May 1, 2011

N. A. Berdaev - Chân lí của triết học và sự thật của người trí thức (Phần 1)




Trong giai đoạn khủng hoảng và nhận diện các sai lầm của mình, trong giai đoạn đánh giá lại các hệ tư tưởng cũ, cần phải xem xét lại cả thái độ của chúng ta với triết học nữa. Thái độ truyền thống của giới trí thức Nga với triết học phức tạp hơn là người ta tưởng lúc ban đầu, và việc phân tích thái độ đó có thể cho thấy một số đặc trưng tinh thần chủ yếu của giới trí thức của chúng ta. Tôi xin nói về giới trí thức theo nghĩa truyền thống của từ này trong tiếng Nga, tức là giới trí thức phe nhóm, bị chia tách một cách giả tạo khỏi đời sống chung của dân tộc. Đấy là một thế giới đặc thù, cho đến nay vẫn sống một cuộc đời khép kín dưới áp lực kép: áp lực quan phương ngoại tại, tức là áp lực của chính quyền phản động và áp lực nội tại, tức là sức ỳ của tư duy và tính bảo thủ của cảm xúc; không phải không có lí khi người ta gọi đấy là bọn “trí ngủ” để phân biệt với giới trí thức theo nghĩa rộng nhất, theo nghĩa toàn dân tộc và lịch sử của từ này. Những nhà triết học mà giới trí thức Nga không thèm công nhận, coi đấy là những người thuộc thế giới khác, thế giới thù địch với họ, cũng thuộc giới trí thức nhưng không phải là “trí ngủ”. Giới trí thức đặc thù của chúng ta có thái độ như thế nào đối với triết học, đấy là nói cái thái độ không hề thay đổi dù có những đổi thay nhanh chóng trong các xu hướng triết học? Đấy là tính bảo thủ và thủ cựu cộng với xu hướng chạy theo cái mới, chạy theo những trào lưu mới nhất của châu Âu, nhưng không bao giờ tiếp thu một cách sâu sắc. Thái độ đối với triết học thì cũng thế.


