn sàng” thanh toán lại
là khái niệm có thể đo lường được một cách dễ dàng hơn. Khi người ta dùng tiền
túi của mình để trả cho những món hàng hóa và dịch vụ nào đó là họ nói cho ta
biết họ đánh giá những món hàng và dịch vụ này cao hơn những món hàng và dịch vụ
khác đến mức nào. Lương thực - dĩ nhiên là nhu cầu thiết yếu hơn là học tập hay
chăm sóc sức khỏe – được thị trường cung cấp một cách khá hiệu quả. Trên thực tế,
trong những nước mà quyền sở hữu bị bãi bỏ và nhà nước làm nhiệm vụ phân phối
thay cho thị trường lại thường xảy ra nạn đói, thậm chí có cả những trường hợp
ăn thịt người nữa. Thị trường đáp ứng được hầu hết các loại hàng hóa mà con người
cần, kể cả những nhu cầu cơ bản, tốt hơn là những cơ chế khác.
Đáp ứng nhu cầu đòi hỏi phải
sử dụng những nguồn lực hạn chế, nghĩa là phải lựa chọn về cách phân phối
chúng. Khi thị trường không được phép hoạt động thì người ta phải sử dụng những
cơ chế và tiêu chí khác trong việc phân phối những nguồn lực hạn chế, ví dụ như
phân phối một cách quan liêu, ảnh hưởng chính trị, thành viên của đảng cầm quyền,
quan hệ với tổng thống hoặc với những người có quyền lực mạnh, hay đút lót và
những hình thức tham nhũng khác.
14.
Thị trường hoạt động trên nguyên tắc chỉ những người phù hợp nhất mới sống sót
nổi
Giống
như quy luật chọn lọc tự nhiên, thị trường nghĩa là chỉ những người phù hợp nhất
mới sống sót được mà thôi. Những người không thể đáp ứng được tiêu chuẩn của thị
trường sẽ bị đẩy ra bên lề và bị đối thủ đè bẹp.
Áp dụng những nguyên tắc tiến
hóa, ví dụ như nguyên tắc “thích nghi tốt nhất mới sống sót”, vào lĩnh vực
nghiên cứu sinh vật và quan hệ xã hội giữa người với người dẫn đến những sự lầm
lẫn, đấy là nói nếu chúng ta không làm rõ cái gì sẽ sống sót trong từng trường
hợp cụ thể. Trong sinh vật học, đấy là các cá thể động vật và khả năng tự tái tạo
của nó. Con thỏ bị con mèo ăn thịt vì chạy chậm sẽ không còn khả năng sinh con
đẻ cái nữa. Những con chạy nhanh nhất sẽ là những con có khả năng đó. Nhưng khi
áp dụng trong việc nghiên cứu sự tiến hóa của xã hội thì khả năng sống sót
không còn là cá thể nữa mà là những hình thức tương tác, ví dụ như phong tục, định
chế hay công ty. Một công ty bị đẩy ra khỏi thương trường, nó “chết”, cũng có
nghĩa là một hình thức hợp tác xã hội cụ thể đã “chết”, nhưng như thế không có
nghĩa là những người hoạt động trong doanh nghiệp – nhà đầu tư, chủ sở hữu, các
nhà quản lí, công nhân..v..v.. – cũng chết. Đấy chỉ là một hình thức hợp tác
kém hiệu quả được thay thế bằng hình thức hợp tác hiệu quả hơn mà thôi. Cạnh
tranh trên thương trường không phải là cạnh tranh trong rừng rú. Trong rừng,
các con thú ăn thịt hoặc là đuổi nhau đi khỏi một vùng lãnh thổ nào đó. Còn
thương trường là các doanh nhân và các công ty cạnh tranh với nhau để giành quyền
cộng tác với người tiêu dùng, cộng tác với các doanh nhân và các công ty khác.
Cạnh tranh trên thương trường không phải là cạnh tranh để giành quyền sống, đấy
là cạnh tranh để giành quyền hợp tác.
15. Thị
trường hạ thấp văn học và nghệ thuật
Văn
học và nghệ thuật là để đáp ứng cho những nhu cầu cao thượng của tâm hồn con
người, vì vậy mà không thể mua bán như quả cà chua hay cái nút áo được. Giao
nghệ thuật cho thị trường có khác gì mang tôn giáo ra chợ bán. Hơn nữa, mở rộng
cửa cho sự cạnh tranh trên thương trường quốc tế sẽ làm giảm giá trị của văn học
và nghệ thuật, những hình thức văn hóa truyền thống sẽ bị bỏ rơi trong cuộc săn
lùng những đồng dollar hay Euro đầy quyền lực.
