Hiếu Tân dịch
3.
Không chỉ vị trí và dự trữ năng lượng hứa hẹn mang đến cho Biển Đông (tức Biển NTH trong nguyên văn, theo cách gọi của báo chí quốc tế - ND) tầm quan trọng địa lý - chiến lược đặc biệt, mà cả những tranh chấp lãnh thổ khốc liệt từ lâu đã bao vây vùng biển này. Nhiều cuộc tranh cãi liên quan đến Quần đảo nhỏ ở phần đông nam của Biển Đông. Việt Nam, Đài Loan, và Trung Hoa, mỗi nước đều yêu sách toàn bộ hoặc phần lớn Biển Đông, cũng như tất cả các đảo thuộc hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh đòi một đường ranh lịch sử: Nó đưa yêu sách phần chủ yếu của Biển Đông vào trong một đường bao lớn (được mọi người biết dưới tên "đường lưỡi bò") từ đảo Hải Nam của Trung Hoa ở đầu phia bắc Biển Đông kéo tuốt 1200 dặm xuống phía nam đến tận gần Singapore và Malaysia.
Kết quả là cả chín nước nằm kề Biển Đông ít nhiều đều dàn trận chống Trung Hoa và do đó phụ thuộc vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ về quân sự và ngoại giao. Những yêu sách xung đột nhau này dễ trở nên ngày càng gay gắt hơn khi nhu cầu năng lượng của châu Á ngày càng tăng – ước tính đến năm 2030 tiêu thụ năng lượng sẽ tăng gấp đôi. Trong đó Trung Hoa cần đến một nửa, khiến cho Biển Đông trở thành nơi bảo lãnh chủ yếu cho sức khỏe kinh tế của khu vực.
Biển Đông đã ngày càng trở nên một doanh trại vũ trang, khi những kẻ yêu sách nó tăng cường lực lượng và hiện đại hóa hải quân của họ ngay lúc cuộc tranh giành những hòn đảo và những bãi đá ngầm trong những thập kỷ gần đây hầu như đã chấm dứt. Trung Hoa cho đến nay đã chiếm 12 địa điểm, Đài Loan một, Việt Nam 25, Philippines tám, và Malaysia năm.
Chính môn địa lý của Trung Hoa hướng theo phương của Biển NTH. Trung Hoa nhìn xuống nam về phía một vịnh nước, được tạo thành - nhìn theo chiều kim đồng hồ - bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo tách ra giữa Malaysia và Indonesia (cũng như Brunei nhỏ xíu), bán đảo Malay chia cắt giữa Malaysia và Thái Lan, và bờ biển dài như rắn lượn của Việt Nam: tất cả những nước này đều yếu so với Trung Hoa. Giống như biển Caribbe, bị ngắt quãng như thế bởi những đảo quốc nhỏ và bị bao quanh bởi Hoa Kỳ to như một lục địa, Biển Đông (biển NTH) rõ ràng là một đấu trường để Trung Hoa phô diễn sức mạnh.
Thật ra vị trí của Trung Hoa ở đây về nhiều mặt giống với vị trí của Hoa Kỳ đối với Biển Caribbe trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Hoa Kỳ chấp nhận sự hiện diện và những yêu sách của các cường quốc châu Âu, nhưng vẫn tìm cách khống chế khu vực này. Chính cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha - Hoa Kỳ 1898 và việc đào Kênh Panama từ 1904 đến 1914 là dấu hiệu Hoa Kỳ xuất hiện như một cường quốc thế giới. Hơn nữa, việc khống chế Vịnh biển Caribbea khiến Hoa Kỳ kiểm soát hiệu quả Tây Bán Cầu, ảnh hưởng đến cán cân quyền lực ở Đông Bán Cầu. Và bây giờ Trung Hoa thấy nó đang ở trong một hoàn cảnh tương tự tại Biển Nam Trung Hoa, một phòng chờ của Ấn Độ Dương, nơi Trung Hoa cũng muốn hải quân của nó có mặt để bảo vệ đường cung cấp năng lượng từ Trung Đông.
Nhưng có một cái gì đó sâu xa hơn và nhiều yếu tố tâm lý tình cảm hơn địa lý đã đẩy Trung Hoa về Biển NTH và ra đến Thái Bình Dương: đó là, việc Trung Hoa bị các cường quốc Phương Tây xâu xé trong một quá khứ chưa xa lắm, sau khi đã hàng nghìn năm là cường quốc lớn và một nền văn minh thế giới.
