September 2, 2025

LÀM SAO SỐNG ĐƯỢC 100 TUỔI HAY BÀN VỀ ĐỜI SỐNG CHỪNG MỰC

 Luigi Cornaro (1464-1566 a.d.)

Phạm Nguyên Trường dịch


 

Bài thứ nhất: Bàn về đời sống đơn giản và mạnh khoẻ 

Mọi người đều đồng ý rằng, theo thời gian, tập quán trở thành bản tính thứ hai, buộc con người phải theo điều họ đã quen, dù tốt hay xấu; thực tế, trong nhiều trường hợp, chúng ta thấy thói quen lấn át cả lý trí. Điều này đúng đến nỗi, những người đức hạnh khi giao du với kẻ xấu thường rơi vào cùng một lối sống sa đọa. Thấy và suy xét tất cả những điều ấy, tôi quyết định viết về thói xấu ăn uống vô độ. 

Mặc dù mọi người đều công nhận rằng sự phóng túng là cha đẻ của thói tham ăn, còn sống tiết chế là con đẻ của sự điều độ; thế nhưng, vì sức mạnh của tập quán, điều phóng túng lại được xem là đức hạnh, còn sự tiết chế lại bị coi là hèn hạ và keo kiệt. Biết bao người mù quáng và mê muội đến mức, vừa mới bốn mươi hay năm mươi tuổi, họ đã mang trong mình những chứng bệnh kỳ lạ và đau đớn, khiến họ trở nên già yếu và vô dụng; trong khi đó, nếu họ sống điều độ và tiết chế, thì rất có thể họ sẽ còn khỏe mạnh và vui tươi đến tận tám mươi tuổi trở lên. Để khắc phục tình trạng này, con người cần sống thuận theo sự giản dị mà tự nhiên đã an bài. Tự nhiên dạy chúng ta phải bằng lòng với những gì ít ỏi, và tập cho mình thói quen chỉ ăn vừa đủ để duy trì sự sống, luôn ghi nhớ rằng mọi sự dư thừa đều sinh bệnh và dẫn đến cái chết. Biết bao người bạn của tôi — những người đàn ông thông tuệ và đáng mến nhất — đã bị cuốn đi giữa tuổi thanh xuân bởi sự dư thừa và ăn uống quá độ. Nếu họ sống điều độ, hẳn giờ đây họ vẫn còn hiện diện, là điểm sáng của xã hội, và tôi sẽ còn được đồng hành cùng họ trong niềm vui thay vì chịu sự mất mát đầy tiếc thương. 

Do đó, để chấm dứt một tệ nạn lớn như vậy, trong bài luận ngắn này, tôi quyết định chứng minh rằng sự thiếu điều độ là một sự lạm dụng có thể loại bỏ, và rằng lối sống tiết chế, giản dị xưa kia hoàn toàn có thể thay thế vào đó. Tôi càng sẵn lòng thực hiện điều này hơn nữa, bởi nhiều người trẻ có học thức đã khẩn khoản thúc giục tôi, vì cha mẹ họ phần lớn đều qua đời khi mới ở tuổi trung niên, trong khi tôi vẫn còn khỏe mạnh và vui tươi ở tuổi tám mươi mốt. Những người trẻ này mong muốn đạt tới cùng một tuổi thọ như tôi — điều mà thiên nhiên không hề ngăn cản, bởi khát vọng sống lâu là điều tự nhiên. Thật vậy, tuổi già chính là giai đoạn đời người có thể thực hành sự thận trọng một cách trọn vẹn nhất, và cũng là lúc được hưởng hoa trái của mọi đức hạnh khác trong sự bình yên nhất, vì các giác quan khi ấy đã lắng xuống, để con người hoàn toàn phó mặc cho lý trí. Họ nài nỉ tôi cho biết phương pháp mà tôi đã theo đuổi để đạt được điều đó; và nhận thấy họ đang theo đuổi một mục đích đáng ca ngợi, tôi quyết định bàn đến phương pháp này, hầu có thể giúp ích, không chỉ cho họ, mà còn cho tất cả những ai muốn đọc bài luận này. 

Vì vậy, tôi sẽ trình bày lý do khiến tôi từ bỏ sự thiếu tiết chế và hướng tới lối sống điều độ, rồi công khai phương pháp mà tôi đã áp dụng, cùng những hiệu quả tốt đẹp mà nó mang lại cho tôi; từ đó sẽ thấy được rằng, việc loại bỏ lối sống phóng túng thực ra dễ dàng biết bao. Cuối cùng, tôi sẽ chỉ ra những lợi ích và phúc lành của đời sống điều độ. 

Tôi xin nói rằng, chính một loạt những bệnh tật đã tàn phá thân thể tôi là động lực khiến tôi từ bỏ sự thiếu điều độ trong ăn uống — điều mà tôi đã từng nghiện. Hậu quả là dạ dày tôi bị rối loạn, tôi chịu nhiều cơn đau quặn thắt và chứng gút; nhưng tệ hại hơn cả là một cơn sốt âm ỉ, gần như triền miên, dạ dày thường xuyên rối loạn, và cơn khát không bao giờ dứt. Với những chứng bệnh ấy, điều duy nhất tôi còn có thể hy vọng chính là cái chết. 

Vì vậy, khi bước vào độ tuổi từ ba mươi lăm đến bốn mươi trong hoàn cảnh bất hạnh như thế, và đã thử mọi cách có thể nghĩ ra để chữa trị nhưng đều vô ích, các thầy thuốc cho tôi biết rằng vẫn còn một phương pháp duy nhất có thể vượt qua những chứng bệnh của tôi, với điều kiện tôi phải quyết tâm áp dụng và kiên trì theo đuổi. Phương pháp ấy là sống một đời sống nghiêm cẩn và điều độ, vốn sẽ đem lại hiệu quả lớn nhất; và về điều này, tôi có thể tự mình xác tín, bởi dù cơ thể tôi đã trở nên suy nhược vì bệnh tật, song chưa đến mức hoàn toàn suy sụp, nên một đời sống điều độ vẫn có thể giúp tôi hồi phục. Họ còn nói thêm rằng, nếu tôi không lập tức áp dụng lối sống nghiêm cẩn ấy, thì chỉ trong vài tháng tới tôi sẽ chẳng còn thu được lợi ích gì từ nó nữa, và rằng chỉ ít lâu sau, tôi sẽ phải phó mặc cho cái chết. 

Những lời lẽ này đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi, đến nỗi, dù đau khổ trước viễn cảnh phải chết khi còn đang ở tuổi xuân, và đồng thời bị hành hạ không ngừng bởi đủ loại bệnh tật, tôi lập tức quyết định, để tránh cả bệnh lẫn chết, rằng mình phải hướng về một nếp sống điều độ. Khi hỏi họ về những quy tắc cần tuân theo, họ bảo tôi chỉ được dùng thực phẩm — cả rắn lẫn lỏng — theo cách vốn được kê cho người bệnh, và phải hết sức tiết chế cả hai. Nói thật ra, trước đây họ cũng từng khuyên tôi như vậy, nhưng tôi đã thiếu kiên nhẫn với sự kiềm chế ấy, và cứ ăn uống thỏa thích những gì mình muốn. Thế nhưng, một khi tôi đã quyết tâm sống điều độ, thuận theo sự mách bảo của lý trí, và nhận ra rằng đó chính là bổn phận của mình với tư cách một con người, tôi đã bước vào nếp sống mới này với một quyết tâm lớn đến mức không gì có thể khiến tôi chệch hướng. Kết quả là, chỉ sau vài ngày, tôi đã bắt đầu cảm thấy lối sống ấy thực sự hợp với mình; và khi kiên trì theo đuổi, tôi nhận thấy rằng, chỉ chưa đầy một năm sau (dù có lẽ một số người sẽ khó tin), tôi đã hoàn toàn thoát khỏi mọi chứng bệnh trước kia. 

Sau khi hồi phục sức khỏe, tôi bắt đầu nghiêm túc suy xét sức mạnh của sự điều độ: nếu nó có hiệu lực đủ để chế ngự những chứng bệnh nghiêm trọng như của tôi, thì hẳn nó cũng có sức mạnh để duy trì sức khỏe và củng cố thể trạng vốn yếu ớt của tôi. Vì vậy, tôi đã chuyên tâm tìm ra những loại thực phẩm nào thực sự phù hợp nhất với mình. 

Trước hết, tôi quyết định thử xem những món ăn hợp khẩu vị có hợp với dạ dày hay không, để có thể kiểm chứng tính đúng đắn của câu tục ngữ vốn được nhiều người thừa nhận: “Cái gì ngon miệng thì cũng hợp với dạ dày”, hoặc “cái gì hợp khẩu vị thì đều lành mạnh và bổ dưỡng.” Kết quả là, tôi thấy câu tục ngữ ấy sai, vì tôi nhanh chóng nhận ra rằng nhiều thứ hợp khẩu vị lại không hợp với dạ dày. Tự mình xác tín rằng câu ấy là sai, tôi từ bỏ hẳn những loại thịt và rượu không hợp, và chỉ chọn những gì mà kinh nghiệm cho thấy là phù hợp với mình, lại chỉ dùng với lượng vừa đủ để dễ tiêu hóa, luôn chú trọng đến cả chất lẫn lượng; đồng thời sắp xếp sao cho không bao giờ làm đầy bụng vì ăn uống, mà luôn rời bàn ăn với cảm giác vẫn còn có thể ăn uống thêm nữa. Về điểm này, tôi đã làm theo câu tục ngữ dạy rằng: “Muốn giữ sức khỏe, con người phải kiềm chế sự thèm ăn.” Nhờ vậy, tôi đã chế ngự được sự phóng túng trong ăn uống, và hoàn toàn bước vào một đời sống điều độ và nề nếp. Chính điều đó đã mang lại cho tôi sự thay đổi như đã nói ở trên: chỉ trong vòng chưa đầy một năm, tôi đã thoát khỏi tất cả những chứng bệnh từng đeo bám tôi, vốn khi ấy tưởng chừng không thể chữa được. Nó còn có một tác dụng tốt khác: tôi không còn bị những căn bệnh hằng năm hành hạ như trước, khi tôi còn ăn uống phóng túng. Tôi cũng trở nên cực kỳ khỏe mạnh, và từ đó đến nay vẫn luôn như vậy; chỉ nhờ một điều đơn giản là tôi chưa bao giờ vượt quá giới hạn của sự nề nếp và điều độ nghiêm cẩn. 

Nhờ áp dụng những phương pháp này, tôi luôn được hưởng, và, tạ ơn Chúa, vẫn đang được hưởng, sức khỏe tuyệt hảo. Đúng là, ngoài hai quy tắc quan trọng nhất liên quan đến việc ăn uống mà tôi luôn rất cẩn thận tuân thủ (tức là không ăn quá nhiều, chỉ ăn những thứ hợp với mình), tôi đã cẩn thận tránh, trong khả năng có thể, mọi sự quá nóng, quá lạnh, mệt mỏi quá mức, gián đoạn giờ nghỉ ngơi thông thường và ở lâu trong không khí ô nhiễm. Tôi cũng đã làm tất cả những gì có thể để tránh những điều khó loại bỏ: u sầu, hận thù và những cảm xúc mãnh liệt khác, dường như có ảnh hưởng lớn nhất đến cơ thể con người. Tuy nhiên, tôi cũng không thể phòng ngừa hoàn toàn, đến mức đôi khi vẫn bị chúng cuốn đi. Nhưng tôi đã khám phá ra rằng, nhìn chung, những cảm xúc ấy không ảnh hưởng nhiều đến cơ thể được điều hành bởi hai quy tắc ăn uống kể trên. Galen, một y sĩ lừng danh, đã nói rằng, miễn là ông tuân theo hai quy tắc ấy, ông chỉ chịu rất ít rối loạn như vậy, ít đến nỗi chúng chẳng bao giờ khiến ông bận tâm quá một ngày. Lời ông quả thật là chân lý — chính tôi là một nhân chứng sống, và nhiều người khác biết tôi cũng thấy rõ, rằng bao lần tôi phải chịu đựng nóng lạnh, thời tiết khắc nghiệt, mà không hề tổn hại; lại thêm bao lần (do nhiều bất hạnh liên tiếp giáng xuống) tôi bị xáo trộn tinh thần nặng nề, song những việc ấy hầu như không gây hại cho tôi. Trái lại, những người thân trong gia đình tôi, vốn không sống theo cách của tôi, lại bị xáo trộn ghê gớm; nói tóm lại, những buồn phiền và chán nản của họ khi thấy tôi bị cuốn vào những vụ kiện tụng tốn kém, do những kẻ quyền thế khởi xướng chống lại tôi, đã khiến họ sợ tôi sẽ lụn bại, đến nỗi bị bao phủ bởi tâm trạng u sầu — thứ mà những người sống không điều độ thường mang sẵn trong mình; và điều đó ảnh hưởng nặng nề đến thân thể họ, đến mức sinh mệnh bị đoạt mất khi chưa tới tuổi. Trong khi đó, tôi không phải chịu đựng gì vào những lúc như thế, vì trong tôi không hề có những khí chất thừa thãi ấy; hơn nữa, để giữ vững tinh thần, tôi tự nhủ rằng Chúa đã cho phép những vụ kiện này xảy ra, cốt để tôi ý thức rõ hơn sức mạnh thể chất và tinh thần của mình; và rằng tôi sẽ chiến thắng vẻ vang, cùng với lợi lạc, như sự việc cuối cùng đã chứng nghiệm; bởi sau hết, tôi đã nhận được một sắc lệnh vô cùng thuận lợi cho cả vận mệnh lẫn danh dự của mình. 