Đập vào mắt trước tiên là, đối với triết học, thái độ của giới trí thức cũng thiếu văn hoá như đối với các giá trị tinh thần khác: giá trị tự thân của triết học bị phủ nhận, triết học phải khuất phục các mục tiêu xã hội-duy lợi. Các tiêu chí duy lợi-đạo đức giữ địa vị đặc biệt, địa vị thống trị độc đoán, giữ thế thượng phong mang tính áp chế của tình yêu đối với nhân dân, đối với giai cấp vô sản, thái độ sùng bài “nhân dân”, sùng bái lợi ích của nhân dân, sự đè nén về mặt tinh thần do chế độ chuyên chế gây ra - tất cả những điều này đã dẫn tới kết quả là trình độ văn hoá triết học của chúng ta quá thấp, kiến thức triết học và sự phát triển của triết học ít được phổ biến trong môi trường trí thức của chúng ta. Văn hoá triết học cao chỉ có thể gặp ở một vài cá nhân và đấy là sự khác biệt của họ với thế giới “trí ngủ”. Nhưng chúng ta không chỉ có ít kiến thức triết học - tai hoạ này có thể sửa chữa được – chúng ta còn có tư tưởng cho rằng triết học chân chính phải nằm trong vòng bí mật và khó hiểu, còn sáng tạo triết học thì thuộc về thế giới khác, thế giới huyền bí. Có thể có một số người đọc sách triết học, bề ngoài thì họ hiểu, nhưng bên trong họ cũng ít gắn bó với thế giới sáng tạo triết học, tương tự như với thế giới của cái đẹp vậy. Lí do không phải là do khiếm khuyết về mặt trí tuệ mà là ở sở nguyện, cái sở nguyện đã tạo ra môi trường trí thức ngoan cố truyền thống tức là cái môi trường đã có sẵn trong máu thịt của mình thế giới quan dân tuý và cách đánh giá mang tính duy lợi, vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong một thời gian dài người ta vẫn coi sáng tạo triết học là một cái gì đó gần như phi đạo đức, họ coi đấy là sự phản bội nhân dân, phản bội sự nghiệp của nhân dân. Người dành quá nhiều tâm trí cho các vấn đề triết học bị nghi là thờ ơ với quyền lợi của nông dân và công nhân. Giới trí thức có thái độ khắc khổ đối với triết học, họ đòi phải tiết chế để dành sức phục vụ cho chúa trời của mình, tức là nhân dân, dành sức cho cuộc đấu tranh với chế độ độc tài chuyên chế. Cái thái độ khắc khổ duy lợi-dân tuý đối với triết học như thế vẫn có ngay cả trong các trào lưu triết học mà bề ngoài có vẻ như đã vượt qua được tư tưởng dân tuý và từ bỏ chủ nghĩa duy lợi thô thiển rồi, vì đấy là thái độ đã ăn sâu bén rễ trong tiềm thức. Cơ sở tâm lí của thái độ như thế đối với triết học và nói chung đối với sự sáng tạo ra các giá trị tinh thần có thể được thể hiện như sau: trong nhận thức và tình cảm của giới trí thức Nga, mối quan tâm về phân phối và cào bằng luôn luôn nổi trội hơn mối quan tâm về sản xuất và sáng tạo. Điều này đúng cho cả lĩnh vực vật chất cũng như lĩnh vực tinh thần: thái độ của giới trí thức Nga đối với lĩnh vực sáng tạo triết học cũng giống như đối với lĩnh vực sản xuất vật chất. Giới trí thức luôn luôn sẵn sàng chấp nhận hệ tư tưởng trong đó trọng tâm là vấn đề phân phối và bình đẳng, còn sáng tạo thì bị chặn đứng, sự tín nhiệm của nó với hệ tư tưởng như thế có thể nói là vô giới hạn. Còn hệ tư tưởng mà trọng tâm là sáng tạo và các giá trị thì bị nó nghi ngờ, nó sẽ dùng ý chí mà quay mặt đi và tìm cách tố cáo. Chính cái thái độ ấy đã giết chết tài năng triết học của N. K. Mikhailovski[1] cũng như đã giết chết tài năng nghệ thuật của Glev Uspenski[2]. Nhiều người đã tự kiềm chế, không dám sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật và triết học vì cho rằng theo quan điểm phân phối và công bằng thì đấy là việc làm phi đạo đức, là phản bội lại quyền lợi của nhân dân. Trong những năm 70 (1870 – ND), có thời người ta còn coi đọc sách và say mê kiến thức là việc làm chẳng có mấy giá trị, khao khát kiến thức còn bị phê phán về mặt đạo đức nữa. Thời kì ngu dân theo lối dân tuý đó đã qua rồi, nhưng vi trùng thì vẫn còn nằm trong máu. Còn trong những ngày cách mạng thì người ta lại săn đuổi trí thức, săn đuổi công việc sáng tạo, săn đuổi đời sống tinh thần cao đẹp. Cho đến tận ngày hôm nay trong máu của giới trí thức chúng ta cái bản tính ấy cũng vẫn còn. Những xét đoán về mặt đạo đức như thế vẫn giữ thế thượng phong dù ngoài mặt họ có dùng ngôn từ gì đi nữa thì cũng thế mà thôi. Cho đến tận bây giờ, thanh niên trí thức của chúng ta vẫn không thể công nhận giá trị tự thân của khoa học, của triết học, của khai minh, của các trường đại học, cho đến tận bây giờ người ta vẫn buộc khoa học phải phục vụ chính trị, phục vụ quyền lợi của các đảng phái, phục vụ các xu hướng và phe nhóm. Những người biện hộ cho cái kiến thức mang tính tự chủ và tự thân, biện hộ cho kiến thức như là một nguyên tắc đứng cao hơn những vấn đề thời sự, vẫn bị coi là phản động. Chính Bộ giáo dục đã góp phần vào việc tạo ra thái độ thiếu tôn trọng đối với cái linh vật là kiến thức như thế. Chế độ chuyên chế đã làm cho tâm hồn của giới trí thức tiến bộ méo mó đến mức là tinh thần mới rất khó lọt được vào nhận thức của thanh niên.