Trong thế kỷ 19, triều đình nhà Thanh trở thành kẻ ốm yếu của Đông Á, Trung Hoa mất nhiều phần lãnh thổ cho Anh, Pháp, Nhật, và Nga. Trong thế kỷ 20 là cuộc chiếm đóng đẫm máu của người Nhật trên bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu. Tất cả những cái đó lên đến cực điểm trong những hiệp định đặc quyền cưỡng bức nhục nhã đối với Trung Hoa trong các thế kỷ 19 và 20, trong đó các nước phương Tây xiết chặt kiểm soát nhiều phần của các thành phố Trung Hoa, - cái gọi là "những cảng mở" [cho thương mại nước ngoài, theo quy định của hiệp ước]. Năm 1938 nhà sử học của Đại học Yale Jonathan D. Spence nói với chúng ta trong Đi tìm nước Trung hoa Hiện đại, vì sự cướp phá cũng như Nội chiến Trung Hoa, thậm chí có một nỗi sợ tiềm ẩn rằng "Trung Hoa sắp sửa bị chia cắt, rằng nó thôi tồn tại như một dân tộc và có thể đi đến một kết cục choáng váng." Việc Trung Hoa bành trướng là một cách tuyên bố rằng nó sẽ không bao giờ để cho các nước ngoài lợi dụng nó một lần nữa.
4.
Đúng như đất Đức là tiền tuyến quân sự trong Chiến tranh Lạnh, các vùng biển của Biển NTH có thể là tiền tuyến quân sự trong những thập kỷ tới. Vì hải quân Trung Hoa trở nên mạnh hơn và vì yêu sách của Trung Hoa trên Biển NTH mâu thuẫn với yêu sách của các nước khác vùng ven biển, những nước này sẽ buộc phải phát triển hơn nữa các năng lực hải quân của họ. Họ cũng sẽ cân bằng với Trung Hoa bằng cách dựa nhiều hơn vào hải quân Hoa Kỳ, sức mạnh của nó có lẽ đã lên đến đỉnh trong những phương diện liên quan, ngay cả khi nó phải phân tán những nguồn lực đáng kể cho Trung Đông. Tính đa cực toàn cầu đã là một đặc điểm của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển NTH có thể cho chúng ta thấy tính đa cực theo một ý nghĩa quân sự thật ra sẽ như thế nào.
Không có gì là lãng mạn trong cái mặt trận mới này, hoàn toàn không có giá trị như những cuộc đấu tranh đạo đức. Trong những cuộc xung đột hải quân, trừ khi có nã pháo lên đất liền, không có nạn nhân đúng nghĩa, cũng không có kẻ thù để can đảm đối mặt; không có gì trên qui mô thanh lọc chủng tộc là có vẻ sẽ xảy ra trong sân khấu trung tâm mới của xung đột này. Trung Hoa, những người bất đồng chính kiến đang chịu đựng đau khổ của nó, đơn giản không đủ tầm cỡ làm đối tượng của cơn thịnh nộ đạo đức. Chế độ Trung Hoa chỉ chứng tỏ một phiên bản nhiệt lượng thấp của chủ nghĩa độc tài, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và hệ tư tưởng thống trị ít có gì để nói. Hơn nữa, Trung Hoa có vẻ đang trở nên một xã hội cởi mở hơn thay vì đóng kín trong những năm tới. Thay vì chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa quân phiệt, Trung Hoa cùng với các nhà nước khác ở Đông Á đang ngày càng tỏ ra kiên trì chủ nghĩa dân tộc kiểu cũ: một tư tưởng, đúng thế, nhưng không phải là tư tưởng đã hấp dẫn giới trí thức từ giữa thế kỷ 19. Và cho dù nếu Trung Hoa có trở nên dân chủ hơn, thì chủ nghĩa dân tộc của nó cũng chỉ có tăng lên, như một cuộc điều tra ngẫu nhiên ý kiến của các công dân mạng tự do cho thấy.