Nhưng tôi có thể đi xa hơn một bước, và cho thấy đời sống điều độ có lợi cho sự hồi phục như thế nào khi xảy ra tai nạn. Ở tuổi bảy mươi, tôi tình cờ đi trên một cỗ xe ngựa, đang chạy với tốc độ cao, bị lật, và bị kéo đi một quãng khá xa trước khi bầy ngựa dừng lại. Tôi đã chịu nhiều cú va đập và bầm dập đến nỗi được kéo ra ngoài với đầu và thân thể thương tích nặng nề, cùng một chân và một cánh tay bị trật khớp. Khi các y sĩ thấy tôi trong tình trạng tồi tệ như vậy, họ kết luận rằng tôi khó sống quá ba ngày, song cũng muốn thử biện pháp chảy máu và tẩy xổ để ngăn viêm và sốt. Nhưng ngược lại, tôi, biết rõ nhờ đời sống điều độ bao năm mà huyết mạch của mình trong sạch và quân bình, đã từ chối cả việc chích máu lẫn tẩy xổ. Tôi chỉ cho nắn lại tay chân, và chịu để người ta xoa bóp bằng vài thứ dầu mà họ cho là thích hợp trong trường hợp đó. Nhờ vậy, không dùng thêm bất kỳ phương thuốc nào khác, tôi đã hồi phục đúng như tôi dự đoán, chẳng hề cảm thấy chút biến đổi nào trong thân thể, cũng chẳng chịu hệ lụy nào từ tai nạn ấy — một điều trong mắt các y sĩ chẳng khác gì phép lạ. Do đó, ta có thể suy ra rằng người nào sống chừng mực, điều độ, không sa vào ăn uống quá độ, thì ít khi phải chịu rối loạn tinh thần hay tổn hại do tai nạn bên ngoài. Trái lại, tôi kết luận, nhất là từ thử thách mới đây, rằng ăn uống phóng túng thường đưa đến tử vong. Bốn năm trước, tôi đã thuận theo lời thúc giục lâu nay của bạn bè và người thân mà tăng thêm hai ounce thức ăn, vì họ cho rằng lượng tôi dùng quá ít so với tuổi già. Tôi đáp rằng, bản tính con người vốn bằng lòng với ít, và chính nhờ lượng ít ỏi ấy mà tôi đã gìn giữ sức khỏe và sự nhanh nhẹn nhiều năm; rằng tuổi càng cao thì dạ dày càng yếu, nên xu hướng phải là giảm ăn chứ không phải thêm vào. Tôi còn nhắc họ hai câu tục ngữ: “Kẻ nào muốn ăn nhiều thì phải ăn ít; ăn ít thì sống lâu, mà sống lâu thì sẽ ăn được nhiều.” và “Phần ta bỏ lại sau một bữa ăn no nê, có lợi cho ta hơn những gì đã ăn vào.” Nhưng những lý lẽ và tục ngữ ấy không cản được họ trêu chọc mãi về việc này; nên, chẳng phải để tỏ ra ngoan cố hay ra vẻ biết nhiều hơn y sĩ, mà cốt để làm vui lòng gia đình, tôi đã thuận theo. Thế là, trong khi trước kia, với bánh mì, thịt, lòng đỏ trứng và súp, tôi ăn trọn mười hai ounce, không hơn không kém, thì nay tăng lên mười bốn; và trong khi trước kia tôi chỉ uống mười bốn ounce rượu vang, thì nay tăng lên mười sáu. Sự gia tăng này, chỉ trong vòng tám ngày, đã khiến tôi, từ chỗ vui vẻ hoạt bát, trở nên cáu kỉnh và u sầu, đến nỗi không gì có thể làm tôi hài lòng. Đến ngày thứ mười hai, tôi bị một cơn đau dữ dội bên hông, kéo dài hai mươi hai giờ, rồi tiếp theo là một cơn sốt triền miên ba mươi lăm ngày không thuyên giảm, đến mức mọi người đều coi tôi như kẻ sắp chết. Nhưng, tạ ơn Chúa, tôi đã hồi phục; và tôi tin chắc rằng chính sự đều đặn nghiêm cẩn bao năm qua, và chỉ nhờ đó mà thôi, đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của Tử thần. 

Sống có nề nếp và điều độ, chắc chắn là nguyên nhân và nền tảng vững chắc nhất cho sức khỏe và tuổi thọ; đúng hơn, tôi nói rằng đó là phương thuốc chân chính duy nhất, và bất cứ ai cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này sẽ đi đến kết luận như thế. Do đó, khi bác sĩ đến thăm bệnh nhân, điều đầu tiên họ kê đơn là sống điều độ, và nhất định phải tránh ăn uống thái quá. Nay, nếu bệnh nhân, sau khi hồi phục, vẫn tiếp tục sống như vậy, thì họ sẽ không thể mắc bệnh trở lại; và nếu một lượng thức ăn rất nhỏ đã đủ để phục hồi sức khỏe, thì chỉ cần thêm một chút ít cũng đủ để duy trì tình trạng đó. Như vậy, về sau, họ sẽ không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Không, bằng cách tuân thủ những gì tôi đã nói, họ sẽ trở thành bác sĩ của chính mình, và thực sự là vị thầy thuốc giỏi nhất mà họ có thể có; bởi trên thực tế, không ai có thể là bác sĩ hoàn hảo cho bất kỳ người nào khác ngoài chính mình. Lý do là: bất kỳ ai, thông qua những lần thử nghiệm lặp đi lặp lại, đều có thể đạt đến sự hiểu biết hoàn toàn về thể chất của chính mình, cũng như về những loại thức ăn, thức uống hợp với mình nhất. Những lần thử nghiệm ấy là cần thiết, vì bản tính và dạ dày của mỗi người vốn khác nhau. Tôi nhận ra rằng rượu cũ không hợp với tôi, nhưng rượu mới thì lại hợp; và sau một thời gian dài thực nghiệm, tôi còn phát hiện ra rằng nhiều thứ có thể không gây hại cho người khác, nhưng lại không tốt cho tôi. Vậy thì, thử hỏi có bác sĩ nào có thể cho tôi biết nên dùng loại nào, tránh loại nào, trong khi chính tôi, qua nhiều năm quan sát, mới dần khám phá ra? 

Do đó, không thể nào làm bác sĩ hoàn hảo cho người khác được. Một người không thể có vị chỉ dẫn nào tốt hơn chính bản thân mình, cũng không có thứ thuốc nào tốt hơn là một đời sống điều độ. Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng đối với việc chẩn trị những chứng bệnh phát sinh do kẻ sống buông thả thì không cần đến bác sĩ, hay nói rằng sự trợ giúp của họ nên bị xem nhẹ; những người ấy, khi lâm bệnh, hẳn nhiên phải lập tức tìm đến sự hỗ trợ y khoa. Nhưng, chỉ nhằm mục đích gìn giữ sức khỏe, thì theo tôi, chúng ta nên coi nếp sống điều độ như là thầy thuốc của mình; bởi nó giúp con người, kể cả những người có thể chất yếu đuối, vẫn duy trì được sức khỏe; khiến họ sống mạnh mẽ và vui tươi cho đến tuổi một trăm hoặc hơn, và không chết vì bệnh tật hay do sự suy đồi của thể dịch, mà chỉ đơn giản là bởi sự tàn lụi tự nhiên, điều cuối cùng vốn không thể tránh khỏi đối với tất cả. Nhưng ít người nhận ra được điều này, bởi phần lớn con người vốn ham mê dục lạc và thiếu điều độ, thích chiều theo dục vọng và buông mình trong mọi thái quá; và, để biện minh, họ thường nói rằng họ thích một cuộc sống ngắn ngủi mà tự mãn hơn là một cuộc sống dài lâu mà phải kiềm chế bản thân; họ không biết rằng những người hạnh phúc nhất chính là những người có thể chế ngự được dục vọng của mình. Tôi đã nghiệm ra điều đó, và tôi chọn sống điều độ, để có thể sống lâu và hữu ích. Nếu tôi không sống điều độ, tôi sẽ chẳng bao giờ viết được những bài luận này, mà tôi hân hoan nghĩ rằng chúng sẽ đem lại lợi ích cho người khác. Những kẻ ham mê khoái lạc cho rằng không ai có thể sống một đời sống điều độ. Tôi đáp rằng Galen, một đại y sư, đã sống như thế và đã chọn nó làm phương thuốc tốt nhất. Plato, Cicero, Isocrates, cùng nhiều vĩ nhân khác thời xưa cũng vậy — mà để khỏi làm bạn đọc mệt mỏi, tôi không tiện nêu hết tên. Và, trong thời đại chúng ta, có Giáo hoàng Paul Farnese và Hồng y Bembo; và chính nhờ vậy mà họ sống lâu như thế. Do đó, bởi nhiều người đã sống đời sống này, và nhiều người hiện nay vẫn đang sống nó, thì chắc chắn rằng ai ai cũng có thể tuân theo, nhất là vì nó không hề có khó khăn gì lớn lao. Cicero quả quyết rằng điều duy nhất cần thiết chỉ là phải nghiêm túc. Còn bạn nói rằng Plato, tuy bản thân ông sống điều độ, nhưng lại cho rằng trong các quốc gia cộng hòa, con người thường không thể sống như vậy, vì bị buộc phải chịu nhiều khó nhọc và biến động, vốn không thuận hợp với lối sống điều độ. Tôi đáp rằng, những ai buộc phải gánh chịu những điều ấy, thì sẽ càng có khả năng chịu đựng tốt hơn nhờ giữ cho mình tiết độ trong việc ăn uống. 

Có thể có người phản đối, cho rằng: người theo đuổi một đời sống nghiêm ngặt và điều độ, khi vốn đã quen dùng những thức ăn đơn giản, nhẹ nhàng như cho người bệnh, lại ăn với số lượng ít, thì lúc chính mình lâm bệnh sẽ chẳng còn cách ăn kiêng nào khác để dùng. Tôi xin trả lời rằng: bất kỳ ai có lối sống đều đặn, thì hầu như không thể mắc bệnh, hoặc nếu có, cũng rất hiếm và chóng khỏi. Khi nói đến đời sống đều đặn, ý tôi là: mỗi người phải tự tìm ra cho mình lượng thức ăn và thức uống ít đến mức nào là vừa đủ để đáp ứng nhu cầu hằng ngày; rồi sau khi đã xác định, và nhận ra những loại thích hợp nhất với thể trạng của mình, thì phải lập kế hoạch và nghiêm ngặt bám vào nguyên tắc ấy. Chớ để nay thì thận trọng, mai lại tự buông thả, vì sống như thế thì lợi ích chẳng được bao nhiêu. Trái lại, phải luôn giữ gìn để tránh thái quá – điều mà bất kỳ ai, nếu quyết tâm, cũng có thể làm được trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Bởi vậy, tôi nói rằng: người sống như thế thì khó mà mắc bệnh, hoặc nếu có cũng chỉ thỉnh thoảng, và trong một thời gian ngắn. Bởi nhờ sống điều độ, người ấy tiêu diệt hết mọi mầm mống của bệnh tật, loại bỏ nguyên nhân thì hậu quả cũng chẳng còn. Vì thế, ai theo đuổi đời sống điều độ và nghiêm ngặt thì chẳng cần sợ bệnh tật, vì máu huyết đã trở nên tinh khiết, trong sạch, không còn ứ đọng những tạp chất xấu, nên chẳng thể sinh bệnh. 

Do đó, bởi lẽ một đời sống điều độ vừa hữu ích vừa hợp đức hạnh, nó đáng để mọi người cùng noi theo. Lại càng nên hơn nữa, vì lối sống ấy không hề xung đột với bất kỳ bổn phận nào, mà lại dễ thực hành cho tất cả mọi người. Không phải ai cũng cần ăn ít như tôi – mười hai ounce – hoặc kiêng nhiều món mà tôi, do dạ dày vốn yếu, buộc phải tránh. Những ai hợp với mọi loại thực phẩm, thì có thể ăn tùy ý, chỉ cần nhớ: không được ăn vượt quá mức mà dạ dày có thể dễ dàng tiêu hóa, ngay cả đối với món ăn hợp nhất với mình. Uống cũng thế. Quy tắc duy nhất cần tuân theo trong ăn uống là giữ chừng mực về số lượng, hơn là câu nệ về chất lượng. Còn những ai thể trạng yếu như tôi, thì chẳng những phải cẩn trọng về số lượng, mà còn cả về chất lượng nữa – chỉ nên dùng những thức ăn thật đơn giản, dễ tiêu hóa. 