Nhưng chẳng nên nói rằng các đề tài và vấn đề triết học là xa lạ với giới trí thức Nga. Có thể nói rằng giới trí thức của chúng ta luôn luôn quan tâm tới các vấn đế triết học mặc dù không phải theo cách đặt vấn đề của triết học: nó đã tìm cách gán ý nghĩa triết học cho những vấn đề thực tế nhất của xã hội, những vấn đề cụ thể và riêng biệt thì biến thành trừu tượng và phổ quát, các vấn đề về nông dân hay công nhân thì được coi là những vấn đề cứu chuộc toàn thế giới, các lí thuyết xã hội học được nó tô vẽ gần như thành thần học. Đặc điểm này thể hiện trong văn chính luận của chúng ta, nó dạy người ta ý nghĩa của đời sống và không những thiếu cụ thể và thiếu thực tế mà lại còn quá trừu tượng và mang tính triết lí ngay cả khi nói về các vấn đề kinh tế. Xu hướng thân phương Tây và xu hướng thân Slavơ cũng không phải là chính luận mà là mang tính triết học. Belinski[3], một trong những ông tổ của giới trí thức Nga, chẳng có mấy hiểu biết về triết học và không có phương pháp tư duy triết học, nhưng suốt đời đã bị những vấn đề mang tầm triết học, mang tầm thế giới hành hạ. Các nhân vật của Tolstoi[4] và Doxtoievski[5] cũng chăm chăm vào những vấn đề triết học như thế. Trong những năm 60 (1860 – ND) triết học bị đẩy vào một góc và nằm trong tình trạng suy thoái, Iurkevich[6], so với Trernyshevski[7], rõ ràng là một nhà triết học thực sự, nhưng đã bị coi khinh. Nhưng tính chất của niềm đam mê chủ nghĩa duy vật, một hình thức triết lí thấp kém nhất và sơ đẳng nhất, dù sao cũng thể hiện được sự quan tâm đối với những vấn đề mang tính triết học và có tầm cỡ thế giới. Lúc đó giới trí thức Nga muốn sống và xác định thái độ của mình đối với những vấn đề thực tiễn và thiết thực của đời sống xã hội trên cơ sở kinh bổn của chủ nghĩa duy vật và siêu hình học duy vật chủ nghĩa. Trong những năm 70 giới trí thức lại say mê chủ nghĩa thực chứng và N. K. Mikhailovski, ông trùm tư tưởng của họ, nếu xét về mối quan tâm và tầm tư tưởng thì đúng là một nhà triết học nhưng lại không có trường phái và kiến thức thực sự. Giới trí thức còn hướng đến P. L. Lavrov[8], một người uyên bác và có tầm tư tưởng rộng rãi, nhằm tìm cơ sở triết học cho những kì vọng cách mạng của họ. Và Lavrov đã đưa ra những lời biện hộ mang tính triết học cho những kì vọng của lớp trẻ, nhưng ông thường bắt đầu từ xa, từ việc hình thành khối quần chúng rất ư là mù mờ. Giới trí thức cũng thường có các nhà triết học trí thức, mang tính phe nhóm của mình và một thứ triết học định hướng, tách biệt hẳn với truyền thống triết học thế giới. Cái thứ triết học mang tính bè phái và thô lậu đó đã thoả mãn được nhu cầu có một “thế giới quan”, đã trả lời được tất cả các câu hỏi của cuộc sống và liên kết được lí luận với thực tiễn của tầng lớp thanh niên trí thức nước ta. Nhu cầu có một thế giới quan mang tính triết lí-xã hội nhất quán là nhu cầu chủ yếu của giới trí thức nước ta trong thời trai trẻ và chỉ những người có thể rút ra từ lí thuyết những lời biện hộ cho khát vọng giải phóng xã hội, biện hộ cho thiên tính dân chủ và những đòi hỏi về sự công bằng bằng bất cứ giá nào mới được họ coi là các ông trùm tư tưởng. Về mặt này, trong những năm 60, Trernyshevski và Pisarev[9] còn trong những năm 70 thì Lavrov và Mikhailovski đã là những nhà “triết học” điển hình. Đối với sự sáng tạo mang tính triết học cũng như đối với nền văn hoá tinh thần của dân tộc, những người cầm bút này hầu như chẳng mang lại được gì, nhưng họ đáp ứng được nhu cầu có một thế giới quan và biện giải cho những khát vọng của giới trí thức về mặt lí thuyết; hiện các ông này vẫn còn là đạo sư của giới trí thức và khi còn trẻ người ta vẫn say mê đọc họ. Trong những năm 90, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Marx, quan tâm về mặt trí tuệ của giới trí thức cũng được đưa lên rất cao, thanh niên bắt đầu Âu hoá, bắt đầu đọc sách khoa học, mẫu người dân tuý hoàn toàn nghiêng về cảm tính đã bắt đầu thay đổi dưới ảnh hưởng của luồng trí thức mới. Nhu cầu biện hộ cho những khát vọng mang tính xã hội được đáp ứng bằng chủ nghĩa duy vật lịch sử, còn sau này thì bằng học thuyết của phái Kant-trẻ, một học thuyết không thể truyền bá rộng rãi được vì quá phức tạp về mặt triết học. Beltov-Plekhanov[10] trở thành “triết gia của thời đại, đẩy được Mikhailovski ra khỏi trái tim của tuổi trẻ. Sau này, trên sân khấu lại xuất hiện hai ông là Avenarius[11] và Mach[12], những người được tuyên bố là cứu tinh về mặt triết học của giai cấp vô sản, còn các ông Bogdanov[13] và Lunatrarski[14] thì trở thành “triết gia” của tầng lớp trí thức dân chủ-xã hội. Mặt khác, lại xuất hiện thêm các xu hướng duy tâm và thần bí, nhưng đấy là những xu hướng hoàn toàn khác trong nền văn hoá Nga. Chiến thắng của chủ nghĩa Marx trước phong trào dân tuý không tạo ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong bản chất giới trí thức Nga, nó vẫn là cựu giáo và dân tuý như cũ, chỉ khoác lên mình chủ nghĩa Marx theo kiểu châu Âu mà thôi. Nó phủ nhận lí thuyết dân chủ-xã hội, nhưng chính lí thuyết này cũng chỉ là hệ tư tưởng của một nhóm trí thức. Còn thái độ đối với triết học thì vẫn như xưa, nếu không kể trào lưu phê phán trong chủ nghĩa Marx, trào lưu này sau đó đã chuyển sang lập trường duy tâm, nhưng cũng không được trí thức hâm mộ.