Đa phần các tác phẩm nghệ
thuật đã và đang được làm ra để bán. Nói cho ngay, phần lớn lịch sử nghệ thuật
là lịch sử của sự sáng tạo được thực hiện nhờ thị trường nhằm đáp ứng trước sự
xuất hiện của các ngành công nghệ mới, triết lí mới, thị hiếu mới và những hình
thức hoạt động trí tuệ mới. Văn học, nghệ thuật và thị trường đã liên hệ mật
thiết với nhau trong suốt nhiều thế kỉ. Các nhạc sĩ đòi khán giả trả thù lao
cho họ, giống hệt như người bán rau đòi tiền mấy quả cà chua hay người thợ may
đòi tiền công đính mấy cái nút áo. Trên thực tế, việc hình thành thị trường rộng
rãi hơn cho âm nhạc, phim ảnh và những hình thức nghệ thuật khác trên băng từ,
trên cassettes, CD, DVD và bây giờ là iTunes, mp3 files, tạo điều kiện cho nhiều
người được tiếp xúc với nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau hơn, còn người nghệ
sĩ thì có điều kiện thử nghiệm, sáng tạo ra nhiều hình thức nghệ thuật lai ghép
hơn và kiếm được nhiều thu nhập hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên là đa số các
tác phẩm nghệ thuật được sáng tác ra trong một năm nào đó không thể đứng vững
trước thử thách của thời gian. Những người kết án nghệ thuật đương đại là “rác
rưởi” là những người có quan niệm sai lầm khi họ so sánh với những tác phẩm vĩ
đại trong quá khứ, những tác phẩm mà họ so sánh là những tác phẩm tuyệt vời nhất,
những tác phẩm đã trải qua cuộc sàng lọc kéo dài hàng trăm năm, với hàng loạt
tác phẩm được sản xuất trong một năm trước đó. Nếu họ đưa vào so sánh cả những
tác phẩm không đứng vững trước thử thách của thời gian và không được người đời
nhắc tới nữa thì kết quả có lẽ sẽ hoàn toàn khác. Những tác phẩm vượt qua được
sự sàng lọc của thị trường chính là những kiệt tác dành cho các thế hệ tương
lai.
So sánh toàn bộ sản phẩm nghệ
thuật đương đại với những tác phẩm tuyệt vời nhất trong số những tác phẩm tuyệt
vời nhất của những thế kỉ đã qua không phải là sai lầm duy nhất khi người ta
đánh giá về thị trường nghệ thuật. Những nhà quan sát từ các nước giàu có khi đến
thăm những nước nghèo thường có một sai lầm nữa, đấy là họ lẫn lộn giữa sự
nghèo khó của đất nước nghèo với nền văn hóa của những nước đó. Khi những người
tham quan giàu có nhìn thấy dân chúng trong những nước nghèo sử dụng điện thoại
cầm tay hay máy tính xách tay họ liền phàn nàn là đất nước đã đánh mất một phần
“bản sắc”, không còn được như lần trước nữa. Khi dân chúng giàu lên nhờ những
tương tác trên thương trường – do quá trình tự do hóa hay toàn cầu hóa đem lại
– ví dụ như điện thoại cầm tay, những người chống toàn cầu hóa từ các nước giàu
có liền phàn nàn rằng người ta đã ăn cướp nền văn hóa của các nước nghèo. Nhưng
tại sao người ta lại đánh đồng văn hóa với tình trạng nghèo khó? Người Nhật đã
từ nghèo thành giàu, nhưng thật khó mà khẳng định rằng kết quả là họ đã không
còn là người Nhật như xưa nữa. Trên thực tế, nhờ giàu có mà họ có thể truyền bá
nền văn hóa Nhật Bản ra khắp thế giới. Ở Ấn Độ, thu nhập gia tăng được ngành
công nghiệp thời trang đáp ứng lại bằng cách quay về cách ăn mặc truyền thống, ví
dụ như sari, hiện đại hóa nó và cải biến nó theo những tiêu chí thẩm mĩ hiện đại.
Một đất nước nhỏ bé như Iceland cũng tìm cách bảo vệ nền văn hóa phong phú, bảo
vệ những nhà hát và ngành công nghiệp điện ảnh của mình vì thu nhập đầu người của
họ cao, họ có thể dành một phần của cải để bảo vệ và phát triển nền văn hóa của
mình.