Xin đừng nói với tôi rằng có những người, dù sống rất thất thường, vẫn khỏe mạnh và trường thọ. Lập luận ấy chỉ dựa trên sự ngẫu nhiên và rủi ro, mà thật ra những trường hợp như thế vô cùng hiếm hoi. Vì vậy, con người không nên vì những ngoại lệ ấy mà tự cho phép mình buông thả hay sống phóng túng. Ai nương cậy vào sức vóc của bản thân mà khinh suất coi thường những điều tôi nêu ra, thì sẽ sớm phải gánh lấy hậu quả, sống trong nỗi hiểm nguy thường trực của bệnh tật và cái chết. Bởi thế, tôi khẳng định rằng: ngay cả người có thể chất yếu kém, nếu sống một cuộc đời nghiêm ngặt và tiết chế, thì chắc chắn an toàn và sống lâu hơn cả người có thể chất tốt nhất nhưng lại buông lung, bất cẩn và thất thường. Nếu con người thật sự muốn sống lâu và khỏe mạnh, và khi chết ra đi không phải vì bệnh tật thân xác hay tinh thần, mà chỉ đơn thuần vì sự tan rã tự nhiên của thể xác, thì nhất định phải thuận theo một đời sống điều độ và tiết chế. Bởi một đời sống như vậy sẽ giữ cho máu huyết trong sạch và tinh khiết, không để cho uế khí từ dạ dày bốc lên não. Nhờ thế, tâm trí người ấy luôn an nhiên, sáng suốt; có thể vượt khỏi những lo toan tầm thường nơi cõi thế để hướng đến sự chiêm nghiệm cao quý và tươi đẹp về những điều thuộc Thiên thượng, đem lại cho chính mình sự an ủi và hoan lạc vô song. Người ấy khi đó thật sự nhận ra sự hèn hạ và tàn bạo của những lạc thú thái quá mà con người thường sa vào – những thứ chỉ đem đến khổ đau ở đời này và cả đời sau. Trong khi đó, người tiết chế có thể thanh thản nhìn về một đời sống lâu dài, ý thức được rằng, nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, mình đã dứt bỏ nẻo đường truỵ lạc và phóng túng, quyết chẳng còn quay lại nữa; và nhờ công đức của Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô, người ấy sẽ được chết trong ân sủng của Ngài. Vì vậy, người ấy không bị ám ảnh hay đè nặng bởi ý nghĩ về cái chết, vì biết rằng cái chết sẽ chẳng đến với mình một cách dữ dội, bất ngờ, hay kèm theo những cơn đau quằn quại và sốt cao, mà sẽ đến nhẹ nhàng, êm dịu; như một ngọn đèn khi dầu đã cạn, người ấy sẽ lặng lẽ ra đi, không bệnh tật, từ cõi thế gian phàm tục này để bước sang đời sống Thiên quốc vĩnh hằng. 

Một số kẻ buông thả, nông nổi cho rằng: đa thọ đa nhục, rằng cuộc sống của một người đã qua tuổi bảy mươi lăm chẳng còn đáng gọi là sống. Nhưng nói thế là sai, như tôi sẽ chứng minh rõ ràng. Và đây là tâm nguyện chân thành của tôi: mong cho tất cả mọi người đều gắng sức đạt đến độ tuổi mà tôi đang được hưởng, để chính họ cũng có thể tận hưởng giai đoạn của đời người – giai đoạn đáng mong ước nhất.    

Vì vậy, tôi sẽ kể lại những thú vui của mình, và niềm hoan lạc mà tôi tìm thấy trong giai đoạn này của cuộc đời. Có nhiều người có thể làm chứng về hạnh phúc trong đời sống của tôi. Trước hết, họ ngạc nhiên khi thấy sức khỏe và tinh thần tôi tốt đến mức nào: tôi có thể cưỡi ngựa mà chẳng cần ai giúp, không chỉ leo cầu thang mà còn dễ dàng trèo lên một ngọn đồi. Rồi, họ thấy tôi vui tươi và hài hước biết bao; tâm trí tôi lúc nào cũng an định, vì niềm vui và sự bình an đã yên vị nơi lồng ngực tôi. Hơn nữa, họ biết tôi sử dụng thời gian của mình thế nào để chẳng bao giờ thấy đời sống là mệt nhọc: tôi dành những giờ khắc trong niềm hoan hỷ và thú vị, chuyện trò cùng những người có học thức và trí tuệ; rồi khi không có họ bầu bạn, tôi tìm đọc một cuốn sách hay. Khi đã đọc đủ theo ý mình, tôi lại viết, và trong việc viết ấy, cũng như trong mọi việc khác, tôi cố gắng để phục vụ người khác. Tất cả những điều này, tôi đều làm trong sự dễ chịu nhất, sống trong một ngôi nhà thoáng đãng, nằm ở khu phố đẹp nhất của thành Padua đáng kính này. Ngoài ngôi nhà, tôi còn có những khu vườn, với những dòng nước mát lành, nơi tôi luôn tìm được điều gì đó để làm, khiến lòng vui thích. Và những thú vui ấy chẳng hề kém phần ngọt ngào, vì tạ ơn Chúa, các giác quan của tôi vẫn còn nguyên vẹn, chẳng hề suy giảm; nhất là khẩu vị, nay còn thưởng thức trọn vẹn hơn những món ăn giản dị hiện tại, so với trước kia khi tôi còn sống thất thường mà dùng đến những của ngon vật lạ. Việc thay đổi giường nằm cũng chẳng làm tôi bận lòng: ở đâu tôi cũng ngủ ngon lành và yên tĩnh, lại còn mơ những giấc mơ an vui, dễ chịu. Niềm vui của tôi cũng thật lớn lao khi tận mắt chứng kiến sự thành công của một công trình trọng yếu đối với xứ sở này: việc tháo cạn và cải tạo biết bao vùng đất hoang. Công trình ấy khởi sự ngay trong ký ức của tôi, nhưng tôi từng nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ được thấy ngày nó hoàn tất; vậy mà nay tôi đã thấy, lại còn đích thân góp sức trong hai tháng liền, giữa những miền đầm lầy, dưới cái nóng mùa hè, mà chẳng hề thấy mình kém đi vì mệt nhọc hay bất tiện. Thật hiệu nghiệm biết bao là một đời sống có trật tự mà tôi kiên trì giữ gìn ở mọi nơi. Đó là đôi điều trong những thú vui và sự tiêu khiển của tuổi già tôi – một tuổi già còn đáng quý hơn cả tuổi già, hay thậm chí là tuổi trẻ của nhiều người khác. Bởi nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi được giải thoát khỏi những xao động của tâm trí và những bệnh tật của thân xác, nên chẳng còn phải trải qua những cơn dày vò của cảm xúc đối nghịch – đang hành hạ bao nhiêu người trẻ cũng như già, những người vì sống cẩu thả và phóng túng, mà thiếu sức khỏe, sức mạnh, và vì thế chẳng có được niềm vui đích thực. 

Và nếu được phép so sánh những chuyện nhỏ nhặt với những việc hệ trọng, tôi xin cả gan nói thêm rằng, chính nhờ cuộc sống tỉnh táo này mà ở tuổi tám mươi ba, tôi đã viết được một vở hài kịch vui tươi, tràn đầy những nụ cười hồn nhiên và những lời dí dỏm thú vị. 

Tôi còn có một niềm an ủi khác mà tôi muốn kể: đó là được chứng kiến một thứ bất tử trong dòng dõi con cháu nối tiếp nhau. Mỗi khi trở về nhà, trước mắt tôi lại hiện ra, không phải một hai, mà đến mười một đứa cháu – đứa lớn nhất mười tám tuổi – tất cả đều là con của một cha một mẹ, và tất cả đều được chúc phúc với sức khỏe dồi dào. Tôi chơi đùa với những đứa nhỏ nhất; những đứa lớn hơn thì tôi xem như bạn bè; và bởi thiên nhiên đã ban cho chúng những giọng hát hay, tôi tự mua vui bằng cách lắng nghe chúng ca hát và chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Thậm chí, chính tôi cũng hát, vì giờ đây giọng tôi hay hơn, vang và sáng hơn bất kỳ lúc nào trong đời. Đó là những thú vui tuổi già của tôi. 

Vì vậy, cuộc sống tôi không hề u ám, mà ngược lại, rất vui tươi. Tôi sẽ không đánh đổi nếp sống và mái tóc bạc này để lấy cuộc sống của một chàng trai trẻ, dẫu có thân thể cường tráng, nhưng lại buông mình theo dục vọng; bởi vì tôi biết rõ, những người ấy hằng ngày phải đối diện với muôn vàn bệnh tật và cái chết. Tôi nhớ lại cách sống của chính mình thuở trai trẻ, và tôi hiểu người trẻ thường liều lĩnh đến mức nào: dễ tự phụ vào sức mạnh, lại vì non nớt mà quá tin tưởng ở kỳ vọng của mình. Thế nên, họ thường lao vào đủ mọi nguy hiểm, gạt bỏ lý trí, cúi đầu dưới cái ách nặng nề của dục vọng, ra sức thỏa mãn ham muốn, mà không hề nhận ra – ngu muội thay – rằng chính như vậy, họ đã vội vã chuốc lấy những gì bản thân khiếp sợ nhất: bệnh tật và cái chết. 

Và đó chính là hai tai họa lớn đối với kẻ sống phóng túng: một là phiền não và đau đớn, còn lại thì khủng khiếp và không sao chịu đựng nổi; đặc biệt khi họ hồi tưởng đến những sai lầm mà kiếp sống phàm trần phải vướng vào, và đến sự phán xét mà công lý Thiên Chúa thường giáng trên kẻ tội lỗi. Còn tôi, nơi tuổi già này, tạ ơn Đấng Toàn Năng, được giải thoát khỏi những cực hình ấy: khỏi bệnh tật, vì tôi đã loại bỏ nguyên nhân của nó nhờ sự điều độ và chừng mực; và khỏi nỗi sợ chết, vì sau bao năm kinh nghiệm, tôi đã học biết sống thuận theo lý trí; nhờ đó, tôi chẳng những thấy thật điên rồ khi sợ điều không thể tránh, mà còn kiên tâm trông đợi sự an ủi từ ân sủng của Đức Giêsu Kitô khi tôi bước đến giờ ấy. 

Nhưng dù tôi biết mình, như mọi người khác, rồi cũng phải đi đến tận cùng ấy, song nó hãy còn xa vời đến nỗi tôi chưa thể nhận thấy, bởi tôi tin rằng mình sẽ không chết bởi tai ương nào khác ngoài sự tan rã tự nhiên; vì nhờ nếp sống điều độ, tôi đã khép lại mọi lối dẫn đến cái chết, ngăn cho các dịch thể trong thân xác không tấn công tôi bằng bất kỳ con đường nào khác ngoài con đường tất yếu vốn định bởi các yếu tố cấu thành thân thể phàm tục này. Tôi không ngây thơ đến mức quên rằng đã sinh ra thì phải chết; nhưng cái chết tự nhiên mà tôi nói đến kia không đến ngay, mà chỉ sau một quãng đời dài lâu; và đến khi ấy, tôi cũng chẳng mong phải chịu đựng những cơn đau đớn và thống khổ mà đa phần con người thường nếm trải trong giờ lâm chung. Trái lại, nhờ ơn Chúa, tôi tin rằng mình còn được hưởng nhiều năm sống khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, để thưởng thức vẻ đẹp của thế giới này – một thế giới quả thực tươi đẹp đối với những ai biết cách khiến nó trở nên tươi đẹp, và vẻ đẹp ấy chỉ hiện rõ với những người, nhờ sống tiết độ và đức hạnh, mà có được cả sức mạnh thể chất lẫn sự an hòa trong tâm hồn. 

Vậy thì, nếu lối sống chừng mực và điều độ này mang lại nhiều hạnh phúc đến thế; nếu những phúc lành đi cùng nó vững bền và lâu dài đến thế, thì tôi khẩn cầu mọi người có lương tri hãy nắm lấy kho báu vô giá ấy: một đời sống dài lâu và khỏe mạnh — kho báu vượt trội hơn mọi phúc lộc trần gian khác, và vì thế đáng để tìm kiếm; bởi giàu sang và dư dật thì có ích gì cho một người có thân xác yếu đuối và bệnh tật? Đây chính là Sự tiết độ thiêng liêng, đẹp lòng Thiên Chúa, bạn của thiên nhiên, con gái của lý trí, chị em của mọi nhân đức, bạn đồng hành của lối sống điều hòa; khiêm nhường, nhã nhặn, biết đủ, ngay ngắn, và hoàn toàn làm chủ mọi hành động. Từ Sự tiết độ, như từ gốc rễ chân chính, tuôn trào ra sự sống, sức khỏe, niềm vui, sự siêng năng, sự hiểu biết, và tất cả những công việc xứng đáng với tâm hồn cao quý và rộng lượng. Mọi luật lệ của Thiên Chúa đều nghiêng về phía Sự tiết độ. No nê, quá độ, phóng túng, khí huyết dư thừa, bệnh tật, cơn sốt, đau đớn và hiểm nguy của tử thần — tất cả đều tan biến trước mặt nó, như sương mù trước mặt trời. Vẻ đẹp của Sự tiết độ làm say đắm mọi tâm trí lành mạnh. Ảnh hưởng của nó chắc chắn đến mức có thể hứa ban cho mọi người một đời sống dài lâu và an hòa. Và sau hết, nó hứa sẽ là người bảo hộ dịu dàng và êm ái của sự sống, dạy con người cách xua tan những cuộc tấn công của tử thần. Sự tiết độ nghiêm ngặt trong ăn uống và ẩm thực làm cho giác quan và trí tuệ trở nên sáng suốt, ký ức bền chặt, thân thể nhanh nhẹn và mạnh mẽ, cử động khoan hòa và dễ dàng; và linh hồn, vì ít vướng bận gánh nặng trần tục, nên được hưởng nhiều tự do tự nhiên của mình. Như thế, con người tận hưởng một sự hòa điệu êm ái và dễ chịu, khi chẳng có gì trong cơ thể mình gây xáo trộn; bởi huyết mạch người ấy thanh khiết, chảy thông suốt trong mạch máu, còn nhiệt lượng thân thể thì ôn hòa, điều hòa. 