Quan tâm của đa phần trí thức đối với triết học thường dừng lại ở nhu cầu biện hộ, về mặt triết học, tình cảm và khát vọng mang tính xã hội của nó, tư duy triết học không thể lay chuyển được những tình cảm và khát vọng đó, đấy là những tín điều bất di bất dịch. Trí thức không quan tâm đến vấn đề, thí dụ lí thuyết nhận thức của Mach là đúng hay sai, nó chỉ cần biết lí thuyết này có lợi cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hay là không, nó có phục vụ cho quyền lợi và hạnh phúc của giai cấp vô sản hay là không; nó không cần biết siêu hình học và chân lí của siêu hình học có tồn tại hay là không, nó chỉ quan tâm đến việc liệu siêu hình học có làm thiệt hại cho quyền lợi của nhân dân hay không, có làm sao lãng cuộc đấu tranh với chế độ chuyên chế và phục vụ giai cấp vô sản hay không mà thôi. Trí thức sẵn sàng chấp nhận mọi triết lí, với điều kiện là nó biện hộ được cho các lí tưởng xã hội của họ và gạt bỏ ngay mọi triết lí, dù là triết lí sâu sắc nhất và đúng đắn nhất, nếu họ ngờ rằng triết lí đó không có lợi hoặc đơn giản là có thái độ phê phán đối với những lí tưởng và tình cảm truyền thống của họ. Mối thâm thù đối với các xu hướng duy tâm và tôn giáo-thần bí, việc coi thường năng khiếu triết học đầy sáng tạo và độc đáo của Nga có nguồn gốc từ cái tâm lí mang tính “Thiên chúa giáo” này. Chủ nghĩa duy lợi trong việc đánh giá mọi việc, việc tôn sùng “nhân dân” – khi thì nông dân, lúc lại là vô sản - vẫn là tín điều đạo đức của phần lớn giới trí thức. Lúc đầu giới trí thức đọc cả Kant[15] chỉ vì chủ nghĩa Marx phê phán hứa là nó sẽ dùng Kant để chứng minh lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Sau đó họ bắt đầu lao vào Avenarius[16], vì triết học “tinh khiết nhất” và trừu tượng nhất của Avenarius bỗng được coi là triết học của những người dân chủ-xã hội “bolsevik”, dù ông không biết và không có lỗi gì trong chuyện này.

Sự thiếu văn hoá của chúng ta, việc thiếu vắng sự phân tầng đầy thô lậu, nhận thức kém về giá trị của chân lí và sai lầm trong phán đoán mang tính đạo đức dĩ nhiên là có ảnh hưởng đối với thái độ đặc biệt này đối với triết học. Toàn bộ lịch sử của nước Nga cho thấy người ta ít coi trọng những quan tâm mang tính tư biện tự thân. Nhưng ở đây có cả ảnh hưởng của những năng khiếu tích cực và giá trị nữa, đấy là khát khao có một thế giới quan thống nhất, trong đó lí thuyết hoà nhập vào cuộc sống, khát khao đức tin. Không phải không có cơ sở để giới trí thức có thái độ tiêu cực và nghi ngờ đối với lí thuyết suông, đối với việc chia chẻ chân lí và ta có thể nhận thấy những nét đặc trưng mang tính tôn giáo, mặc dù vô thức, trong yêu cầu có một thế giới quan thống nhất như thế của giới trí thức.