Cuối cùng, mặc dù niềm tin
tôn giáo không phải là thứ có thể đem ra “mua bán”, xã hội tự do để cho tôn
giáo hoạt động trên cùng những nguyên tắc: bình đẳng và tự do lựa chọn – đấy
cũng là những nguyên tắc căn bản của thị trường tự do. Thánh đường Thiên chúa
giáo, nhà thờ Hồi giáo và chùa chiền của các tôn giáo khác cạnh tranh với nhau
trong việc tìm kiếm con chiên, phật tử và những hình thức ủng hộ khác nhau. Chẳng
có gì ngạc nhiên khi xảy ra hiện tượng là nước nào (ở châu Âu) chính thức ủng hộ
nhà thờ thì số người tham gia đi lễ có xu hướng giảm, trong khi ở những quốc
gia mà nhà nước không ra mặt ủng hộ thì số người tham gia lại tăng. Nguyên nhân
không phải là khó hiểu: những nhà thờ phải cạnh tranh để giành giật con chiên
và sự ủng hộ phải làm việc cho cộng đoàn – cả trong lĩnh vực tôn giáo, tinh thần
lẫn cộng đồng – và khi họ chú ý đến nhu cầu của các thành viên thì các thành
viên càng thích tham gia và quan tâm tới tôn giáo hơn. Đấy là lí do vì sao năm
2000 nhà thờ Thiên chúa giáo ở Thụy Điển, được nhà nước bảo trợ, đã vận động để
được tách ra khỏi nhà nước: trở thành một phần của bộ máy quan liêu, nhà thờ đã
đánh mất liên hệ với cộng đoàn và trên thực tế, đang chết dần.
Giữa thị trường, văn hóa và
nghệ thuật không hề tồn tại bất kì mâu thuẫn nào. Trao đổi trên thương trường
không phải là sáng tạo nghệ thuật hay làm phong phú thêm trong lĩnh vực văn
hóa, nhưng nó là phương tiện tốt cho việc thúc đẩy cả văn hóa lẫn nghệ thuật.
16. Thị
trường chỉ có lợi cho người giàu và người có tài
Giàu
càng giàu thêm, nghèo càng nghèo mạt. Nếu bạn muốn có thật nhiều tiền thì ban đầu
bạn phải có nhiều tiền. Trong cuộc chạy đua tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường,
người nào nặng túi thì sẽ về đích trước.
Thị trường không phải là cuộc
đua với người thắng và kẻ thua. Hai bên tự nguyện trao đổi vì họ nghĩ là sẽ thắng
chứ không bao giờ lại nghĩ là mình thua. Khác với cuộc chạy đua, trong quá
trình trao đổi, nếu một bên thắng thì không có nghĩa là bên kia thua. Cả hai
bên đều có lợi. Vấn đề không phải là “thắng” đối phương mà là kiếm được thu nhập
thông qua trao đổi tự nguyện, theo tinh thần hợp tác: muốn thuyết phục người
khác tham gia trao đổi, bạn phải đưa ra cho người ta lợi ích nào đó.
Sinh ra trong gia đình giàu
có dĩ nhiên là tốt – nhưng dân chúng trong các nước giàu có có thể không đánh
giá đúng những thuận lợi của nó bằng những người dân các nước nghèo đang tìm
cách di cư sang những nước giàu – người dân các nước nghèo thường đánh giá đúng
tính ưu việt của cuộc sống trong các nước giàu hơn là những người sinh ta tại đấy.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường tự do, nơi người mua và người bán có quyền tự
do ra vào và có quyền bình đẳng như nhau, những người ngày hôm qua đáp ứng được
yêu cầu của thị trường thì ngày mai có thể không còn làm được như thế nữa. Đấy
là điều mà các nhà xã hội học gọi là “sự luân chuyển của giới tinh hoa” và đấy
cũng là một trong những tính chất của xã hội tự do; không như giới tinh hoa
tĩnh tại, dựa trên quyền lực quân sự, đẳng cấp, bộ lạc hay quan hệ gia tộc, giới
tinh hoa trong xã hội tự do - trong đó có giới tinh hoa trong lĩnh vực nghệ thuật,
văn học, khoa học và kinh tế - luôn mở rộng cửa chào đón những thành viên mới
và hiếm khi xảy ra hiện tượng cha truyền con nối: nhiều con em các gia đình thuộc
giới thượng lưu rơi xuống tầng lớp trung lưu. Trong các nước giàu có có rất nhiều
người thành đạt vốn xuất thân từ những nước, nơi quan hệ thị trường bị cản trở
hoặc gây khó dễ bởi đặc quyền đặc lợi dành cho những kẻ có thế lực, bởi chủ
nghĩa bảo hộ, bởi nạn độc quyền, nơi mà họ hầu như không có cơ may thành công
trên thương trường. Họ ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng họ đã thành đạt trong
những xã hội với nền kinh tế có xu hướng tự do hơn, ví dụ như Mĩ, Anh hoặc
Canada. Sự khác nhau giữa xã hội nơi họ đi và xã hội nơi họ đến là gì? Đấy là
quyền tự do cạnh tranh trên thương trường. Thật đáng buồn là chủ nghĩa trọng thương
và những sự cấm đoán ở quê nhà đã buộc họ phải tha phương cầu thực; nếu không,
họ đã có thể ở lại quê hương và dùng khả năng kinh doanh của mình làm giàu cho
người thân và bạn bè.