Bài 2: Chỉ ra phương pháp chắc chắn nhất để cải thiện thể trạng yếu kém 

Bài luận của tôi về đời sống tiết độ đã phần nào đạt được ý nguyện, khi đem lại lợi ích cho nhiều người sinh ra với thể chất yếu đuối, hoặc những người vì lối sống phóng túng mà trở nên suy nhược, đến nỗi chỉ cần sa vào chút quá độ liền thấy thân thể vô cùng khó chịu. Tôi lại càng vui mừng khi được giúp đỡ những ai vốn có thể chất khỏe mạnh, nhưng vì sống buông thả mà đến tuổi năm mươi hay sáu mươi lại mắc đủ chứng bệnh và đau đớn — như bệnh gút, đau thần kinh tọa, bệnh gan hay dạ dày — những thứ lẽ ra họ đã có thể tránh được, nếu chịu giữ đời sống điều độ nghiêm cẩn. Khi ấy, tuổi thọ của họ ắt sẽ được kéo dài, và cuộc đời thêm phần dễ chịu, an hòa; họ cũng sẽ bớt cáu kỉnh, và không còn bị quấy nhiễu bởi những điều nhỏ nhặt. Chính tôi đây cũng vốn rất hay cáu kỉnh, đến nỗi có khi thật khó mà sống chung với mình. Giờ đây, nhờ tiết độ, tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tất cả những ai sống cùng tôi đều nói rằng tính khí tôi đã dịu dàng, dễ chịu, và điều này khiến cho đời sống chung trở nên an hòa, vui vẻ hơn bội phần. Vì thế, sự tiết giảm là điều tất yếu, và người ta buộc phải tự kiềm chế, nếu muốn được khỏe mạnh, thanh thản và sống lâu. 

Một người có thể trạng yếu kém cũng có thể sống lâu và khỏe mạnh nhờ vào lý trí cùng lối sống điều độ, tỉnh táo. Tôi chính là một minh chứng: vốn sinh ra với thân thể tồi tệ nhất, đến nỗi tưởng như không thể vượt quá bốn mươi tuổi, thế mà nay tôi vẫn thấy mình tráng kiện và mạnh mẽ ở tuổi tám mươi sáu; tức đã sống thêm bốn mươi sáu năm so với điều tôi từng dự liệu. Trong suốt khoảng thời gian dài này, mọi giác quan của tôi vẫn nguyên vẹn; thậm chí cả răng, giọng nói, trí nhớ và trái tim. Hơn thế nữa, trí não tôi còn sáng suốt hơn trước kia. Không một năng lực nào trong tôi suy giảm theo tuổi tác; và đó là bởi càng về già, tôi càng giảm bớt lượng thức ăn đặc. Sự tiết giảm này là cần thiết, vì con người không thể sống mãi; và khi gần cuối đời, sức lực đã suy kiệt đến mức chỉ có thể hấp thụ rất ít, thì một lòng đỏ trứng cùng vài thìa sữa với bánh mì đã đủ cho cả ngày. Nhiều hơn thế rất có thể chỉ đem lại đau đớn và rút ngắn tuổi thọ. Về phần tôi, tôi tin rằng mình sẽ ra đi mà không trải qua đau đớn hay bệnh tật, và đó là một ân phước vô cùng lớn lao; ân phước này có thể đến với bất kỳ ai biết sống tỉnh táo, bất kể giàu hay nghèo. Và bởi lẽ một đời sống lâu dài, khỏe mạnh là điều ai cũng khao khát, tôi kết luận rằng mọi người đều có bổn phận phải nỗ lực để đạt được điều ấy; tuy nhiên, ân phước đó không thể có được nếu thiếu sự điều độ và tỉnh táo nghiêm ngặt. Song, có người cho rằng: nhiều kẻ, dù chẳng sống như vậy, vẫn đạt tới trăm tuổi trong tình trạng khỏe mạnh, dù ăn uống dư thừa và phóng túng với mọi loại thức ăn cùng rượu; từ đó họ tự trấn an rằng mình cũng sẽ may mắn như thế. Nhưng trong niềm tin ấy, họ mắc hai sai lầm: một là, trong năm mươi nghìn người mới có một người đạt tới hạnh phúc đó; hai là, những người như thế, rốt cuộc cũng vướng phải bệnh tật nào đó đem họ đi; và họ chẳng thể chắc chắn rằng đời mình sẽ khép lại theo cách khác. Vậy nên, con đường an toàn nhất để đạt đến một đời sống lâu bền và khỏe mạnh là sống tỉnh táo, cùng sự tiết chế nghiêm cẩn trong ăn uống. Mà điều này, kỳ thực, không hề quá khó. Lịch sử cho ta biết có nhiều người đã sống trong sự điều độ lớn lao; và ngay trong thời đại này cũng không ít, tôi coi mình là một trong số ấy. Chúng ta đều là con người, được ban cho lý trí, vậy nên phải làm chủ mọi hành động của chính mình. 

Tỉnh táo được quy giản về hai điều: chất lượng và số lượng. Chất lượng là tránh những món ăn hoặc đồ uống không hợp với dạ dày. Số lượng là tránh ăn uống vượt quá mức mà dạ dày có thể dễ dàng tiêu hóa. Mỗi người khi đã đến tuổi bốn mươi lẽ ra phải là quan tòa sáng suốt trong những việc này; và bất cứ ai tuân giữ hai quy tắc ấy đều có thể được coi là đang sống một đời sống điều độ và tỉnh táo. Đức hạnh và hiệu quả của đời sống như vậy chính là: các dịch thể trong máu trở nên hài hòa và quân bình, không còn dễ bị xáo trộn hay hư hại bởi bất cứ rối loạn nào — như nóng quá hay lạnh quá, lao lực quá nhiều hay thiếu nghỉ ngơi... Người sống theo cách tôi đã mô tả có thể đi qua tất cả những biến đổi ấy mà không hề hấn gì. Vì thế, khi các dịch thể của người tuân thủ hai quy tắc ăn uống này không thể bị hư hại và gây ra những cơn bệnh cấp tính (là nguyên nhân của chết yểu), thì mọi người đều có nghĩa vụ phải giữ chúng. Còn ai sống ngược lại, buông lung thay vì điều độ, thì sẽ thường xuyên phơi mình trước bệnh tật và tử vong. 

Quả thật, ngay cả những người giữ hai quy tắc ấy trong ăn uống — tức là đang sống một đời sống có trật tự — cũng vẫn có thể, vì một sự thái quá nào đó (như nóng quá, lạnh quá, lao lực, v.v.), mà cảm thấy khó chịu trong một hai ngày; nhưng họ không cần lo ngại, sẽ không có gì nghiêm trọng hết. 

Tuy nhiên, có những người, tuy đã cao tuổi, vẫn sống phóng túng, và viện cớ rằng số lượng hay chất lượng thức ăn chẳng ảnh hưởng gì với họ; bởi vậy họ ăn mọi thứ không phân biệt, uống cũng chẳng kiêng dè. Những người ấy hoặc là chẳng hiểu gì về nhu cầu thật sự của thân thể, hoặc là những kẻ phàm ăn. Tôi khẳng định: họ chẳng hề có sức khỏe tốt; trái lại, thường yếu ớt, cáu gắt, và đầy bệnh tật. Lại có những người cho rằng họ phải ăn uống thoải mái để giữ “nhiệt lượng tự nhiên”, vốn cứ giảm dần theo tuổi tác; rằng nhiệm vụ của họ là phải ăn uống thỏa thích những gì hợp khẩu vị, và, điều độ nghiêm ngặt, trong trường hợp của họ, sẽ chỉ làm đời ngắn lại. Đó là lý do — hay cái cớ — của hàng ngàn người. Nhưng tôi xin nói thẳng: họ đều tự dối mình. Tôi nói điều này dựa trên cả kinh nghiệm lẫn quan sát. Sự thật là: một cái dạ dày già không thể tiêu hóa nhiều thức ăn. Khi tuổi càng cao, con người càng yếu, sự thải bỏ trong cơ thể càng chậm lại, và nhiệt lượng tự nhiên cũng chắc chắn ít đi. Không một thứ thực phẩm nào trên đời có thể gia tăng được nhiệt lượng ấy, ngoài việc gây sốt và sinh ra rối loạn khổ sở. Do đó, chớ sợ rằng ăn ít sẽ rút ngắn ngày tháng của cuộc đời. Tôi đây vẫn mạnh khỏe, hứng khởi, không đau đớn, dẫu đã rất già và chỉ sống nhờ ăn uống rất ít. Và điều hợp với một người, cũng hợp với người khác. Khi lâm bệnh, người ta thường bỏ ăn, hoặc gần như bỏ hẳn. Thế thì, nếu bằng cách giảm ăn mà còn có thể cứu mình khỏi nanh vuốt tử thần, làm sao có thể nghi ngờ rằng, với một chút tăng thêm hợp lý, con người lại không đủ sức để duy trì thân thể khi đang khỏe mạnh? Xin hãy thử nghiệm thật lòng trong ít tuần thôi, và kết quả, tôi dám chắc, sẽ làm mọi người đều hài lòng. 

Có người cho rằng, thà sống ít đi mà buông thả, còn hơn sống lâu dài mà phải tự chế ngự mình. Nhưng chắc chắn rằng, tuổi thọ cần phải được trân trọng, và những ai có hiểu biết đều biết quý trọng nó; còn những kẻ không thực sự coi trọng món quà vĩ đại này của Thiên Chúa, thì chính là sự ô nhục cho nhân loại, và cái chết của họ lại hóa thành một sự phục vụ cho công chúng, chứ không phải không. Lại nữa, có những người, dù biết rõ rằng mình yếu dần khi tuổi cao, nhưng vẫn không chịu bớt ăn, mà còn tăng thêm. Và bởi thấy mình không thể tiêu hóa nổi lượng thức ăn khổng lồ nhồi nhét vào dạ dày hai hay ba lần mỗi ngày, họ bèn quyết định chỉ ăn một lần trong hai mươi bốn giờ, nhưng ăn cho thật nhiều. Song cách này hoàn toàn vô ích; dạ dày vẫn bị quá tải, thức ăn chẳng được tiêu hóa, mà biến thành những dịch thể độc hại, khiến máu bị nhiễm, và như thế, con người ấy tự giết mình sớm hơn rất nhiều so với định mệnh. Tôi chưa từng gặp một người cao tuổi nào còn khỏe mạnh mà lại sống theo cách ấy. Tất cả những người sống theo lối tôi vừa kể, nếu khi về già chịu giảm bớt số lượng thức ăn, ăn thường xuyên hơn, nhưng mỗi lần chỉ ăn một ít thôi, thì ắt sẽ sống lâu và hạnh phúc. Bởi dạ dày già yếu không thể tiêu hóa nhiều; con người ở tuổi này, chẳng khác gì trẻ con, cũng cần ăn ít và ăn nhiều lần trong suốt hai mươi bốn giờ. 

Ôi, tiết độ thiêng liêng gấp ba lần, thật hữu ích cho con người, bởi những ân huệ mà ngươi ban cho họ! Ngươi kéo dài ngày tháng của họ, nhờ đó trí tuệ được mở mang, và nhờ ánh sáng của hiểu biết, họ có thể tránh được những quả đắng của dục vọng – kẻ thù của lý trí. Ngươi còn giải thoát họ khỏi những ý nghĩ khủng khiếp về cái chết. Chúng ta phải biết ơn ngươi biết bao, hỡi tiết độ, vì nhờ ngươi mà ta được hưởng thế giới tươi đẹp này – thực sự tươi đẹp với tất cả những ai chưa bị sự no đủ làm tê liệt cảm quan, và tâm trí chưa bị dục vọng làm cho tàn úa! Thực sự, cho đến khi về già, tôi mới biết thế giới lại đẹp đến thế; vì khi còn trẻ, tôi đã bị những lối sống phóng túng làm mờ mắt, nên không thể cảm nhận và hưởng thụ cái đẹp của nó như hiện nay. Ôi, cuộc đời thật hạnh phúc biết bao, khi trên tất cả những ân huệ đã ban cho tôi, còn làm thân thể tôi được cải thiện và hoàn thiện đến mức: nay tôi thấy bánh mì thường còn ngon hơn những mỹ vị tinh xảo nhất mà trước kia tôi từng ưa thích! Quả thật, tôi thấy nơi đó một vị ngọt, bởi tôi luôn có khẩu vị tốt, đến nỗi có khi tôi sợ mình sẽ phạm tội bất tiết độ, nếu không xác tín vào sự cần thiết tuyệt đối của nó, và biết rằng bánh mì thuần khiết, trên hết, là món ăn tốt nhất cho loài người. Và khi sống tiết độ, con người sẽ không bao giờ thiếu món gia vị tự nhiên ấy – một cảm giác thèm ăn lành mạnh. Hơn nữa, tôi còn nhận ra rằng, trong khi trước kia tôi ăn hai bữa một ngày, thì nay, lúc đã già hơn, tốt hơn là nên chia thành bốn bữa, và giảm dần số lượng khi tuổi ngày một cao. Đó là điều tôi làm, được kinh nghiệm dẫn dắt; nhờ thế, tinh thần tôi chẳng bao giờ bị đè nặng vì quá no, mà luôn sảng khoái; đặc biệt là sau bữa ăn, tôi thường vui thích cất tiếng hát trước khi ngồi xuống viết.    