Chúng ta thường nghĩ về chủ nghĩa dân tộc như một tình cảm phản động, một di vật của thế kỷ 19. Tuy nhiên chính chủ nghĩa dân tộc truyền thống là động lực chính trị chủ yếu ở châu Á, và nó sẽ tiếp tục như thế. Chủ nghĩa dân tộc đó đang dẫn đến việc tăng cường một cách không hối tiếc lực lượng quân sự trong khu vực, đặc biệt là các lực lượng hải và không quân, để bảo vệ chủ quyền và đưa ra yêu sách tranh chấp những nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ở đây không có sức quyến rũ triết lý nào cả. Tất cả là cái logic lạnh lùng của cân bằng quyền lực. Ở mức độ của chủ nghĩa hiện thực vô cảm ấy, liên hệ với chủ nghĩa dân tộc, có một môi trường địa lý chung, đó là Biển NTH.
Dù bất kỳ vở kịch đạo đức nào xảy ra ở Đông Á, nó sẽ có dạng chính trị quyền lực khắc khổ thuộc loại khiến nhiều trí thức và nhà báo điếng người. Như Thucydides diễn tả một cách đáng ghi nhớ trong khi ông nói về việc người Athena cổ đại chinh phục hòn đảo Melos, "Kẻ mạnh muốn làm gì thì làm còn người yếu thì phải chịu những gì họ phải chịu." Trong bản kể lại của thế kỷ 21, với Trung Hoa trong vai Athena như một cường quốc mặt biển nổi trội trong khu vực, kẻ yếu vẫn sẽ qui phục, nhưng nó là thế đấy. Đây sẽ là chiến lược không tuyên bố của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á có thể liên kết với hoa Kỳ để tránh số phận của Melian (người dân đảo Melos). Nhưng sẽ không có tàn sát.
Biển NTH báo trước một dạng xung đột khác với dạng mà chúng ta đã quen thấy. Từ đầu thế kỷ 20, chúng ta đã bị chấn thương một mặt vì những cuộc giao tranh lớn, qui ước, trên đất liền, mặt khác vì những cuộc chiến tranh bẩn thỉu lẻ tẻ. Vì cả hai loại chiến tranh này tạo ra con số thương vong lớn cho dân thường, chiến tranh đã là đối tượng đối với các nhà nhân đạo cũng như những viên tướng. Nhưng trong tương lai chúng ta chỉ có thể thấy một dạng xung đột thuần túy, hạn chế trong phạm vi hải chiến. Đây là một kịch bản tích cực. Xung đột không thể bị xóa bỏ hoàn toàn khỏi điều kiện sống của loài người. Một chủ đề trong Những luận văn về Livy của Machiavelli là xung đột được kiểm soát đúng, dễ dẫn tới tiến bộ của loài người hơn là ổn định cứng ngắc. Một mặt biển dày đặc tàu chiến không mâu thuẫn với một thời kỳ đầy hứa hẹn đối với châu Á. Bất ổn thường nuôi dưỡng những động lực.
Nhưng xung đột ở biển NTH có thể kiểm soát được không? Lý lẽ của tôi như vậy phỏng đoán xa rằng cuộc chiến tranh lớn sẽ không nổ ra trong khu vực này và thay vì thế, các nước sẽ bằng lòng tranh đua để giành vị trí bằng tầu chiến của họ trên những vùng biển , trong khi tranh đua đưa yêu sách về các nguồn tài nguyên và có lẽ thậm chí đồng ý với một sự phân chia công bằng những tài nguyên ấy? Nhưng nếu Trung Hoa đi ngược với xu thế đã rõ ràng, lại xâm lược Đài Loan thì sao? Nếu Trung Hoa và Việt Nam, sự kình địch của họ lại đạt đến mức như trong quá khứ lịch sử, lại lao vào chiến tranh như họ đã làm năm 1979, và lần này với các vũ khí giết người khủng khiếp hơn, thì sao? Vì không chỉ một mình Trung Hoa đang ráo riết xây dựng lực lượng quân sự của mình, các nước Đông Nam Á cũng thế. Ngân sách quốc phòng của họ đã tăng lên khoảng một phần ba trong thập kỷ qua, trong khi ngân sách quốc phòng của châu Âu đã giảm xuống. Vũ khí nhập khẩu vào Indonesia, Singapore, và Malaysia đã tăng lên, tương ứng, 85, 146 và 722 phần trăm kể từ năm 2000. Chi tiêu là giành cho các căn cứ hải quân và không quân: các tàu chiến mặt biển, tầu ngầm, với những hệ thống tên lửa tối tân, và những phản lực cơ chiến đấu tầm xa. Việt Nam gần đây đã tiêu 2 tỉ $ để mua sáu tầu ngầm Kiloclass loại tối tân của Nga và 1 tỉ để mua phản lực cơ của Nga. Malaysia mới mở một căn cứ tầu ngầm ở Borneo. Trong khi Hoa Kỳ đang điên đầu về những cuộc chiến tranh mặt đất ở Trung Đông, sức mạnh quân sự đang lặng lẽ di chuyển từ Âu sang Á.