Nói chung, trong các nước với
nền kinh tế thị trường tự do, những người có nhiều tài sản nhất là những người
đáp ứng được ước muốn của quảng đại quần chúng chứ không phải những người chỉ tìm
cách đáp ứng như cầu của những người giàu. Những công ty lớn như Ford Motors,
Sony và Walmart, tức là những công ty có khối tài sản cực kì lớn là những công
ty đáp ứng được thị hiếu của tầng lớp trung lưu và hạ lưu chứ không phải là đáp
ứng thị hiếu của những người giàu có nhất.
Đặc điểm của thị trường tự
do là “sự luân chuyển của giới tinh hoa”, không ai được bảo đảm là sẽ được ở lại
mãi trong giới tinh hoa và cũng không có ai bị cấm cản, không được tham gia giới
này chỉ vì không được sinh ra trong một gia đình quyền qúy. Câu “Giàu càng giàu
thêm, nghèo càng nghèo mạt” phải được sử dụng không phải cho thị trường tự do
mà cho chủ nghĩa trọng thương trong lĩnh vực kinh tế và ô dù trong lĩnh vực
chính trị, nghĩa là áp dụng cho những hệ thống, trong đó muốn làm giàu thì phải
tìm cách liên kết với quyền lực. Trên thương trường, ta thường thấy người giàu
là những người làm tốt công việc của mình (nhưng có thể họ không phải là “giàu”
theo tiêu chuẩn của xã hội đó), còn người nghèo thì ngày càng giàu lên, nhiều
người trở thành trung lưu hoặc tầng lớp trên nữa. Lúc nào thì cũng có 20% dân
chúng có thu nhập thấp nhất và 20% có thu nhập cao nhất.
Nhưng điều đó không có nghĩa
là thu nhập của những người này vẫn giữ nguyên như thế mãi (vì khi kinh tế phát
triển thì thu nhập của tất cả các tầng lớp dân cư đều gia tăng) hay thành phần
của các nhóm đó không bao giờ thay đổi. Các nhóm đó cũng giống như những căn
phòng trong khách sạn hay ghế trên xe buýt vậy: lúc nào cũng có người, nhưng
không phải cùng một người. Nghiên cứu trong một thời gian tương đối dài phân bố
thu nhập trong các nước có nền kinh tế thị trường cho thấy thu nhập có sự biến
động rất lớn: thu nhập của khá nhiều người lên xuống một cách thất thường.
Nhưng quan trọng nhất là trong các nước có nền kinh tế thị trường phát đạt, thu
nhập của tất cả mọi người, từ nghèo nhất đến giàu nhất, đều gia tăng.
17. Tự
do hóa và để mặc cho thị trường điều tiết, giá cả bao giờ cũng tăng
Thực
tế là để mặc cho thị trường điều tiết mà không có sự kiểm soát của chính phủ thì
giá cả sẽ leo thang, nghĩa là sức mua của người dân sẽ giảm. Giá cả trên thị
trường tự do đồng nghĩa với đắt đỏ.
Khi được tự do hóa, giá những
mặt hàng bị nhà nước kiểm soát nhằm giữ cho thấp hơn giá trị trường sẽ có xu hướng
tăng, ít nhất là trong ngắn hạn. Nhưng đấy không phải là toàn bộ câu chuyện.