Tôi cũng chẳng bao giờ thấy mình khó chịu khi viết ngay sau bữa ăn; trái lại, trí tuệ của tôi khi ấy còn sáng suốt hơn, và tôi chẳng bao giờ buồn ngủ; bởi lượng thức ăn tôi dùng quá ít, không đủ để bốc hơi lên làm vẩn đục khối óc. Ôi, lợi lạc biết bao cho người già khi ăn ít! Vì thế, tôi chỉ ăn vừa đủ để giữ cho thân và tâm kết nối cùng nhau; và những thứ tôi dùng là: bánh mì, súp bánh mì, trứng (chỉ lòng đỏ), và các loại canh. Về thịt, tôi dùng thịt dê, thịt cừu; tôi cũng ăn gia cầm các loại, cùng cá biển và cá sông. Có người quá nghèo không thể tự cho mình những thức ăn ấy, nhưng họ vẫn có thể sống tốt nhờ bánh mì (làm từ bột mì nguyên cám, bổ dưỡng hơn nhiều so với bột mì tinh luyện), súp bánh mì, trứng, sữa và rau củ. Nhưng dẫu chỉ dùng những thứ này, con người vẫn phải nhớ: đừng ăn quá mức dạ dày có thể dễ dàng tiêu hóa; bởi chính sự quá độ mới làm hại, thậm chí còn hơn cả việc ăn nhầm thứ không hợp. Và một lần nữa, tôi xin nói: bất cứ ai không phạm sai lầm, cả về số lượng lẫn chất lượng, thì không thể chết vì bệnh tật, mà chỉ ra đi vì tuổi già tự nhiên, trừ những trường hợp hiếm hoi có bệnh di truyền; mà ngay cả khi ấy, một chế độ ăn uống điều độ và tỉnh táo cũng sẽ hữu ích vô cùng. 

Ôi, thật khác biệt biết bao giữa đời sống điều độ, tiết chế, và đời sống buông lung, phóng túng! Một bên đem lại sức khỏe và tuổi thọ; bên kia gieo rắc bệnh tật và chết yểu. Tôi đã mất biết bao người thân yêu và bạn hữu chỉ vì lối sống phóng túng của họ; trong khi nếu họ nghe tôi, hẳn đã có thể sống mạnh khỏe và tràn đầy sinh lực. Bởi vậy, nay tôi càng quyết tâm hơn bao giờ hết, để hết sức mình làm cho người ta biết lợi ích của nếp sống mà tôi theo đuổi. Nay, tuy đã già, tôi vẫn tràn đầy sinh lực và hân hoan, hạnh phúc hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây trong đời; được vây quanh bởi muôn vàn tiện nghi, trong đó có niềm an ủi lớn lao là mười một đứa cháu — tất cả đều thông minh, dễ mến, xinh đẹp và ham học hỏi. Tôi hy vọng sẽ dạy chúng noi gương tôi, mà đi theo nếp sống này. 

Tôi thường không hiểu nổi, vì sao những người có tài trí và học thức, khi đã đến tuổi trung niên, khi thấy bệnh tật bắt đầu bủa vây, lại không chịu quay về với một đời sống điều độ và kiên định. Phải chăng vì họ chưa biết tầm quan trọng của việc này? Chẳng lẽ họ lại bị nô lệ đến mức không thể tự kềm chế để giữ một chế độ ăn nghiêm ngặt và đều đặn? Còn những người trẻ tuổi, tôi chẳng ngạc nhiên khi họ khước từ đời sống như vậy; vì đam mê của họ mạnh mẽ, thường trở thành kẻ dẫn đường, và họ chưa có kinh nghiệm. Nhưng khi một người đã đến tuổi bốn mươi, năm mươi, thì hẳn phải để lý trí làm chủ trong mọi sự. Và lý trí sẽ dạy rằng: thỏa mãn khẩu vị và khoái lạc vị giác không phải là tự nhiên và chính đáng, như nhiều người ngộ nhận, mà chính là nguyên nhân gây ra bệnh tật và chết yểu. Nếu cái khoái lạc nơi vị giác ấy là lâu dài, thì còn có thể lấy đó làm cớ; nhưng nó chỉ thoáng chốc, so với quãng thời gian dài của những bệnh tật do sự dư thừa ấy gây ra. Trái lại, niềm an ủi lớn lao của người sống tiết độ là biết rằng: những gì mình ăn sẽ giữ cho mình mạnh khỏe, và chẳng bao giờ gây bệnh tật hay ốm đau. 

Bài 3: Phương pháp tận hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi về già 

Muôn tâu Đức Ngài, 

Khi viết đôi lời gửi đến Ngài, quả thật tôi sẽ chỉ nói về vài điều vốn đã được nhắc đến trong những tiểu luận trước đây; nhưng tôi tin chắc rằng Ngài sẽ không thấy mệt mỏi vì sự lặp lại ấy. 

Trước hết, muôn tâu Đức Ngài, tôi phải thưa rằng, nay ở tuổi chín mươi mốt, tôi lại khỏe mạnh và tráng kiện hơn bao giờ hết, khiến cho mọi người quen biết tôi đều hết sức kinh ngạc. Riêng tôi, bởi hiểu rõ nguyên do, nên có bổn phận phải chứng minh rằng: người ta vẫn có thể hưởng thụ thiên đường ngay trong cõi thế sau tuổi tám mươi; nhưng điều ấy không thể có được, trừ phi người ấy giữ mình trong sự tiết độ nghiêm ngặt về ăn uống – một đức tính làm đẹp lòng Thiên Chúa và phù hợp với lý trí. Tôi cũng cần thưa thêm rằng, trong mấy ngày qua, tôi đã được nhiều bậc học giả uyên thâm của trường đại học này lui tới thăm hỏi, cùng với các y sĩ và triết gia vốn am tường về tuổi tác, đời sống và lối sinh hoạt của tôi. Họ đều nhận thấy rằng tôi vẫn cường tráng, linh hoạt, tinh thần sáng suốt; các giác quan còn nguyên vẹn, giọng nói và răng vẫn chắc, trí nhớ và khả năng phán đoán vẫn minh mẫn. Họ cũng biết rằng, mỗi ngày tôi đều dành tám giờ liền để tự tay viết những khảo luận về những đề tài hữu ích cho nhân loại, và nhiều giờ khác để dạo bộ và ca hát. Ôi, thưa Đức Ngài, giọng hát của tôi nay đã trở nên thật du dương! Nếu Ngài có dịp nghe tôi ngâm xướng lời kinh – lại còn tự đệm bằng đàn lia, noi theo gương vua David – hẳn sẽ mang đến cho Ngài niềm hoan lạc lớn lao, bởi giọng tôi nay quả thật đã có nhạc điệu ngọt ngào. 

Bây giờ, những y sĩ và triết gia ấy nói với tôi rằng, quả thật chẳng khác nào một phép lạ khi ở tuổi của tôi mà tôi vẫn có thể viết về những chủ đề đòi hỏi cả sự phán đoán lẫn tinh thần. Họ còn thêm rằng, tôi không nên được xem là một kẻ già nua, bởi mọi công việc tôi đang làm đều là công việc dành cho thanh niên, và tôi hoàn toàn chẳng giống những người ở tuổi bảy mươi hay tám mươi, vốn thường phải chịu đủ thứ tật bệnh khiến đời sống thành ra gánh nặng; hoặc giả như có ai đó may mắn thoát khỏi cảnh ấy, thì các giác quan của họ cũng đã suy giảm, thị giác, thính giác hay trí nhớ đều kém đi, mọi năng lực đều tàn phai; họ không còn mạnh mẽ hay vui tươi như tôi. Họ cũng nói rằng, họ xem tôi như người được ban ân sủng đặc biệt, và đã nói ra nhiều lời hùng biện hoa mỹ để chứng minh điều đó. Tuy nhiên, họ đã không thể chứng minh được, bởi lập luận của họ không dựa trên những lý do đủ đầy và chính đáng, mà chỉ là ý kiến chủ quan. Vì vậy, tôi cố gắng vạch ra chỗ sai lầm và sửa cho đúng, đồng thời thuyết phục họ rằng: hạnh phúc mà tôi đang hưởng không chỉ riêng cho tôi, mà có thể dành cho toàn nhân loại. Bởi tôi cũng chỉ là một phàm nhân, không khác gì bao người khác, chỉ trừ việc tôi vốn sinh ra với thể chất yếu đuối, không có cái gọi là tạng người mạnh mẽ. Tuy nhiên, con người khi còn trẻ thường dễ bị dục vọng lôi kéo hơn là bởi lý trí. Nhưng khi đã đến tuổi bốn mươi – hoặc sớm hơn – thì nên nhớ rằng mình đã gần đến đỉnh cao của đời người, và từ đó phải nghĩ đến việc đi xuống, mang theo gánh nặng của năm tháng cuộc đời. Tuổi già trái ngược với tuổi trẻ, cũng như trật tự trái ngược với hỗn loạn; do đó, cần phải thay đổi lối sống, cả về phẩm chất lẫn số lượng đồ ăn thức uống. Vì, theo bản tính sự vật, con người mà cứ mải mê thỏa mãn sự thèm muốn thì không thể nào được mạnh khỏe và thoát khỏi tật bệnh. Vậy nên, để tránh thói xấu ấy và những hậu quả của nó, tôi đã chọn nếp sống điều độ và tỉnh táo. Dĩ nhiên, lúc ban đầu tôi cũng gặp ít nhiều khó khăn; nhưng để vượt qua, tôi đã cầu xin Đấng Toàn Năng ban cho tôi đức tiết độ trong mọi sự, vì tôi biết chắc rằng Ngài sẽ nhân từ đoái nghe lời cầu nguyện của tôi. Rồi tôi lại tự nhủ: một khi con người sắp thực hiện một việc hệ trọng, mà biết rằng mình có thể làm được, dù chẳng tránh khỏi khó khăn, thì anh ta sẽ khiến nó dễ dàng hơn rất nhiều cho chính mình, nếu kiên định theo đuổi mục đích. Tôi đã chọn con đường ấy: dần dần từ bỏ lối sống buông thả, để rèn mình vào kỷ luật tiết độ nghiêm ngặt. Và quả thật, nếp sống điều độ và tỉnh táo đã chẳng còn gì khó chịu; tuy nhiên, vì thể chất tôi vốn yếu, nên tôi tự buộc mình phải theo những quy tắc hết sức nghiêm khắc về số lượng và phẩm chất của mọi thứ tôi ăn và uống. 

Những người khác, may mắn được ban cho thể chất cường tráng, có thể ăn uống phong phú hơn, với số lượng nhiều hơn đôi chút; song mỗi người cần phải làm người hướng đạo cho chính mình, luôn tham khảo phán đoán và lý trí, chứ đừng chiều theo sở thích hay khẩu vị. Hơn nữa, hãy kiên trì tuân thủ những quy tắc của mình, vì sẽ chẳng có lợi ích gì nếu thỉnh thoảng lại ăn uống quá độ. 

Khi nghe những lập luận ấy, và xét kỹ những lý do làm nền tảng cho chúng, các y sĩ và triết gia đều đồng tình rằng tôi chẳng nói gì ngoài lẽ thật. Một trong số những người trẻ tuổi hơn nói rằng tôi dường như được hưởng ân sủng đặc biệt: có thể dễ dàng từ bỏ một lối sống này để đón nhận một lối sống khác — điều mà anh ta biết, về lý thuyết thì khả thi, nhưng trên thực tế lại hết sức khó khăn; bởi đối với anh, điều đó khó nhọc bao nhiêu, thì với tôi lại dễ dàng bấy nhiêu. 

Tôi đáp rằng: cũng là phàm nhân như anh, tôi cũng từng thấy đây chẳng phải là việc dễ dàng. Nhưng một con người chân chính chẳng thể vì khó khăn mà chùn bước trước một nhiệm vụ vừa vinh quang vừa thiết thực; bởi càng nhiều trở ngại để vượt qua, thì vinh dự và lợi ích càng lớn. Đấng Tạo Hóa nhân từ của chúng ta muốn rằng, cũng như lúc khởi nguyên Ngài đã ban cho bản tính loài người sự trường thọ, thì tất cả chúng ta đều phải được hưởng trọn vẹn Ý định của Ngài. Ngài biết rằng khi con người đã qua tuổi bảy mươi, thì có thể thoát khỏi những dục vọng xác thịt, và sống hoàn toàn theo tiếng gọi của lý trí. Khi ấy, tật xấu và vô luân sẽ rời xa họ; và Thiên Chúa muốn họ sống trọn vẹn tuổi thọ tự nhiên của mình, và đã định rằng những ai đạt đến tuổi ấy sẽ lìa đời mà không bệnh tật, mà chỉ do sự tan rã tự nhiên; bánh xe đời sống khẽ dừng lại, và con người bình an rời thế gian này để bước vào cõi bất tử. Đó cũng sẽ là trường hợp của tôi; bởi tôi chắc chắn sẽ lìa đời như vậy — có lẽ ngay trong khi đang cầu nguyện. Tôi chẳng bận lòng trước ý nghĩ về cái chết; cũng chẳng hề sợ hãi điều gì liên quan đến nó, kể cả trừng phạt dành cho kẻ gian ác. Bởi tôi tin chắc rằng, là một tín hữu Cơ Đốc, tôi sẽ được cứu chuộc nhờ công đức huyết chí thánh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến để cứu rỗi những ai tin cậy nơi Ngài. Ôi, đời tôi đẹp biết bao! Và kết cục của tôi hạnh phúc biết chừng nào! Vị y sĩ trẻ nghe xong chẳng biết đáp lại thế nào, ngoài việc nói rằng anh sẽ theo gương tôi. 

