February 23, 2011

Cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir và “đồng thuận Bắc Kinh”

Phạm Nguyên Trường dịch

Đôi lời phi lộ : Bài này ban đầu được dịch từ bản tiếng Nga trên inosmi.ru và đã được xuất bản vào ngày 21 tháng 2. Bác Hà Dương Tường, một độc giả ở Pháp, đã cất công so sánh với bản gốc trên tờ Le Monde và tiến hành nhuận sắc lại bản dịch. Xin chân thành cám ơn Bác Hà Dương Tường.
Từ nay trở đi trong các cuộc thảo luận về những vấn đề toàn cầu hóa sẽ có sự phân biệt giữa “trước” và “sau” cuộc  Đại Nổi loạn[i] trên quảng trường Tahrir (Giải phóng). Và đây không phải chỉ là câu chuyện về cột mốc thời gian.  Mà là một ngày đáng nhớ của một sự kiện nhiều khả năng sẽ được ghi nhận như một trong những trận chiến tư tưởng  lớn của thế kỉ chúng ta: cuộc đối đầu giữa các mô hình xã hội. Lí do là như thế này.


Trong mấy năm vừa qua người ta đã nghe quá nhiều về những lời tụng ca cái gọi là “đồng thuận Bắc Kinh”. Mệnh đề hoa mĩ này là để chỉ các chế độ ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng vẫn giữ hệ thống độc đảng. Nhiều người cho rằng đấy là giải pháp tốt nhất cho các nước đang phát triển, là toa thuốc giúp phát triển kinh tế và xã hội và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Trung Quốc là thí dụ điển hình của việc thực thi một cách thành công mô hình đó, trong tuần này Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mĩ. Dù người Trung Quốc luôn luôn kiềm chế trong việc “xuất khẩu” mô hình của mình, nhưng vẫn có những người bắt chước “đồng thuận Bắc Kinh”.

Tuy không được nói ra, nó là nguồn cảm hứng cho Vladimir Putin của nước Nga, nhiều nước châu Phi cũng không tỏ ra bàng quan trước mô hình này. Nó đã chinh phục  êkip  của Mahmud Ahmadinejad ở Iran. Nó được sao chép ở châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cẩm nang thắng lợi hình như nằm trong phương châm nổi tiếng của Trung Quốc: tự do kinh doanh và chế độ độc tài. Làm thế nhất định được !. Ở Ai Cập người ta cũng đã nghĩ như thế, ít nhất là cho đến khi xảy ra vụ bất ngờ trên bờ sông Nile vào mùa đông này: cuộc  Đại Nổi loạn trên quảng trường Tahrir.

Không chỉ ở các nước đang phát triển người ta mới ca ngợi “đồng thuận Bắc Kinh”. Cả ở châu Âu lẫn ở Mĩ cũng có những chuyên gia tuyên bố rằng mô hình này sẽ quyết định bộ mặt của thế kỉ tới. Mọi người đều cho rằng tác giả của câu nói này là ông Joshua Cooper Ramo, một nhà văn và cố vấn người Mĩ; ông này đã sử dụng nó vào năm 2004, coi như một đối trọng với điều được gọi là “đồng thuận Washington” vào cuối những năm 1980: hệ thống quản lí dân chủ cao nhất, tự do kinh doanh và mở cửa biên giới cho hàng hóa và tư bản ngoại quốc tràn vào – đấy là mô hình hai bên cùng thắng[ii] mà Quĩ tiền tệ quốc tế và cục dự trữ liên bang Mĩ đưa ra cho nền kinh tế của các nước đang phát triển và cho nước Nga và Đông Âu hậu-Xô Viết.

Nhưng cùng với sự phát triển của Trung Quốc, “đồng thuận Bắc Kinh” có vẻ như càng ngày càng thuyết phục hơn. Trung Quốc đã tự khẳng định như một đối thủ của Mĩ về mặt kinh tế và sắp tới là về mặt quân sự mà còn  cạnh tranh với Mỹ  về mặt tư tưởng nữa: TQ có “sức mạnh mềm” về chính trị là khả năng quyến rũ của mình. .

Trong các nước đang phát triển mô hình của Trung Quốc đã thắng con bài “đồng thuận Washington”: nó có vẻ dễ thích nghi hơn là nền dân chủ “phương Tây” và đã thành công hơn trong vụ đối đầu với cuộc khủng hoảng trong các năm 2008-2009 do đối thủ của mình gây ra.  Nhập vào Ai Cập, “đồng thuận Bắc Kinh” thể hiện dưới dạng sau: chủ nghĩa tư bản và “mukhabarat” ( sự ngự trị của  bộ máy an ninh chìm).