Vì, thứ nhất, khi được tự do hóa, giá những mặt hàng được giữ cho cao hơn giá
thị trường sẽ giảm. Hơn nữa, khi xem xét giá cả bằng tiền do nhà nước kiểm
soát, cần phải nhớ rằng người mua không chỉ phải trả tiền cho món hàng mà họ
mua được. Nếu hàng khan hiếm, phải xếp hàng thì thời gian chờ đợi cũng là cái
giá mà người mua phải trả. (Tuy nhiên, cần phải nói rằng thời gian chờ đợi là mất
mát ròng, vì xếp hàng không khuyến khích người sản xuất làm ra nhiều sản phẩm
hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng). Nếu các quan chức tham nhũng còn
nhúng tay vào thì còn phải cộng số tiền được trao dưới gầm bàn vào số tiền được
trả tại quầy hàng. Tổng số tiền được trả một cách hợp pháp với số tiền đút lót
bất hợp pháp và thời gian chờ đợi trong khi xếp hàng thường là cao hơn giá cả
mà người dân đồng ý mua trên thị trường. Hơn nữa, tiền chi cho việc đút lót và
thời gian chờ đợi trong khi xếp hàng là những mất mát vô ích – người tiêu dùng
bị mất, nhưng người sản xuất lại chẳng được gì, nghĩa là chúng không khuyến
khích người bán sản xuất nhiều hơn nhằm khắc phục thiếu hụt do việc kiểm soát
giả cả của nhà nước gây ra.
Trong khi trong ngắn hạn,
khi được tự do hóa, giá cả bằng tiền có thể tăng, nhưng sản xuất sẽ tăng, nạn
tham nhũng và mất mát phi sản xuất sẽ giảm, kết quả là chi phí thực tế trong
toàn xã hội – thể hiện bằng thời gian lao động, tức là loại hàng hóa của yếu của
xã hội – sẽ giảm. Thời gian mà một người phải bỏ ra để kiếm được một cái bánh
mì vào năm 1800 chiếm phần lớn thời gian làm việc trong ngày của người đó,
nhưng tiền lương càng ngày càng tăng, trong các nước giàu có hiện nay, để kiếm
tiền mua một chiếc bánh mì người ta chỉ cần làm trong vài phút. Nếu tính bằng
thời gian lao động thì giá tất cả các loại hàng hóa đều giảm đi một cách đáng kể.
Chỉ có một ngoại lệ: sức lao động. Khi năng suất lao động và tiền lương gia
tăng thì giá nhân công gia tăng, đấy là lí do vì sao những người có thu nhập
tương đối khiêm tốn ở các nước nghèo cũng có thể có người giúp việc, trong khi
ngay cả những cự phú ở các nước nghèo cũng mua máy giặt và máy rửa bát vì như
thế rẻ hơn là thuê người giúp việc. Thị trường làm cho mọi loại hàng hóa đều rẻ
đi khi đo bằng sức lao động, tức là lao động có giá tăng khi so với những loại
hàng hóa khác.
18.
Quá trình tư nhân hóa và thiết lập quan hệ thị trường ở các nước hậu cộng sản
song hành với nạn tham nhũng, nghĩa là thị trường là tham nhũng.
Những
chiến dịch tư nhân hóa được thực hiện từ trên xuống hầu như bao giờ cũng có
gian lận. Đây là một trò chơi bẩn thỉu, kết quả là những tài sản tốt nhất của
nhà nước được trao cho những kẻ cơ hội, tham nhũng và tàn nhẫn nhất. Tư nhân
hóa và thiết lập quan hệ thị trường là trò chơi bẩn thỉu: chỉ là một vụ ăn cắp
tài sản của nhân dân mà thôi.
Chiến dịch tư nhân hóa trong
các nước hậu-xã hội chủ nghĩa khác nhau thu được những kết quả khác nhau. Một số
nước đã thiết lập được trật tự thị trường. Trong khi một số nước khác lại trở về
với chế độ độc tài và quá trình tư nhân hóa dẫn tới kết quả là một tầng lớp
tinh hoa mới đã nắm được quyền kiểm soát cả doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh
nghiệp tư nhân, thí dụ như hệ thống “Soliviki” mới xuất hiện ở Nga (Siloviki là
từ tiếng Nga chỉ những người làm việc trong các ngành như quân đội, cảnh sát… Tổng
thống Putin và các cộng sự của ông ta xuất thân từ những thành phần như thế -
ND). Nhưng những bàn tay bẩn thỉu đã lợi dụng được quá trình tư nhân hóa gian lận
là do sự thiếu vắng các định chế thị trường, nhất là thiếu vắng chế độ pháp quyền,
nền tảng của kinh tế thị trường. Tạo ra những định chế như thế là công việc
không đơn giản và cũng không có một “quy trình” có thể áp dụng cho mọi trường hợp
trên đời. Nhưng dù có một số trường hợp thất bại, tức là không xây dựng được một
cách đầy đủ các thiết chế của chế độ pháp quyền thì đấy cũng không phải là lí
do để không tiến hành; ngay cả ở Nga, mặc dù quá trình tư nhân hóa có rất nhiều
sai lầm, nhưng đấy vẫn là tiến bộ đáng kể so với chế độ độc tài độc đảng, một
chế độ đã bị sụp đổ do những hiện tượng bất công và thiếu hiệu quả mà nó gây
ra.