Muôn tâu Đức Ngài, khao khát được trò chuyện cùng Ngài, dẫu ở nơi xa cách, đã thôi thúc tôi phải dài lời, và vẫn buộc tôi tiếp tục, dù không thể nói nhiều hơn nữa. Có những kẻ theo đuổi khoái lạc quả quyết rằng tôi đã phí hoài thì giờ và công sức vào việc viết một chuyên luận về tiết độ, cùng những khảo luận khác xoay quanh cùng một chủ đề; họ cho rằng, lối sống ấy vốn bất khả thi, nên tác phẩm của tôi chẳng đem lại ích lợi nào, chẳng khác nào chuyên luận về Chính thể của Platon, vị hiền triết đã nhọc công dâng hiến một ý tưởng mà thiên hạ cho là không thể thực hiện được. Điều ấy, muôn tâu Đức Ngài, khiến tôi hết sức kinh ngạc; bởi họ hẳn đã thấy rằng tôi đã sống cuộc đời tiết độ từ nhiều năm trước khi cầm bút soạn chuyên luận, và tôi quyết sẽ chẳng bao giờ viết ra nó, nếu không tin chắc rằng ấy là một nếp sống mà bất kỳ ai cũng có thể giữ; và hơn thế, vì đó là một đời sống đức hạnh, nên sẽ mang lại nhiều lợi ích cho con người. Chính vì vậy, tôi tự cảm thấy mình có bổn phận phải phơi bày nó trong ánh sáng chân thật. Lại nữa, niềm an ủi lớn lao cho tôi là được nghe tin rằng có nhiều người, sau khi đọc chuyên luận của tôi, đã thực sống tiết độ. Cho nên, mọi phản bác dựa trên thí dụ Platon bàn về Chính thể đều không hề có sức nặng đối với trường hợp của tôi. Quả vậy, kẻ theo đuổi khoái lạc chính là kẻ thù của lý trí, và là nô lệ cho những dục vọng của mình. 

Bài 4: Lời khuyên sống điều độ và tiết độ để sống đến già 

Để không lơ là bổn phận của mình, và cũng để không đánh mất niềm vui khi được là người có ích cho người khác, tôi lại cầm bút, hầu chia sẻ với những ai, vì không có dịp chuyện trò cùng tôi, mà chưa biết điều vốn quen thuộc với những người từng thân cận và chứng kiến đời tôi. Có những điều, thoạt nghe tưởng như khó tin, nhưng thực ra lại hoàn toàn chân thật; và vì lợi ích của mọi người, tôi nguyện sẽ không ngần ngại mà kể lại. Vậy thì nay, khi đã bước vào năm thứ chín mươi lăm của đời mình — tạ ơn Thiên Chúa — mà vẫn còn khỏe mạnh, an vui, lòng đầy mãn nguyện, tôi không ngớt cảm tạ Đấng Tối Cao vì hồng ân lớn lao ấy, nhất là khi so sánh với cảnh thường thấy nơi tuổi già của con người. Bởi lẽ, hiếm có ai vượt qua tuổi bảy mươi mà vẫn giữ được sức khỏe và tinh thần, thay vì u uất và gắt gỏng. Lại nữa, khi nhớ đến những năm tháng ba mươi đến bốn mươi tuổi, tôi vốn yếu đuối, ốm yếu, và ngay từ đầu chưa bao giờ có cái mà người ta gọi là thể chất cường tráng, thì tôi càng có vô vàn lý do để tri ân. Tôi biết rằng mình khó có thể sống thêm được bao nhiêu năm nữa, nhưng ý nghĩ về cái chết không hề khiến tôi bận lòng; trái lại, tôi còn vững tin rằng mình sẽ sống đến một trăm tuổi. Và để cho bài luận này được mạch lạc hơn, tôi sẽ bắt đầu từ buổi sơ sinh của con người, rồi lần lượt theo họ qua từng chặng của cuộc đời, cho đến lúc họ trở về với cõi chết. 

Tôi nói rằng: có những người sinh ra đã quá yếu, đến nỗi chỉ sống được vài ngày, vài tháng, hoặc vài năm; và không phải lúc nào ta cũng dễ dàng tìm thấy nguyên do cho sự ngắn ngủi ấy. Có những người khác, sinh ra khỏe mạnh, hoạt bát, nhưng lại mang một thể chất hư hao; họ có thể sống đến mười, hai mươi, hoặc ba mươi, bốn mươi tuổi, nhưng hiếm ai trường thọ. Lại có người bước vào đời với một thể trạng hoàn toàn tốt, và sống đến già; nhưng phần nhiều, như tôi từng nói, tuổi già ấy lại chất chứa bệnh tật và khổ não. Và nguyên nhân, thường là do chính họ: họ quá ỷ lại vào cái vốn liếng tự nhiên của mình, nên khi đã già vẫn không chịu đổi khác, mà cứ sống buông thả, phóng túng, như thuở thanh niên. Họ chẳng nghĩ rằng bao nhiêu sức nóng và sinh lực nơi dạ dày đã suy giảm, nên càng phải cẩn trọng hơn về phẩm chất và số lượng đồ ăn thức uống. Trái lại, thay vì giảm bớt, nhiều người lại tăng lên, cho rằng khi sức khỏe hao mòn thì cần bù đắp bằng ăn uống thật nhiều, vì nhờ đó mà sự sống mới được duy trì. 

Nhưng sai lầm lớn đã xảy ra chính ở chỗ này; vì khi sức mạnh và sức nóng tự nhiên giảm dần theo tuổi tác, người nên giảm ăn và uống, vì bản chất ở giai đoạn đó đã bằng lòng với ít thức ăn; và hơn nữa, nếu việc tăng dinh dưỡng là đúng đắn, thì chắc chắn phần lớn người ta sẽ sống rất thọ với sức khỏe tốt nhất. Bởi lẽ, khi sức mạnh và nhiệt lực tự nhiên đã suy, thì con người nên tiết giảm ăn uống, bởi lúc ấy, bản thân tự nhiên chỉ còn cần rất ít. Hơn nữa, nếu việc gia tăng dinh dưỡng thực sự là đúng, thì hẳn phần đông nhân loại đã sống thọ mà vẫn cường tráng. Nhưng có phải vậy chăng? Không. Trái lại, điều ấy chỉ là trường hợp hiếm hoi. Trong khi đó, lối sống của tôi đã được chứng nghiệm là đúng đắn, bởi chính kết quả của nó. Thế nhưng, dù nhiều người có đủ lý do để tin như vậy, họ vẫn tiếp tục thói quen cũ, vì tính khí yếu hèn và vì lòng ham ăn uống no nê. Nếu họ chịu tập rèn đức tiết độ kịp thời, thì tuổi già của họ đã không đến nỗi bệnh hoạn yếu nhược, mà còn có thể, như tôi đây, vẫn mạnh mẽ, cường tráng, và sống đến một trăm, thậm chí một trăm hai mươi tuổi. Điều này đã từng thấy ở nhiều người khác mà ta đọc trong sách vở: họ vốn có thể chất tốt, sống điều độ và tiết chế. Nếu số phận ban cho tôi một thể chất cường tráng từ đầu, thì tôi sẽ không nghi ngờ gì rằng mình sẽ đạt đến tuổi ấy. Nhưng bởi tôi sinh ra vốn đã yếu đuối, với một thân thể bất toàn, nên e rằng khó lòng vượt quá một trăm tuổi. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu những ai sinh ra cũng yếu ớt như tôi mà biết giữ cho mình một đời sống như tôi, thì họ cũng sẽ sống đến một trăm tuổi, như chính tôi vậy. 

Mà sự chắc chắn rằng mình có thể sống lâu như thế, theo tôi, là một ân huệ lớn lao — dĩ nhiên, không kể đến tai nạn bất ngờ, vốn người nào cũng có thể gặp, và điều ấy phải hoàn toàn phó thác cho Đấng Tạo Hóa. Ân huệ này, thật đáng quý trọng; và chẳng ai có thể chắc chắn nắm giữ được, ngoại trừ những người bước đi trong kỷ luật của tiết độ. Sự bảo đảm của đời sống ấy dựa trên những nguyên lý tự nhiên vững chắc, không bao giờ sai lầm. Bởi lẽ, người sống một đời thật sự tỉnh táo và tiết chế, thì không thể sinh bệnh, cũng không thể chết yểu. Họ không thể chết sớm vì bệnh tật, vì chính nếp sống điều độ đã loại bỏ gốc rễ của bệnh tật; mà khi nguyên nhân ấy không còn, thì bệnh tật cũng mất, và cái chết đau đớn, bất đắc kỳ tử, cũng theo đó mà được ngăn ngừa. 

Và không còn nghi ngờ gì nữa: điều độ trong ăn uống — chỉ dùng vừa đủ theo nhu cầu thực sự của thân thể, được dẫn dắt bởi lý trí thay vì bởi dục vọng — có hiệu lực loại bỏ mọi nguyên nhân gây bệnh. Bởi sức khỏe hay bệnh tật, sự sống hay cái chết, đều tùy thuộc vào tình trạng của máu và phẩm chất của các dịch thể trong con người; cho nên lối sống như tôi nói ở đây sẽ thanh lọc máu, điều hòa các dịch thể xấu, khiến cho toàn thân trở nên hài hòa, viên mãn. Đúng là, và không thể chối cãi, cuối cùng con người vẫn phải chết, dẫu có chăm sóc bản thân kỹ lưỡng đến đâu; nhưng tôi quả quyết: cái chết ấy không nhất thiết đi kèm với bệnh tật hay đau đớn lớn. Với riêng tôi, tôi kỳ vọng sẽ ra đi trong êm ái và bình yên, và chính tình trạng hiện tại của tôi bảo chứng cho điều đó: vì, dù tuổi đã cao, tôi vẫn mạnh khỏe và mãn nguyện, ăn ngon, ngủ yên. Hơn nữa, mọi giác quan của tôi vẫn còn vẹn toàn, tinh tế như thuở trước; trí óc tôi sáng sủa, sự phán đoán sắc bén, ký ức bền chặt, tinh thần hân hoan, và giọng nói tôi — vốn thường là điều đầu tiên suy yếu nơi người già — lại ngày càng vang dội, đầy sinh khí, đến nỗi tôi không thể không cất tiếng nguyện cầu thành tiếng, sáng cũng như tối, thay vì thì thầm hay lẩm bẩm như trước kia. 

Ôi, cuộc sống của tôi rạng rỡ biết bao, tràn ngập mọi hoan lạc mà con người có thể hưởng thụ khi còn ở bên này nấm mồ! Nó hoàn toàn thoát khỏi sự thô bạo của những dục vọng xác thịt, vốn đã bị lý trí của tuổi tác xua tan. Vì thế, tôi không còn bị dày vò bởi đam mê, tâm hồn tôi bình thản, thoát khỏi mọi xao động và mọi lo âu nghi ngại. Ý nghĩ về cái chết cũng chẳng có chỗ chen vào tâm trí tôi, chí ít là không làm tôi rối bời. Và tất cả điều này là ân huệ của Thiên Chúa, nhờ vào thói quen sống cẩn trọng của tôi. Thật khác xa với cảnh đời của phần đông người già, đầy những đau nhức và dự cảm chẳng lành, trong khi đời tôi là một đời sống khoái lạc thực sự, dường như trôi qua trong vòng xoay bất tận của những niềm vui, như tôi sẽ minh chứng ngay sau đây. 

Trước hết, tôi được phục vụ cho đất nước — và đó là một niềm hạnh phúc lớn lao. Tôi tìm thấy niềm vui vô hạn trong việc tham gia các công cuộc cải tiến khác nhau, liên quan đến cửa biển, hải cảng và các công trình phòng thủ quan trọng của thành phố này. Và dẫu Venice — Nữ hoàng của Biển cả — đã rất diễm lệ, tôi vẫn đề ra những cách thức để làm cho thành phố thêm giàu đẹp; tôi đã chỉ ra cách để nơi đây trở nên sung túc về lương thực, bằng việc cải tạo những vùng đất rộng lớn, biến đầm lầy và cồn cát khô cằn thành đồng ruộng phì nhiêu. Rồi nữa, tôi còn có một niềm vui lớn khác luôn hiện diện. Cách đây ít lâu, tôi mất đi một phần lớn thu nhập, điều ấy hẳn sẽ khiến các cháu tôi chịu thiệt thòi lớn. Nhưng nhờ sức mạnh của tư duy, tôi đã tìm ra một phương cách đúng đắn, chắc chắn và bền vững để bù đắp gấp đôi khoản mất ấy, bằng việc áp dụng một cách khôn ngoan nghệ thuật cao quý nhất: nông nghiệp. Một niềm an ủi nữa đối với tôi là được biết chuyên luận của mình về sự tiết độ quả thật hữu ích; nhiều người bảo trực tiếp với tôi, và nhiều người khác viết thư cho tôi, nói rằng nhờ ơn Chúa, họ đã mang ơn tôi về chính sự sống của họ. Tôi cũng hân hoan vì còn có thể viết lách, nhờ đó mà vừa hữu ích cho mình, vừa có ích cho người khác. Niềm thỏa mãn mà tôi có được khi đàm đạo với những bậc tài năng, trí tuệ siêu việt, thật vô cùng lớn lao; và từ họ, tôi luôn học hỏi thêm được điều mới. Quả là một an ủi tuyệt vời: ở tuổi già như thế này, tôi vẫn còn có thể, không mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần, để miệt mài tham gia, và chuyên tâm nghiên cứu những chủ đề quan trọng, khó khăn và cao cả nhất. 