  Độc tài chính trị phục vụ cho chủ nghĩa tư bản, trong  đó nhà nước đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế, trái ngược với chế độ dân chủ và tự do kinh doanh theo cách hiểu của phương Tây… Đây là trận chiến ý thức hệ mang tầm thế kỉ. Mô hình này đối chọi với mô hình kia. Trong những trường hợp như thế bao giờ cũng có một người Mĩ đứng lên chống lại phe mình và tiên tri sự suy sụp không thể tránh khỏi của nó trong một cuốn sách giật  gân. Trong trường hợp này là ông Stefan Halper.

Là một người từng làm việc trong lĩnh vực ngoại giao và là giáo sư đại học Cambridge (Anh), ông Halper cho xuất bản vào năm 2010 tiểu luận xuất sắc “Đồng thuận Bắc Kinh hay là làm sao mô hình độc tài Trung Quốc lại trở thành mô hình giữ thế thượng phong trong thế kỉ XXI”. Ý chính như sau: bằng thí dụ của mình Trung Quốc đã chứng minh rằng hệ thống độc đảng và tự do kinh doanh mà không có các quyền tự do chính trị có thể  là mô hình  thay thế mãnh liệt và có sức sống cho  mô hình chính phủ dân cử  của Mĩ.
 
Nhưng, sau đó một năm, những người trẻ tuổi  tập trung tại quảng trường Tahrir để lớn tiếng nói lên quan điểm của mình đã làm lung lay niềm tin của giáo sư Halper và nhiều người khác. .  Chẳng có gì chắc chắn rằng “đồng thuận Bắc Kinh” là thuốc trị bá bệnh .  Chẳng có gì chắc chắn là nó sẽ bảo đảm ổn định chính trị trong một thời gian dài. Và cũng  chẳng có gì chắc chắn là chế độ độc tài về mặt chính trị (dù nó có thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế) có thể bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.  Những ưu điểm của nền độc tài của Ben Ali và Mubarak cũng có những giới hạn.

Muốn cho  trung thực thì phải nói rằng người Trung Quốc chưa từng  cuồng tín lôi kéo ai theo mô hình của họ. Họ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chứ không xuất khẩu tư tưởng.  Cũng vì yêu cầu trung thực, cần phải thận trọng khi so sánh những nước khác nhau như là Trung Quốc và Ai Cập. Nhưng điều đó cũng không xóa bỏ ý nghĩa của sự kiện là các phương tiện truyền thông đại chúng Trung Quốc nói rất ít về  cuộc Nổi loạn trên quảng trường Tahrir: người ta cấm hết, chỉ được công bố thông tin của hãng thông tấn của nhà nước mà thôi, internet cũng bị kiểm soát gắt gao không kém. Dường như chính quyền Bắc Kinh cho rằng  những thanh niên Ai Cập mang theo họ một thông điệp lật đổ hơi quá rõ ràng.

Trong đất nước độc tài lớn khác, tức là nước Nga của Putin, báo chí có nhiều quyền tự do hơn. Quan điểm của báo giới về cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir  cũng không kém lý thú. “Mặc dù năm ngoái các bài phân tích chính trị đã làm ồn ào về sự mất ảnh hưởng của mô hình dân chủ phương Tây và sự gia tăng ảnh hưởng của mô hình độc tài (Trung Quốc, Singapore…), lịch sử không đứng về phía độc tài vì nó thiếu tính chính danh và có nghĩa là không ổn định rồi”, tờ The Moscow Times viết như thế trong một bài xã luận.

Các cuộc xuống đường của người hưu trí năm 2005 và những cuộc biểu tình ở thành phố Kaleningrad hồi năm ngoái là những hồi còi cảnh báo đầu tiên đối với chế độ của Putin. (...) Hi vọng rằng Điện Cẩm Linh có thể rút ra những bài học cần thiết từ cuộc Cách mạng Hoa Nhài ở Tunisia và những vụ phản đối ở Ai Cập trước khi quá muộn”, tờ báo này viết tiếp.  Bài báo kết luận một cách chán ngán : “Điện Cẩm Linh dường như tin rằng người Nga sẽ chịu đựng mãi mức sống nghèo khổ, nạn tham nhũng và sự dã man của chính quyền”.  Mubarak cũng đã từng nghĩ về người Ai Cập như thế ?



[i] Tác giả dùng từ “Grande Révolte” (cuộc nổi loạn lớn), nói lên tính chất « tự phát », ít chuẩn bị của sự kiện này, mà không dùng « Insurrection », như « Khởi nghĩa » của tiếng Việt, để chỉ một cuộc nổi dậy có chuẩn bị nhằm lật đổ chính quyền [dù mục tiêu này cũng dần dần được khẳng định, và thực ra dùng « khởi nghĩa » cũng không sai lắm đứng về mặt đánh giá phong trào, nhưng đây là vấn đề tôn trọng nguyên tác]. Có thể dùng « nổi dậy » chăng ? Người quyết định cuối cùng là anh.
[ii] “win-win”, theo tiếng Anh.

No comments:

Post a Comment