Cần phải phân biệt rõ “tay phải” và “tay trái” trong tâm lí truyền thống của giới trí thức. Không được tuyệt đối hoá sự thiếu quan tâm đối với các vấn đề triết lí trừu tượng, trình độ văn hoá triết học thấp, thiếu vắng kiến thức triết học và thiếu khả năng tư duy triết học nghiêm túc. Cũng không nên tuyệt đối hoá cái xu hướng đánh giá các học thuyết và chân lí triết học theo các tiêu chuẩn của chính trị và duy lợi, sự thiếu khả năng xem xét các hiện tượng triết học và sáng tạo trong lĩnh vực văn hoá theo đúng bản chất của chúng, từ quan điểm giá trị tuyệt đối của chúng. Trong thời khắc này của lịch sử, giới trí thức không cần phải ca ngợi mà cần phải tự phê bình. Chỉ có thông qua sám hối và tự phê chúng ta mới có thể đi đến nhận thức mới. Trong thời kì phản động hồi những năm 80 người ta nói một cách đầy tự hào về những phẩm hạnh chân chính mang tính bảo thủ của người Nga và Vl. Soloviev[17] đã làm được một việc quan trọng là tố cáo những người đó và kêu gọi người ta phải tự phê bình và sám hối, phải tìm cho ra những căn bệnh của chúng ta. Sau đó lại đến thời kì người ta nói đến những phẩm hạnh mang tính cấp tiến, cũng là những phẩm hạnh chân chính của người Nga. Trong những thời kì như thế cần phải kêu gọi những người còn lại thực hiện việc tự phê bình, sám hối và tìm cho bằng được các căn bệnh. Không thể nào tự hoàn thiện được nếu cứ tiếp tục tự mê những tính chất vĩ đại của mình, những phẩm chất tốt thực sự cũng sẽ bị lu mờ đi trong niềm say mê đó.

Giới trí thức Nga, do hoàn cảnh lịch sử của nó, đã gặp phải nỗi bất hạnh sau: tình yêu đối với sự công bằng mang tính cào bằng, tình yêu đối với điều thiện, với hạnh phúc của nhân dân đã làm tê liệt tình yêu đối với chân lí, gần như giết chết sự quan tâm đối với chân lí. Còn triết học là trường dạy tình yêu đối với chân lí, trên hết là chân lí. Trí thức không thể có thái độ vô tư đối với khoa học vì nó vốn có thái độ vụ lợi đối với chân lí, nó đòi hỏi rằng chân lí phải trở thành công cụ của cách mạng xã hội, của hạnh phúc của nhân dân, hạnh phúc của con người. Nó sẵn sàng đi theo Đại pháp quan tôn giáo[18], tức là đi theo người đòi từ bỏ chân lí nhân danh hạnh phúc của con người. Phán đoán mang tính đạo đức chủ yếu của giới trí thức có thể được thể hiện bằng công thức sau: thây kệ chân lí, nếu nó chết mà nhân dân được sống tốt hơn, hạnh phúc hơn thì cứ để cho nó chết, đả đảo chân lí nếu như nó cản trở lời hiệu triệu thiêng liêng “đả đảo chế độ chuyên chế”. Hoá ra lòng nhân ái được định hướng sai đã giết chết tình yêu Thượng đế vì tình yêu chân lí, cũng như tình yêu cái đẹp, tình yêu đối với bất kì giá trị tuyệt đối nào cũng đều là biểu hiện của tình yêu đối với Thượng đế cả. Lòng nhân như thế là một sự lầm lẫn vì nó không dựa trên sự tôn trọng thực sự đối với con người, tôn trọng con người bình đẳng và thân thuộc trong một người Cha Duy Nhất; nó, một mặt là lòng trắc ẩn và thương hại đối với con người từ “nhân dân”, mặt khác, nó lại biến thành sự sùng bái con người và sùng bái nhân dân. Còn tình yêu chân chính đối với con người là tình yêu không trái ngược với chân lí và Chúa mà là tình yêu trong chân lí và trong Chúa, không phải là lòng thương hại, lòng thương phủ nhận nhân phẩm của con người mà là sự công nhận hình ảnh của Thiên chúa trong mỗi con người. Nhân danh lòng nhân ái sai lầm đó mà ở nước ta đã hình thành thái độ ngờ vực và theo dõi đối với các trào lưu và tìm tòi mang tính triết học. Thực chất là chẳng có ai đi sâu vào lĩnh vực triết học, những người dân tuý thì bị tình yêu sai lầm đối với nông dân, còn những ngưới mác-xít thì bị tình yêu sai lầm đối với giai cấp vô sản cấm đoán. Nhưng thái độ như thế với nông dân và vô sản chính là sự thiếu tôn trọng đối với ý nghĩa tuyệt đối của con người vì ý nghĩa tuyệt đối nằm ở Thượng đế chứ không phải ở người, ở chân lí chứ không phải ở quyền lợi. Avenarius hoá ra là tốt hơn Kant và Hegel không phải vì người ta tìm thấy chân lí trong triết học của Avenarius mà vì người ta tưởng rằng Avenarius có lợi hơn cho phong trào xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là quyền lợi được đặt cao hơn chân lí, cái thuộc về người được đặt cao hơn cái thuộc về Chúa. Bác bỏ các lí thuyết triết học chỉ vì chúng không có lợi cho phong trào dân tuý hay phong trào dân chủ-xã hội cũng tức là coi khinh chân lí. Nhà triết học bị nghi là phản động (cái gì ở nước ta mà không có thể gọi là “phản động”!) thì sẽ chẳng được ai nghe vì có ai quan tâm đến triết học và chân lí đâu. Những lời bịa tạc mang tính phe nhóm của ông Bogdanov luôn được đánh giá cao hơn là Lopatin[19], nhà triết học độc đáo và phi thường của chúng ta. Triết học của Lopatin đòi hỏi phải tư duy nghiêm túc và nó không đưa ra bất kì khẩu hiệu mang tính cương lĩnh nào, còn triết học của Bogdanov thì chỉ cần cảm xúc và nó có thể được gói gọn trong một cuốn sách giá năm xu. Trong giới trí thức Nga, chủ nghĩa duy lí của nhận thức luôn luôn kết hợp với xúc cảm và sự thiếu vắng một đời sống trí tuệ có giá trị tự thân.