Tôi phải nói thêm rằng, ở tuổi này, dường như tôi đang sống trong hai cuộc đời: một cuộc đời trần thế, vốn là hiện hữu thực sự của tôi; và một cuộc đời thiên thượng, vốn đang hiện hữu trong tư tưởng của mình. Mà tư tưởng ấy chính là sự hưởng thụ đích thực, bởi nó được xây dựng trên những điều chắc chắn sẽ đạt tới. Tôi, nhờ lòng thương xót và nhân lành vô hạn của Thiên Chúa, hoàn toàn tin chắc vào sự sống đời đời. Thế nên, tôi hưởng trọn cuộc đời trần thế nhờ vào sự tỉnh thức và tiết độ – những đức hạnh đẹp lòng Thiên Chúa; đồng thời, nhờ ân sủng của Ngài, tôi cũng được nếm trước trong tư tưởng về đời sống thiên thượng, một tư tưởng sống động đến mức cuốn trọn tâm trí tôi vào đối tượng ấy, mà kết quả của nó, tôi tin, là điều chắc chắn nhất. Tôi cũng khẳng quyết rằng: cái chết theo cách tôi mong chờ thực ra không phải là chết, mà chỉ là sự chuyển tiếp của linh hồn từ cuộc sống trần gian sang cuộc sống thiên thượng – bất tử và tuyệt đối hoàn hảo. Không thể nào khác được. Và ý nghĩ ấy thật êm dịu, thật siêu việt, đến nỗi không còn có thể cúi xuống bận tâm với những sự việc thấp hèn, tầm thường – như cái chết của xác thân – bởi toàn bộ tâm hồn đã được cuốn trọn vào niềm hạnh phúc của một đời sống thần thánh trên trời. Bởi thế, tôi thực sự đang sống hai cuộc đời; và ý niệm về sự chấm dứt đời sống trần gian này chẳng khiến tôi bận lòng, bởi tôi biết rằng phía trước là một cuộc sống vinh quang và bất tử. 

Vậy thì, có lẽ nào một người lại có thể chán nản trước niềm an ủi và phước lành lớn lao như thế – điều mà phần nhiều ai ai cũng có thể đạt được, chỉ bằng cách sống như tôi đã sống – một tấm gương mà bất kỳ ai cũng có thể noi theo? Bởi tôi chẳng phải là thánh nhân, mà chỉ là một con người bình thường, một tôi tớ của Thiên Chúa; và chính đời sống điều độ, đều đặn như thế lại trở nên vô cùng đẹp lòng Ngài. 

Giờ đây, có những người theo đuổi đời sống tâm linh và chiêm niệm, và đó là điều thánh thiện, đáng khen ngợi; công việc chính của họ là ca ngợi Thiên Chúa và dạy người ta cách phụng sự Ngài. Nếu những người này, trong khi dấn thân vào nếp sống ấy, cũng đồng thời thực hành tiết độ và tỉnh táo, thì họ sẽ trở nên đẹp lòng Thiên Chúa và con người biết bao. Họ sẽ là vinh dự và trang sức lớn lao cho thế gian; họ cũng sẽ hưởng sức khỏe và hạnh phúc bền lâu, đạt tới tuổi thọ cao, và nhờ thế trở thành những người vô cùng khôn ngoan và hữu ích. Thế nhưng, hiện nay, phần nhiều họ lại yếu đuối, dễ cáu kỉnh và bất mãn, và cho rằng những thử thách cùng bệnh tật khác nhau của họ là do Thiên Chúa Toàn Năng gửi đến, cốt để thúc đẩy sự cứu rỗi của họ, để họ sám hối trong đời này cho những lầm lỗi đã qua. Song tôi không thể không nói rằng, theo ý kiến của tôi, họ đã sai lầm; bởi tôi không thể tin rằng Đấng Tối Cao lại muốn cho con người — tạo vật được Ngài yêu quý — phải sống yếu ớt và u sầu, thay vì được hưởng sức khỏe tốt và hạnh phúc. Con người tự chuốc lấy bệnh tật và đau yếu, hoặc bởi thiếu hiểu biết, hoặc do cố tình buông thả. Vậy, nếu những người tự nhận là thầy dạy chúng ta về các sự việc thiêng liêng cũng đồng thời làm gương, dạy người ta biết giữ gìn thân thể khỏe mạnh, thì họ sẽ góp phần rất lớn khiến con đường lên Thiên Đàng trở nên dễ dàng hơn. Con người cần được dạy rằng: hy sinh và tiết độ nghiêm ngặt là con đường đưa đến sức khỏe của cơ thể và lành mạnh của tâm trí; và ai sống như thế sẽ thấy rõ hơn người khác bổn phận của mình đối với Đấng Cứu Rỗi chúng ta là Đức Giê-su Kitô, Đấng đã xuống tràn thế để đổ ra huyết báu của Ngài hầu giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của ma quỷ — một minh chứng cho lòng nhân từ và yêu thương vô bờ của Ngài dành cho nhân loại. 

Bây giờ, để kết thúc bài luận này, tôi xin nói rằng: bởi lẽ tuổi thọ chất chứa biết bao ân huệ và phước lành, và tôi, không phải bằng lý thuyết mà bằng chính kinh nghiệm quý báu của bản thân, có thể làm chứng cho điều ấy — thực vậy, tôi long trọng bảo đảm với toàn thể nhân loại rằng tôi thực sự được hưởng nhiều hơn những gì có thể kể ra. Tôi không có mục đích nào khác khi viết ra đây ngoài việc chứng minh những lợi ích to lớn phát sinh từ tuổi thọ và từ một đời sống như tôi đã sống. Tôi mong muốn thuyết phục mọi người sao cho họ được khích lệ mà tuân giữ những quy tắc tuyệt vời của sự tiết độ thường hằng trong ăn uống. Vì thế, tôi không ngừng lên tiếng kêu gọi các bạn, những người bạn của tôi, để cho đời sống của các bạn cũng được như đời sống của tôi. 

dịch theo http://www.soilandhealth.org/02/0201hyglibcat/020105cornaro.html

Hết

September 1, 2025

365 CHIÊM NGHIỆM VỀ PHÓ THÁC, CHỮA LÀNH VÀ Ý THỨC của David Hawkins (Tháng 9)

  David Hawkins

Phạm Nguyên Trường dịch


Ngày 1 tháng 9

Khi một người làm tốt công việc mà họ đang làm, họ trở thành người thực sự làm cho mọi người vui thích. Tất cả chúng ta đều vô cùng vui thích trước sự xuất sắc, trước một màn trình diễn tuyệt vời. Cái làm cho chúng ta vui thích ở người nghệ sĩ vĩ đại chính là họ đã đưa cả tâm hồn của mình vào màn biểu diễn. Đó là tâm hổn của người thành công. Chúng ta hoan nghênh tinh thần sáng tạo của họ. Chúng ta chúc mừng sự nghiệp của họ. Chúng ta ca ngợi sự tận tuỵ của họ. Chúng ta khen ngợi cách họ giữ mình khi đứng trước mặt chúng ta, cũng như cách họ giữ mình khi đối diện với chính mình. Không chỉ giọng hát làm cho Luciano Pavarotti trở thành vĩ đại, vì có rất nhiều giọng nam cao đầy ấn tượng người Ý trên thế gian này. Người ta thấy ở con người ông sự khiêm nhường thực sự của một người vĩ đại. Thực sự làm cho người ta vui thích không phải là thái độ chiều chuộng; mà là thể hiện sự xuất sắc. 

Ngày 2 tháng 9

Tâm trí bị mắc kẹt giữa thích và không thích, cả hai đều là ràng buộc. Không thích bẩm sinh đã là chấp trước vào nhận thức có điều kiện, chấp nhận thì sẽ không còn chấp trước. 

Ngày 3 tháng 9

Tiến hóa tâm linh là hệ quả tự động của quá trình quan sát tâm trí - và khuynh hướng của nó như là “cái đó” - từ quan điểm chung chung của hệ hình của bối cảnh chứ không phải nội dung. Thay vì cố gắng tìm cách thay đổi, chỉ cần cho phép Thần tính làm như thế bằng cách buông bỏ một cách sâu sắc mọi kiểm soát, kháng cự và vọng tưởng về được hay mất. Không cần phải phá hủy hoặc tấn công vọng tưởng mà chỉ cần cho phép chúng biến đi. 

Ngày 4 tháng 9

Không còn sợ hãi là kết quả của việc nhận thức được rằng cội nguồn của hạnh phúc nằm ở bên trong. Nó xuất phát từ việc nhận ra rằng cội nguồn của hạnh phúc là niềm vui vì chính mình đang sống, nó là liên tục và không phụ thuộc vào bên ngoài. Đấy là kết quả của buông bỏ mọi kỳ vọng và yêu cầu đối với chính mình, đối với thế gian và những người khác. Suy nghĩ cho rằng tôi chỉ có thể hạnh phúc nếu tôi chiến thắng hoặc nhận được cái mà tôi muốn chắc chắn sẽ tạo ra lo lắng, bất an và bất hạnh. 

Ngày 5 tháng 9

Tiến bộ tâm linh diễn ra theo từng giai đoạn: Ban đầu, người ta học về các thực tại tâm linh và nghiên cứu chúng. Sau đó là thực hành và ứng dụng các giáo lý vào tất cả các khía cạnh của đời sống, và cuối cùng, người đó trở thành người cầu nguyện. Bằng tinh thần tận tụy, cam kết và thực hành, các khái niệm tâm linh trở thành các thực tại có thể trải nghiệm được. 

Ngày 6 tháng 9

Cần chấp nhận các giáo lý tâm linh để trở thành một chỉnh thể. Thái độ phản kháng là từ bản ngã. Bản ngã thiếu khiêm tốn và kiêu ngạo, không muốn trở thành người “sai”. Tốt hơn là nên nhận ra rằng người ta không từ bỏ quan điểm sai lầm, mà, thay vào đó chấp nhận những quan điểm tốt hơn. 

Ngày 7 tháng 9

Hận thù thực sự làm cho chúng ta bị bệnh; chúng ta luôn luôn là nạn nhân của thái độ báo thù của chính mình. Ngay cả những ý nghĩ thù địch thầm kín cũng tạo ra cuộc tấn công mang tính sinh lý vào cơ thể của chính người đó. 

Ngày 8 tháng 9

Tương tự như bất kỳ sự nghiệp nào khác, thành công đến từ việc không chỉ biết mình nên làm gì mà còn biết mình không nên làm gì. Hiểu được điều không nên làm xuất phát từ việc hiểu các nguyên tắc của điều nên làm. Thật sự làm hỏng việc là một ví dụ về cơ hội mà từ đó chúng ta có thể tạo ra nước chanh từ quả chanh. Mục đích là phân tích sai lầm theo cách có lợi cho chúng ta, để chúng ta có thể nhờ nó mà trở thành người tốt hơn. Quan trọng là chúng ta phải giải quyết mọi hối tiếc và cay đắng và tìm được tia sáng trong đám mây. 

Ngày 9 tháng 9

Chứng ngộ không phải là “thủ đắc” hay thành tựu, cũng không phải là món quà được “ban tặng” như một phần thưởng cho việc là người tốt. Tất cả đấy đều là những quan niệm có từ thời thơ ấu. Thiên Chúa là thường hằng và không thể bị thao túng để ban ơn hoặc bị dụ dỗ bằng mặc cả hoặc nịnh hót. Thờ phụng mang lại lợi ích cho người thờ phụng bằng cách củng cố cam kết và cảm hứng. Thiên Chúa là tĩnh lặng, im lặng và bất động. 

Ngày 10 tháng 9

Cốt lõi ái kỉ của bản ngã là hoà điệu với việc trở thành người “đúng”, dù “đúng” có nghĩa là đồng ý với trí tuệ hay là bác bỏ nó vì cho là không có giá trị. Bằng thái độ khiêm nhường, người tìm kiếm tâm linh nghiêm túc khám phá ra rằng tâm trí, tự nó, dù có học tới mức nào, cũng không thể giải quyết được thế tiến thoái lưỡng nan về biện pháp xác định và xác nhận chân lý, muốn làm được như thế cần có xác nhận bằng trải nghiệm chủ quan, cũng như các tiêu chí khách quan, có thể chứng minh được 

Ngày 11 tháng 9

Những gián đoạn trong cuộc đời do những điều bất ngờ gây ra cũng tạo ra lo lắng vì phải thực hiện những điều chỉnh không thể nào tránh được, có thể cẩn phải có quyết định quan trọng. Quan trọng là biết rằng nghiên cứu tâm linh chỉ ra rằng tất cả những đau khổ và đau đớn về mặt cảm xúc đều xuất phát từ kháng cự. Cách chữa trị là buông bỏ và chấp nhận, nó sẽ làm dịu cơn đau. 

Ngày 12 tháng 9

Can đảm không có nghĩa là không sợ hãi, mà là sẵn sàng vượt qua nó - khi làm xong, ta sẽ thấy sức mạnh tiềm ẩn và khả năng chịu đựng. Sợ thất bại sẽ giảm đi khi nhận ra rằng người ta chỉ chịu trách nhiệm về ý định và nỗ lực, nhưng không phải chịu trách nhiệm về kết quả, kết quả phụ thuộc vào nhiều điều kiện và yếu tố khác, không mang tính cá nhân. 

Ngày 13 tháng 9

Khi thiện chí không còn, thì thành công cũng sẽ không còn. Khi thiện chí không còn, thì lòng tin, đức tin, thoả mãn, thái độ, lòng trung thành của khách hàng và tất cả những gì làm nên giá trị của cuộc đời đều biến mất theo. Tất cả cùng nhau sụp đổ. 