Tư nhân hóa mà không có hệ
thống pháp luật hoạt động có hiệu quả thì cũng không tạo ra được nền kinh tế thị
trường. Thị trường phải dựa trên nền tảng của luật pháp, tư nhân hóa thất bại
không có nghĩa là thị trường thất bại. Đấy là do nhà nước không xây dựng được nền
tảng pháp lí cho kinh tế thị trường.
Ủng
hộ một cách thái quá
19. Tất
cả mọi quan hệ giữa người với người đều có thể quy giản thành quan hệ thị trường.
Mọi
hành động đều là do người ta muốn tối đa hóa lợi ích mà ra. Ngay cả việc giúp đỡ
người khác cũng là nhằm kiếm lợi cho mình, nếu không thì người ta không làm.
Tình bạn và tình yêu cũng chỉ là trao đổi dịch vụ đôi bên đều có lợi, chẳng
khác gì đổi vài đồng dollar lấy mấy quả cà chua vậy. Hơn nữa, mọi hình thức
tương tác của con người đều có thể được lí giải bằng những thuật ngữ của thị
trường, trong đó có chính trị: lá phiếu được trao đổi để lấy những lời hứa hẹn,
thậm chí tội ác: nạn nhân và tội phạm trao đổi: “đưa tiền đây hay muốn mất mạng?”.
Cố gắng nhằm qui giản tất cả
những hành động của con người vào một động cơ duy nhất là xuyên tạc kinh nghiệm
của con người. Những người làm cha mẹ không hề nghĩ đến quyền lợi của mình khi hi
sinh cho con hay lao vào cứu chúng khi chúng gặp nguy hiểm. Khi người ta cầu
nguyện để được cứu rỗi hay được khai sáng về mặt tâm linh thì động cơ của họ
cũng khác hẳn với động cơ mua sắm quần áo. Chỉ có một điểm chung: đấy là những
hành động có chủ đích, những hành động hướng tới mục đích nào đó. Nhưng như thế
không có nghĩa là tất cả những mục tiêu mà chúng ta hướng tới đều có thể qui giản
thành những chỉ số có thể so sánh được của cùng một thực thể. Chúng ta có những
động cơ và mục tiêu khác nhau: khi đi vào cửa hàng mua chiếc búa, khi đi vào viện
bảo tàng nghệ thuật và khi đưa nôi một đứa trẻ vừa mới sinh, đấy là chúng ta
đang thực hiện những mục tiêu khác nhau và không phải lúc nào cũng có thể thể
hiện bằng những khái niệm mua bán trên thương trường.
Các khái niệm và công cụ trí
tuệ có thể được sử dụng để tìm hiều và soi sáng những hình thức tương tác khác
nhau. Ví dụ, các khái niệm của môn kinh tế học được sử dụng để tìm hiểu quá
trình trao đổi trên thương trường, nhưng cũng có thể được sử dụng cho môn chính
trị học, thậm chí để tìm hiểu cả tôn giáo nữa. Có thể tính toán được giả cả và
lợi ích của các lựa chọn chính trị, hệt như lựa chọn trên thương trường vậy; có
thể so sánh các đảng chính trị hay tập đoàn mafia với các công ty trên thương
trường. Nhưng việc áp dụng cùng những khái niệm không có nghĩa là những tình huống
mà người ta phải lựa chọn là tương đương về mặt pháp lí hoặc đạo đức. Không thể
đưa một tên cướp - kẻ đề nghị bạn đưa tiền cho hắn hay là mất mạng - lên cùng một
hàng với doanh nhân – người đề nghị bạn lựa chọn giữa việc giữ tiền hay dùng số
tiền đó để mua món hàng của ông ta – vì một lí do đơn giản là tên cướp đề nghị
bạn lựa chọn giữa hai thứ bạn có toàn quyền định đoạt, cả về mặt đạo đức lẫn
pháp lí; trong khi doanh nhân lại đề nghị bạn lựa chọn giữa hai thứ, một thứ
thuộc quyền định đoạt của ông ta, còn thứ kia thuộc quyền định đoạt của bạn.