Đối với triết học cũng như các lĩnh vực khác của đời sống, thái độ mị dân vẫn giữ vai trò chủ đạo; những cuộc tranh luận giữa các xu hướng triết học trong giới trí thức thường mang tính chất mị dân và kèm theo những cái nhìn ngang liếc dọc rất vô liêm xỉ để xem ai thích cái gì, cái gì thì phù hợp với bản năng nào. Thói mị dân đó đã làm băng hoại tinh thần của giới trí thức và tạo ra một bầu không khí rất nặng nề. Thái độ ươn hèn về mặt đạo đức ngày càng phát triển, tình yêu đối với chân lí và sự táo bạo trong tư duy thì càng ngày càng bị lu mờ. Niềm khao khát sự công bằng trên cõi thế vốn có sẵn trong tâm hồn giới trí thức Nga, về căn bản là một niềm khao khát thiêng liêng, đã bị xuyên tạc. Lòng nhiệt tình thì bị thoái hoá thành sự sùng bái cái nhất nguyên. Việc giải thích theo quan điểm “giai cấp” các hệ tư tưởng và các lí thuyết triết học khác nhau của những người mác-xít đã trở thành tư tưởng ám ảnh mang tính bệnh hoạn. Phần lớn “cánh tả” của chúng ta mắc phải căn bệnh sùng bái cái nhất nguyên này. Chia triết học ra thành “vô sản” và “tư sản”, “cánh tả” và “cánh hữu”, khẳng định rằng có hai chân lí, chân lí có lợi và chân lí có hại - tất cả đều chứng tỏ sự suy đồi về mặt trí tuệ, đạo đức và cả văn hoá nữa. Đấy là con đường dẫn đến sự tha hoá nhận thức mang tính toàn diện và bắt buộc chung cho tất cả mọi người, nhân phẩm và sự phát triển văn hoá gắn liền với nhận thức như thế.

Lịch sử nước Nga đã tạo ra giới trí thức với trạng thái tinh thần trái ngược với tính khách quan và tính toàn diện, trong đó không thể có một tình yêu thật sự đối với chân lí và giá trị khách quan, giá trị mang tầm vũ trụ. Giới trí thức Nga có thái độ nghi ngờ đối với những tư tưởng khách quan và các tiêu chuẩn chung cho cả loài người vì họ cho rằng các tư tưởng và tiêu chuẩn như thế sẽ cản trở cuộc đấu tranh với chế độ chuyên chế và sự nghiệp phục vụ “nhân dân”, hạnh phúc của “nhân dân” được đặt cao hơn chân lí và điều thiện mang tầm vũ trụ. Cái tính chất vô cùng nguy hại này của giới trí thức Nga do lịch sử đáng buồn của nó tạo ta, tính chất mà chính quyền của chúng ta, cái chính quyền đã làm cho đời sống của người Nga trở thành tàn phế, phải chịu trách nhiệm. Nó đã buộc giới trí thức Nga chỉ làm mỗi một việc là đấu tranh chống lại ách áp bức về chính trị và kinh tế và kết quả là trong nhận thức của trí thức Nga, các học thuyết triết học châu Âu được tiếp nhận dưới dạng méo mó, được điều chỉnh cho phù hợp với những mối quan tâm mang tính đặc thù của giới trí thức, còn những hiện tượng quan trọng nhất của tư duy triết học thì bị bỏ qua. Chủ nghĩa thực chứng khoa học, chủ nghĩa duy vật kinh tế, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, phái Hegel[20] trẻ và học thuyết của Nietzsche[21] cũng bị xuyên tạc và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện ở trong nước.