Hoa Kỳ hiện giờ bảo đảm hiện trạng đáng lo ngại ở Biển NTH, hạn chế xâm lược của Trung Hoa chủ yếu vào những bản đồ của nó và tác động như một vận cản đối với ngoại giao và hải quân Trung Hoa (mặc dầu đây không phải là nói rằng Hoa Kỳ là trong sạch trong những hành động của nó còn Trung Hoa đương nhiên là kẻ xấu). Những gì mà Hoa Kỳ cung cấp cho các nước trong khu vực biển NTH không phản ánh bản tính dân chủ của nó mà phản ánh sức mạnh vật chất của nó. Chính sự cân bằng lực lượng giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa cuối cùng sẽ giữ cho Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore, và Malaysia rảnh tay, có thể kích cho cường quốc lớn đánh nhau để có lợi cho mình. Và trong khoảng rảnh rỗi đó, chủ nghĩa khu vực có thể nổi lên như một sức mạnh vì lợi ích của chính nó, dưới hình thức hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên một sự tự do như thế không thể coi là đương nhiên. Đối với sự cân bằng căng thẳng đang diễn ra giữa Hoa Hỳ và Trung Hoa – mở rộng ra đến hàng loạt những đề tài phức tạp, từ thương mại đến cải cách tiền tệ đến an ninh mạng đến do thám tình báo – những mối đe dọa cuối cùng chuyển sang Đông Á có lợi cho Trung Hoa, phần lớn do tính trung tâm về mặt địa lý của Trung Hoa đối với khu vực này.
5.
Tổng kết toàn diện nhất về quang cảnh địa lý châu Á đã đến không phải từ Washington hay Bắc Kinh, mà từ Canberra. Trong một bài báo 74 trang xuất bản năm ngoái, Dịch chuyển quyền lực: Tương lai Australia Giữa Washington và Bắc Kinh, Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại trường Đại học Quốc gia Australia, mô tả đất nước ông như quyền lực nguyên trạng ("status quo") đúng nghĩa – một nước mong muốn một cách mãnh liệt rằng tình hình ở châu Á cứ giữ nguyên như bây giờ, rằng Trung Hoa cứ tiếp tục lớn lên để cho Australia có thể buôn bán nhiều hơn với nó, trong khi Hoa Kỳ vẫn cứ là "cường quốc mạnh nhất ở châu Á" để là "kẻ bảo hộ chí cốt" của Australia. Nhưng, như White viết, vấn đề là cả hai điều trên đều không thể tiếp tục. Châu Á không thể tiếp tục thay đổi về kinh tế nếu không thay đổi về chính trị và chiến lược, một nền kinh tế kếch xù của Trung Hoa đương nhiên sẽ không chấp nhận vị trí đứng đầu về quân sự của Mỹ ở châu Á.
Trung Hoa muốn gì? White nhận định rằng người Trung Hoa có thể muốn có ở châu Á một thứ đế quốc kiểu mới mà Hoa Kỳ đã thiết lập ở Tây Bán Cầu một khi Washington đã nắm chắc vai trò ưu thắng của mình trên vịnh Caribbe (vì Bắc Kinh hy vọng nó sẽ ưu thắng trên Biển Nam Trung Hoa). Đế quốc kiểu mới này, theo lời White, có nghĩa là những láng giềng của Mỹ "ít nhiều được tự do cai quản đất nước mình" trong khi Washington nhấn mạnh rằng các quan điểm của nó được "xem xét đầy đủ" và được ưu tiên hơn quan điểm của các cường quốc bên ngoài. Vấn đề với mô hình này là Nhật Bản, nước có lẽ không chấp nhận bá quyền của Trung Hoa, nhưng vẫn mềm mỏng nhân nhượng. Điều đó bỏ lại mô hình Dàn Hòa tấu châu Âu, trong đó Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ và có lẽ một hoặc hai nước khác sẽ ngồi vào bàn đàm phán về quyền lực ở châu Á như những kẻ ngang hàng. Nhưng liệu Hoa Kỳ có chấp nhận một vai trò khiêm tốn như thế hay không, vì nó đã gắn sự thịnh vượng và ổn định ở châu Á vào với tính ưu việt của chính nó. White gợi ý rằng đối mặt với cường quốc Trung Hoa đang lên, vai trò nổi trội của Hoa Kỳ từ nay về sau có thể có nghĩa là bất ổn ở châu Á.