Trong cả hai trường hợp, ta đều phải lựa chọn và hành động một cách có chủ
đích; nhưng trong trường hợp đầu, tên cướp buộc ta phải lựa chọn, còn trường hợp
sau là doanh nhân đề nghị ta lựa chọn; trường hợp đầu làm ta mất bớt quyền định
đoạt, còn trường hợp sau làm cho ta thêm quyền định đoạt, bởi vì khi người ta đề
nghị trao cho ta một cái gì đó mà ta không có bất kể thứ đó có thể có giá trị
cao hơn hay thấp hơn cái ta đang có. Không phải tất cả các quan hệ giữa người với
người đều có thể được quy giản thành quan hệ trên thương trường, trước hết phải
kể đến những “trao đổi” đi ngược lai ý chí của một trong hai bên, đấy là những
vụ “trao đổi” có tính chất khác hẳn, vì chúng làm mất cơ hội và tài sản chứ
không phải là cơ hội làm gia tăng tài sản.
20. Thị trường có thể giải quyết được mọi vấn đề
Chính
phủ kém cỏi đến nỗi chẳng làm được việc gì ra hồn. Bài học quan trọng nhất của
thị trường là chúng ta phải hạn chế vai trò của chính phủ vì đơn giản là chính
phủ đối chọi với thị trường. Vai trò của chính phủ càng giảm thì vai trò của thị
trường càng tăng.
Những người công nhận vai
trò của thị trường cũng cần công nhận rằng tại phần lớn các nước trên thế giới,
mà cũng có thể là tại tất cả các nước, vấn đề chính không chỉ là chính phủ làm
quá nhiều mà còn là chính phủ làm quá ít nữa. Loại thứ nhất – tức là những việc
chính phủ không được làm, bao gồm: A) những hành động nói chung là không ai được
làm, thí dụ như “thanh lọc sắc tộc”, xâm chiếm đất đai của người khác và tạo ra
đặc quyền đặc lợi cho giới tinh hoa; và B) những hành động có thể và phải được
làm thông qua tương tác tự nguyện giữa các công ty và doanh nhân trên thương
trường, ví dụ như chế tạo ô tô, xuất bản báo chí, kinh doanh khách sạn. Chính
phủ phải ngưng ngay những việc như thế. Nhưng khi chính phủ chấm dứt, không làm
những việc mà họ không phải làm thì họ lại phải bắt tay vào làm một số việc mà
trên thực tế sẽ góp phần thúc đẩy công lí và tạo ra nền tảng cho việc giải quyết
các vấn đề bằng tương tác tự nguyện. Thực tế là hai vấn đề vừa nói có mối quan
hệ với nhau: các chính phủ giành nguồn lực cho việc quản lí nhà máy sản xuất ô
tô hay xuất bản báo chí, hoặc tệ hơn nữa – dành nguồn lực cho việc tịch thu tài
sản của một số người và tạo đặc quyền đặc lợi cho một số ít người - vừa làm mất mát vừa hạn chế khả năng trong việc
cung cấp những dịch vụ thực sự có giá trị mà chỉ có chính phủ mới có thể làm. Ví
dụ, chính phủ trong các nước nghèo thường không bảo đảm được tính chất pháp lí
của quyền sở hữu, đấy là chưa nói đến việc ngăn chặn những vụ xâm hại quyền sở
hữu. Hệ thống pháp luật thường kém hiệu quả, phức tạp và chưa có sự độc lập và
không thiên vị, là những đặc điểm cần thiết cho việc thúc đẩy quá trình trao đổi
tự nguyện.
Muốn cho thị trường có thể bảo
đảm được khuôn khổ cho sự hợp tác xã hội thì luật pháp phải xác định rõ ràng
quyền sở hữu và hợp đồng. Các chính phủ không cung cấp được những tiện ích công
cộng này là những chính phủ cản trở sự xuất hiện của thị trường. Chính phủ sử dụng
quyền lực để thiết lập công lí và luật pháp là chính phủ phục vụ lợi ích công cộng.