Chủ nghĩa thực chứng khoa học được giới trí thức Nga tiếp thu một cách hoàn toàn sai lạc, hoàn toàn không khoa học và nó đã đóng một vai trò khác hẳn với vai trò của nó ở Tây Âu. Giới trí thức của chúng ta có thái độ kính trọng, thậm chí sùng bái như thần tượng, đối với “khoa học” và “tính khoa học”, nhưng khoa học lại được hiểu như là một tín điều duy vật đặc biệt, còn tính khoa học thì là niềm tin, và luôn luôn là tín điều và niềm tin nhằm vạch trần những điều xấu xa của chế độ chuyên chế, sự giả trá của chế độ tư bản, còn niềm tin thì sẽ cứu chuộc nhân dân hay giai cấp vô sản. Chủ nghĩa thực chứng khoa học, cũng như tất cả những gì của phương Tây, đã được tiếp thu dưới dạng cực đoan nhất và biến thành không chỉ một môn siêu hình học thô lậu mà còn thành một tôn giáo đặc biệt, thay thế cho tất cả các tôn giáo trước đây nữa.

Khoa học và tinh thần khoa học chưa trở thành thông dụng ở nước ta, chưa được đông đảo trí thức tiếp thu, số người hấp thục được chưa đáng bao nhiêu. Các nhà khoa học chưa bao giờ được tôn trọng một cách đặc biệt và chẳng được mấy người biết đến, còn nếu họ lại là những người bàng quan về mặt chính trị thì khoa học của họ cũng bị coi là không phải khoa học chân chính. Giới thanh niên trí thức của chúng ta bắt đầu học khoa học theo Pisarev, theo Mikhailovski và Beltov, tức là theo những “khoa học gia” và “tư tưởng gia” của nhóm và của nhà. Còn những nhà khoa học thực sự thì họ chưa từng nghe nói tới bao giờ. Bản thân tinh thần của chủ nghĩa thực chứng khoa học chẳng có tính chất tiến bộ, cũng chẳng phản động, nó chỉ đơn giản là quan tâm đến việc khảo sát chân lí mà thôi. Còn chúng ta thì bao giờ cũng coi tinh thần khoa học là sự tiến bộ về chính trị và cấp tiến về mặt xã hội. Bản thân tinh thần của chủ nghĩa thực chứng khoa học không loại trừ bất kì môn siêu hình học hay niềm tin tôn giáo nào, nhưng nó cũng không khẳng định bất kì siêu hình học hay niềm tin tôn giáo nào[22]. Còn chúng ta thì lại luôn coi chủ nghĩa thực chứng khoa học là sự phủ nhận một cách triệt để bất kì môn siêu hình học nào cũng như bất kì niềm tin tôn giáo nào, hay nói đúng hơn, ở nước ta chủ nghĩa thực chứng khoa học được đồng nhất với siêu hình học duy vật chủ nghĩa và niềm tin vào cách mạng xã hội. Không một nhà thần bí nào, không một người có đạo nào có thể phủ nhận được chủ nghĩa thực chứng khoa học và khoa học. Không hề có mâu thuẫn đối kháng giữa tôn giáo thần bí nhất và khoa học mang tính thực chứng nhất vì phạm vi hiểu biết của chúng là hoàn toàn khác nhau. Đúng là nhận thức siêu hình học và tôn giáo phủ nhận tính độc nhất của khoa học và vị trí tối thượng của nhận thức khoa học trong đời sống tinh thần, nhưng việc giới hạn lĩnh vực như vậy chỉ có lợi cho khoa học mà thôi. Những thành tố mang tính khoa học và khách quan của chủ nghĩa thực chứng đã không được chúng ta tiếp thu một cách đúng đắn, nhưng những thành tố có thể biến chủ nghĩa thực chứng thành đức tin, thành thế giới quan hoàn hảo thì lại được tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Đối với giới trí thức Nga, chủ nghĩa thực chứng hấp dẫn không phải bởi tính khách quan mà chính là ở tính chủ quan, thần thánh hoá loài người của nó. Trong những năm 70 chủ nghĩa thực chứng đã bị Lavrov và Mikhailovski biến thành môn “xã hội học mang tính chủ quan”, môn này sau đó đã trở thành triết học phe nhóm, thô lậu của giới trí thức Nga. Vl. Soloviev đã có một nhận xét rất thông minh rằng trí thức Nga luôn tư duy theo lối tam đoạn luận kì quặc: người từ khỉ mà ra cho nên chúng ta phải yêu thương nhau. Chủ nghĩa thực chứng khoa học cũng được giới trí thức Nga tiếp thu theo đúng tinh thần của cái tam đoạn luận đó. Chủ nghĩa thực chứng khoa học chỉ là phương tiện để thiết lập vương quốc của công bằng xã hội và để tiêu diệt hoàn toàn những tư tưởng siêu hình và tôn giáo, mà theo quan niệm giáo điều của trí thức thì là cơ sở của vương quốc của cái ác. Tritrerin[23] là người khoa học hơn và theo nghĩa khoa học-khách quan thì còn là người thực chứng hơn là Mikhailovski, nhưng điều đó cũng không ngăn cản ông trở thành một người siêu hình-duy tâm, thậm chí là một người Thiên chúa giáo đầy đức tin nữa. Nhưng khoa học của Tritrerin thì xa lạ và chướng tai gai mắt giới trí thức, còn khoa học của Mikhailovski thì gần gũi và thân thuộc với họ. Cuối cùng, cần phải công nhận rằng khoa học “tư sản” chính là khoa học mang tính khách quan, khoa học chân chính, còn cái khoa học “chủ quan” của những người dân tuý và khoa học mang tính “giai cấp” của những người mác-xít của chúng ta thì lại có nhiều điểm chung với tôn giáo hơn là khoa học. Điều này đã được toàn bộ lịch sử các hệ tư tưởng của giới trí thức xác nhận: đấy là chủ nghĩa duy vật hồi những năm 60, xã hội học chủ quan hồi những năm 70 và chủ nghĩa duy vật kinh tế ở nước Nga của chúng ta.