Vai trò nổi trội của Hoa Kỳ được xác nhận trên khái niệm rằng vì Trung Hoa là chuyên chế ở trong nước, nó sẽ hành động "một cách không thể chấp nhận được ở nước ngoài." Nhưng White nói, điều đó có thể không như thế. Trung Hoa tự coi mình là một cường quốc tốt lành, không-bá-quyền, không can thiệp vào những nguyên tắc nội bộ của các nước khác, theo cách làm của Hoa Kỳ - với tính bao biện về đạo đức của nó. Bởi vì Trung Hoa coi bản thân nó là Vương quốc Trung tâm (Trung Quốc), cơ sở của tính nổi trội của nó là vai trò trung tâm vốn có của nó trong lịch sử thế giới, hơn là bất kỳ một hệ thống nào mà nó tìm cách xuất khẩu.
Nói cách khác, Hoa Kỳ, chứ không phải Trung Hoa, có thể sẽ là vấn đề trong tương lai. Chúng ta có lẽ đã quá quan ngại về bản chất bên trong của chế độ Trung Hoa và tìm cách hạn chế quyền lực của Trung Hoa ở nước ngoài bởi vì chúng ta không thích các chính sách đối nội của nó. Ngược lại, mục đích của Mỹ ở châu Á nên được cân bằng, không nên nổi trội, áp đảo. Chính vì quyền lực cứng vẫn còn là then chốt trong các quan hệ quốc tế mà chúng ta phải dành chỗ cho Trung Hoa lớn lên. Hoa Kỳ không cần phải tăng cường lực lượng hải quân của nó ở Tây Thái Bình Dương, nhưng nó không thể để lực lượng ấy giảm đi một cách cơ bản.
Việc mất đi một đội tàu sân bay của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương do cắt giảm ngân sách hay do việc bố trí lại lực lượng ở Trung Đông có thể gây nên những cuộc tranh cãi căng thẳng trong khu vực về sự đi xuống của Mỹ và do vậy cần có những bù trừ và thương lượng bên lề với Bắc Kinh. Tình hình tối ưu là duy trì hiện diện hải, không quân Mỹ xấp xỉ mức hiện tại, ngay cả khi Hoa Kỳ hết sức củng cố những quan hệ thân mật và nhất quán với Trung Hoa. Bằng cách đó, với thời gian Mỹ có thể thích nghi với một Trung Hoa cường quốc hải quân. Trong các quan hệ quốc tế, đằng sau tất cả mọi vấn đề về đạo đức là vấn đề quyền lực. Can thiệp nhân đạo vào các nước vùng Balkan chỉ có thể làm được bởi vì chế độ ở Serbi yếu, không giống như chế độ ở Nga, kẻ [khi đó] đang phạm những tội ác hung bạo ở Chechnya trên qui mô tương tự trong khi Phương Tây không làm gì cả. Ở Tây Thái Bình Dương trong những thập kỷ sắp tới đạo đức có thể có nghĩa là vì lợi ích của ổn định từ bỏ một số lý tưởng mà ta đã một thời ấp ủ thiết tha. Chúng ta sẽ phải thế nào nữa để sống chung với một nước Trung Hoa gần như độc tài chuyên chế khi nó bành trướng thế lực quân sự? Bản thân sự cân bằng quyền lực, còn hơn cả những giá trị dân chủ của phương Tây, thường là kẻ bảo vệ tốt nhất của tự do. Cả điều đó nữa cũng sẽ là một bài học của Biển Nam Trung Hoa trong thế kỷ 21 – một bài học khác mà những người lý tưởng chủ nghĩa không muốn nghe./.
No comments:
Post a Comment