Chính phủ không thể yếu, nhưng quyền lực của nó phải bị giới hạn và được xác định
một cách rõ ràng về mặt pháp lí. Chính phủ hạn chế và chính phủ yếu là hai việc
khác nhau. Chính phủ yếu nhưng có quyền lực không hạn chế có thể trở thành cực
kì nguy hiểm vì họ có thể làm những việc mà họ không được phép làm, nhưng họ
cũng không đủ quyền lực để buộc người ta phải tuân thủ luật lệ và không thể bảo
đảm cho người dân quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu, tức là bảo đảm những
điều kiện cần thiết cho tự do và trao đổi tự do trên thương trường. Thị trường
tự do không phải là không có quản lí. Thị trường tự do chỉ tồn tại khi có một
chính phủ giới hạn nhưng hiệu quả, một chính phủ xác định một cách rõ ràng và
thực thi một cách không thiên vị qui tắc đạo đức xã hội.
Quan trọng là cần phải nhớ rằng
có nhiều vấn đề cần phải giải quyết bằng những hành động tự giác, thị trường
không thể giải quyết được mọi vấn đề. Ông Ronald Coase, giải Nobel kinh tế học,
trong một công trình viết về thị trường và công ty, giải thích rằng các công ty
thường phải dựa vào việc lập kế hoạch và điều phối các hoạt động một cách có ý
thức nhằm đạt được mục tiêu, chứ không phải lúc nào cũng dựa vào trao đổi trên
thương trường vì trao đổi trên thương trường đòi hỏi chi phí cao. Ví dụ, thương
thảo để kí kết hợp đồng là việc làm tốn kém, cho nên để giảm chi phí người ta
thường sử dụng các hợp đồng dài hạn. Các công ty thường sử dụng hợp đồng dài hạn
chứ không sử dụng những vụ trao đổi “tại trận”, kể cả quan hệ lao động và quản
lí một cách có ý thức chứ không tổ chức “đấu thầu” cho từng dịch vụ một. Nhưng
các công ty - những ốc đảo của sự phối hợp và lập kế hoạch - có thể thành công
là vì họ bơi trong một đại dương rộng lớn của những vụ trao đổi trên thương trường.
(Sai lầm lớn nhất của những người xã hội chủ nghĩa là họ cố gắng quản lí toàn bộ
nền kinh tế như thể một công ty cực kì to lớn, họ không nhận thức được vai trò
có giới hạn của việc lãnh đạo một cách có ý thức cũng như không nhận thức được sự phối hợp trong trật tự tự phát của
thị trường đều là sai lầm như nhau vậy).
Cuối cùng, cần phải nhớ rằng
quyền sở hữu và trao đổi trên thương trường, tự bản thân chúng, không thể giải
quyết được tất cả các vấn đề. Thí dụ, nếu quá trình ấm nóng toàn cầu quả thực
là mối đe dọa đối với việc duy trì cuộc sống trên hành tinh này hay nếu tầng
ozone bị suy thoái đến mức có hại đối với sức khỏe thì giải pháp có phối hợp của
các chính phủ có thể là giải pháp tốt nhất, hoặc thậm chí là giải pháp duy nhất
nhằm tránh thảm họa nữa. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là thị trường hoàn
toàn không có vai trò gì, ví dụ như thị trường mua bán quyền thải chất carbon
dioxide có thể tạo thuận lợi cho quá trình điều tiết, nhưng các thị trường này
phải được thiết lập bởi sự phối hợp của các chính phủ. Nhưng điều quan trọng cần
phải nhớ là nếu một công cụ nào đó không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề
mà ta có thể tưởng tượng được thì điều đó cũng không có nghĩa là nó không thể
giải quyết được một số - thậm chí giải quyết được rất nhiều vấn đề.
Thị trường có thể là mà cũng
có thể không phải là cơ chế tốt nhất cho việc giải quyết những vấn đề toàn cầu
như sự ấm nóng, lỗ thủng trên tầng ozone hay các bệnh truyền nhiễm lây lan
trong không khí, nhưng điều đó không có nghĩa là thị trường không có vai trò gì
trong việc giải quyết những vấn đề này (ví dụ như thị trường mua bán quyền thải
chất carbon dioxide hay thị trường mua bán chất kháng sinh) hoặc không để cho
thị trường giải quyết những vấn đề mà nó có thể giải quyết một cách tốt nhất.
Thị trường tự do có thể không giải quyết được tất cả những vấn đề mà nhân loại
có thể phải đối diện, nhưng thị trường có thể và đã tạo ra được tự do và thịnh
vượng, và đấy là lí do ta phải nói về nó.
HẾT
Nguồn:
http://tomgpalmer.com/2007/02/24/twenty-myths-about-markets/
No comments:
Post a Comment