Năm 1909.

Còn tiếp 1 kì
Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Hà Nội, 2009.

N. A. Berdaev (1874-1948) một nhà triết học lớn, từng có thời say mê chủ nghĩa Marx và bị đi đầy vì các hoạt động cách mạng trong phong trào sinh viên. Bị bắt đi lưu đầu từ năm 1922, từ đó hoạt động khoa học của ông diễn ra ở Paris cho đến cuối đời. Bài Chân lí của triết học và sự thật của người trí thức được đăng trong tập Những cột mốc, xuất bản năm 1909.



[1] N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà phê bình văn học Nga, lí thuyết gia của phong trào dân tuý.
[2] Glev Uspenski (1843-1902), nhà văn Nga. Tác phẩm của ông thấm đẫm tinh thần dân chủ và dân tuý.
[3] V. G. Belinski (1811-1848), nhà phê bình văn học nổi tiếng người Nga.
[4] L. N. Tolstoi (1828-1910), Nhà văn vĩ đại người Nga với các tác phẩm như Chiến tranh và hoà bình, Ana Karenina, Phục sinh…
[5] F. M. Doxtoievski (1821-1881), Nhà văn vĩ đại người Nga với các tác phẩm như Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov…
[6] P. D. Iurkevich (1826-1874), nhà triết học, thần học và nhà sư phạm nổi tiếng người Nga.
[7] Trernyshevski N. G. (1828-1889), nhà chính luận và nhà phê bình văn học nổi tiếng. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của ông được thể hiện rõ trong tác phẩm: Làm gì?
[8] P. L. Lavrov (1823-1900), nhà triết học và xã hội học người Nga, một trong những lí thuyết gia của phong trào dân tuý cách mạng.
[9] Pisarev D. I. (1840-1868), nhà báo và nhà phê bình văn học người Nga.
[10] Plekhanov G. V. (1856-1918), nhà triết học và nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào dân chủ-xã hội quốc tế người Nga.
[11] Avenarius R. (1843-1896), triết gia người Thuỵ Sĩ, một trong những người sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
[12] E. Mach (1838-1916), nhà vật lí học và triết học người Áo, một trong những người đặt nền móng cho chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
[13] Bogdanov (tên thật là Malinovski) A. A. (1873-1928), bác sĩ, triết gia và nhà kinh tế học người Nga.
[14] Lunatrarski A. V. (1875-1933), nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng. Từng giữ chức bộ trưởng giáo dục trong chình quyền Xô-Viết, một trong những người đặt nền móng cho hệ thống giáo dục Liên Xô.
[15] Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển Đức.
[16] Avenarius R. (1843-1896), triết gia người Thuỵ Sĩ, một trong những ông tổ của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
[17] Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng người Nga.
[18] Đại pháp quan tôn giáo là nhân vật trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov của F. M. Dostoievski, người sẵn sàng nhân danh hạnh phúc của nhân loại mà hi sinh cả Chúa lẫn chân lí.
[19] Lopatin G. A. (1845-1818), nhà cách mạng của phong trào dân tuý.
[20] Hegel G. (1770-1831), triết gia người Đức, ông tổ của phép biện chứng.
[21] Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[22] Ý tôi muốn nói đến chủ nghĩa thực chứng khoa học chứ không phải chủ nghĩa thực chứng triết học, Phương Tây tạo ra tinh thần khoa học, cái tinh thần mà ở đó cũng biến thành vũ khí chống lại tôn giáo và siêu hình học. Nhưng phương Tây không có thói cực đoan của người Slav; phương Tây tạo ra nền khoa học trung lập với cả tôn giáo lẫn siêu hình học.

[23] Tritrerin G. V. (1828-1804), luật sư, triết gia và nhà sử học nổi tiếng người Nga.

No comments:

Post a Comment