Ngày 14 tháng 9

Hỏi: Người ta bắt đầu tìm kiếm sự thật tâm linh, tự chứng ngộ và giác ngộ ở đâu?

Trả lời: Rất đơn giản. Bắt đầu với con người và cái mà bạn đang là. Tất cả sự thật đều nằm bên trong. Sử dụng những giáo lý đã được xác minh, coi chúng là kim chỉ nam. 

Ngày 15 tháng 9

Khác với logic, kiến thức tâm linh không đi theo tiến trình tuyến tính. Nó gần hơn với sự kiện là làm quen với các nguyên tắc và kỷ luật tâm linh sẽ mở ra nhận thức và tự chứng ngộ. Không có gì “mới” cần phải học; thay vào đó, những gì đã tồn tại tự thể hiện một cách hoàn toàn hiển nhiên. 

Ngày 16 tháng 9

Trên con đường này, khi tiến hóa tự thể hiện theo từng cấp độ, một số người sẽ tiến xa hơn những người khác. Khi chúng ta nhìn thấy sự thật đơn giản này, tha thứ và từ bi sẽ thay thế cho tức giận, sợ hãi, hận thù hay lên án. Sẵn sàng tha thứ cho người khác được phản ánh trong khả năng tự tha thứ và chấp nhận chính con người mình. 

Ngày 17 tháng 9

Tử tế đơn giản là tử tế đối với chính mình và tất cả đời sống là sức mạnh có tính chuyển hoá mạnh mẽ nhất. Nó không tạo ra phản ứng dữ dội, không có nhược điểm và không bao giờ dẫn đến mất mát hoặc tuyệt vọng. Nó làm tăng sức mạnh thực sự của chính người đó mà không đòi hỏi bất kỳ sự đổi chác nào. Nhưng muốn có sức mạnh cao nhất, lòng tốt như thế phải không được có bất kỳ ngoại lệ nào, cũng không thể thực hành nó với kỳ vọng sẽ nhận được bất kỳ phần thưởng ích kỷ nào. Và ảnh hưởng của nó cũng sâu rộng như chính sự tinh tế của nó. 

Ngày 18 tháng 9

Quyết định hoà điệu một cách có ý thức với Thần tính và sự thật là nhận lại sức mạnh ở bên trong và chuyển bản sắc từ tự ngã sang Đại ngã, nó sẽ gia tăng tự tin, can đảm và phẩm giá cá nhân chứ không còn tự hạ thấp và bôi nhọ chính mình nữa. Phó thác hoàn toàn mang lại bình an; phó thác một phần hoặc phó thác có điều kiện tạo ra thái độ nghi ngờ dai dẳng. 

Ngày 19 tháng 9

Nếu chúng ta không xuất phát từ việc trở thành bạn của đời sống và trở thành bạn của bản chất con người, thì không có gì đảm bảo rằng thế giới cũng sẽ trở thành bạn của chúng ta. 

Ngày 20 tháng 9

Những định vị hạn chế và cục bộ tạo ra vọng tưởng gọi là “vấn đề”. Trong thực tại, không thể có bất cứ vấn đề nào; chỉ có những thứ chúng ta muốn và những thứ chúng ta không muốn. Khổ đau là do kháng cự mà ra. 

Ngày 21 tháng 9

Khi cuộc đời mất hết ý nghĩa, đầu tiên chúng ta sẽ rơi vào trạng thái trầm cảm; khi cuộc đời trở nên vô nghĩa, chúng ta sẽ hoàn toàn từ bỏ nó. Lực lượng bên ngoài có những mục tiêu nhất thời; khi đạt đượcc những mục tiêu đó, sự trống rỗng vô nghĩa vẫn còn nguyên ở đó. Mặt khác, sức mạnh bên trong không ngừng thúc đẩy chúng ta. Ví dụ, nếu cuộc sống của chúng ta là cống hiến nhằm nâng cao phúc lợi của tất cả những người mà chúng ta tiếp xúc, cuộc đời của chúng ta sẽ không bao giờ mất ý nghĩa. 

Ngày 22 tháng 9

Tính chủ quan tuyệt đối của sự thật được mặc khải làm cho người ta không còn phải suy nghĩ hay nghi ngờ, nghi ngờ là từ bản ngã mà ra. Khi bản ngã không còn, mọi cuộc tranh luận đều chấm dứt và được thay thế bằng tĩnh lặng. Nghi ngờ chính là bản ngã. 

Ngày 23 tháng 9

Dâng hiến chứ không phải nhiệt tình là dấu hiệu quan trọng hơn của tính chính trực. Cần phải có niềm tin vào con đường và xóa tan nghi ngờ để chắc chắn rằng chúng là thực tế hay chỉ là những hình thức kháng cự. Người tìm kiếm phải được sự chắc chắn bên trong đảm bảo và hỗ trợ, còn niềm tin vững chắc là kết quả của việc học tập, nghiên cứu và khảo sát mang tính cá nhân. Do đó, con đường phải được tái xác nhận bằng khám phá và trải nghiệm ở bên trong. Con đường chân chính sẽ mở ra, tự tiết lộ và có thể được tái xác nhận bằng trải nghiệm. 

Ngày 24 tháng 9

Nguồn gốc của phản kháng trước nỗ lực tâm linh là cốt lõi ái kỷ của chính bản ngã, bản ngã bí mật tuyên bố chủ quyền tối cao và quyền tác giả đối với tồn tại, quyết định và hành động của người đó. Do đó, mặc cho những nỗ lực cao nhất của một người, thái độ ngoan cố và ước muốn thủ đắc hay kiểm soát vẫn tiếp tục thường xuyên bùng lên. Mô thức này có thể giảm bớt bằng cách đơn giản là chấp nhận rằng bản ngã trở thành phù phiếm, tham lam, đáng ghét, kiêu ngạo, bực tức, đố kỵ, v.v. là hiện tượng tự nhiên. Đây là những thứ mà bản ngã đã tích luỹ được trong quá trình phát triển mang tính tiến hóa của nó qua hàng triệu năm. Do đó, không cần phải có mặc cảm tội lỗi vì chỉ cần vượt qua những cảm xúc nguyên thủy này và loại bỏ trong quá trình chuyển hoá từ tự ngã sang Đại ngã. 

Ngày 25 tháng 9

Đảm bảo cho thành công là hiểu biết bên trong, đó là hậu quả của việc bạn nhận thức được về một số sự thật bên trong của bản chất con người, nó không thuộc vào bạn với tư cách là một cá nhân. Nó mang lại cho bạn thái độ khiêm tốn mà bạn cần có nhằm chống lại những cuộc tấn công của thành công. Đây là thử thách thực sự... một trong những thử thách lớn nhất trên thế gian này. Đừng để bản ngã của bạn làm hỏng và bóc lột cái vốn là cội nguồn của sức quyến rũ của bạn.Lòng biết ơn là một trong những biện pháp phòng thủ tốt nhất. Nếu bạn đã khám phá ra tài năng thiên phú của mình và bây giờ nó đang mang lại thành công, thì hãy biết ơn vì điều đó. Hãy biết ơn và tìm cách chia sẻ thành công với người khác chứ đừng khoe khoang một cách tự mãn. 

Ngày 26 tháng 9

Nhược điểm của kiêu hãnh là kiêu ngạo và phủ nhận. Đây là những đặc điểm làm cho người ta không phát triển được. 

Ngày 27 tháng 9

Nguồn gốc của đau khổ không phải là hệ thống niềm tin mà là chấp trước của người đó vào nó và thổi phồng giá trị tưởng tượng của nó. Quá trình xử lý chấp trước ở bên trong phụ thuộc vào ý chí, chỉ có ý chí mới có nội lực nhằm phá bỏ cơ chế chấp trước bằng cách phó thác. Nó có thể được trải nghiệm theo lối chủ quan hoặc được đưa vào bối cảnh khác như là hy sinh, mặc dù thực tế là giải thoát. Đau đớn về mặt cảm xúc vì mất mát phát sinh từ chấp trước chứ không phải từ cái đã mất. 

Ngày 28 tháng 9

Hạnh phúc thực sự luôn luôn ở “đây” trong khoảnh khắc này. Bản ngã luôn luôn mong đợi sự trọn vẹn và thỏa mãn trong tương lai “khi” ước muốn được viên mãn. 

Ngày 29 tháng 9

Sự trong sạch về mặt tâm linh là hệ quả của thái độ trung thực với chính mình, là kết quả của dâng hiến thực sự. Trở thành đầy tớ của Thiên Chúa là hoà điệu với sự hướng dẫn của Thần Thánh, dẫn đến việc tìm tới Đại ngã chứ không phục vụ tự ngã hay thế gian. 

Ngày 30 tháng 9

Hỏi: Công việc tâm linh nên được hình dung như thế nào?

Trả lời: Đây là quá trình khám phá và do đó, hướng vào bên trong. Chính nhờ ảnh hưởng của Đại ngã mà nỗ lực tâm linh được lựa chọn làm mục tiêu của đời sống. Về cơ bản, đó là một quyết định.

 


August 23, 2025

[Nhập môn chủ nghĩa tự do cổ điển] Chương 10 - NHỮNG NHÀ TƯ TƯỞNG TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN

 CHỦ  NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN

Eamonn Butler

Phạm Nguyên Trường dịch


John Locke (1632–1704) – Triết gia người Anh 

Nhiều người coi John Locke là cha đẻ của chủ nghĩa tự do cổ điển. Sau khi phải lưu vong sang Pháp vì chống lại chế độ quân chủ Stuart, ông viết tác phẩm Hai Khảo luận về Chính quyền Dân sự (Two Treatises of Civil Government, 1690) - biện minh cho việc lật đổ James II, phủ nhận quan điểm về “quyền thiêng liêng” của các quân vương, và khẳng định rằng chính quyền hợp pháp phải được xây dựng dựa trên khế ước với nhân dân, chứ không thể dựa vào “bạo lực và cưỡng ép”. Ông cho rằng trong trạng thái tự nhiên, con người có đầy đủ quyền để bảo vệ sinh mạng, sức khỏe và tài sản của mình – những thứ mà họ có được bằng cách “pha trộn lao động của mình” với tài nguyên thiên nhiên – để chống lại sự xâm phạm của kẻ khác. Để bảo vệ những quyền tự nhiên này một cách hòa bình, họ lập ra chính phủ thông qua khế ước, và trao quyền cho chính phủ nhằm gìn giữ các quyền đó. Vì vậy, chính phủ chỉ có tính chính danh khi nhận được sự đồng thuận của người dân; nếu nó không bảo vệ được quyền lợi của họ, thì dân chúng có quyền chính đáng để lật đổ nó. Những tư tưởng này có ảnh hưởng sâu sắc đến các cuộc Cách mạng Mỹ và Pháp, cũng như các nhà tư tưởng theo phái lập hiến như Thomas Jefferson (1743–1826). 

Bernard Mandeville (1670–1733) – Nhà văn châm biếm người Anh gốc Hà Lan 

Bài thơ châm biếm Tổ ong cằn nhằn (The Grumbling Hive - 1705), được tái bản với nhan đề Ngụ ngôn về loài ong (The Fable of the Bees - 1714), làm cho độc giả chấn động khi cho rằng chính tư lợi là động lực thúc đẩy công nghiệp, thương mại, thịnh vượng và trật tự xã hội. Trong tổ ong tưởng tượng của ông, các con ong chỉ chăm lo cho bản thân, nhưng trong khi thỏa mãn các ham muốn cá nhân, chúng vô tình tạo ra việc làm cho kẻ khác; và khi tiêu dùng vì mục đích riêng, chúng lại làm giàu cho người khác và lan tỏa của cải trong toàn xã hội. Ý tưởng về một trật tự kinh tế tự phát dựa trên lợi ích cá nhân như thế chính là nền tảng cho mô hình “bàn tay vô hình” của Adam Smith (1723–1790), và sau đó được Friedrich Hayek (1899–1992) phát triển sâu thêm. 

Voltaire [François-Marie Arouet] (1694–1778) – Nhà văn Pháp 

Bị trục xuất khỏi nước Pháp do các luật lệ hà khắc của giới quý tộc, Voltaire sang Anh và bị cuốn hút bởi các quyền tự do dân sự, chính phủ hiến định, cũng như tư tưởng tự do cổ điển ở đây. Ông quyết định dành cả đời mình để cổ vũ cho các quyền tự do căn bản, lòng khoan dung, tự do ngôn luận và tự do thương mại. Tác phẩm Những bức thư triết học về người Anh (Philosophical Letters on the English, 1734) của ông lên án tình trạng không có tự do ở Pháp, kêu gọi lật đổ quyền lực quý tộc và chỉ trích thái độ bất dung của Giáo hội. Dù từng bị giam trong ngục Bastille, ông vẫn kiên trì phản đối những hành động đàn áp lan tràn khắp châu Âu lục địa thời bấy giờ. 

Adam Ferguson (1723–1816) – Nhà lý thuyết xã hội người Scotland 

Ferguson lập luận rằng, bằng cách theo đuổi hạnh phúc cá nhân, con người đã tạo nên một thế giới đầy sáng tạo và đa dạng, đạt được hiệu quả thông qua phân công lao động, và thúc đẩy đổi mới – những yếu tố dẫn dắt tiến bộ xã hội. Ông giải thích bản chất tự phát của các thiết chế xã hội, khi viết rằng: “Các quốc gia gặp phải những thiết chế – thực chất là kết quả của hành động con người, nhưng không phải là sản phẩm của bất kỳ thiết kế nào của con người.” Những ý tưởng này đã có ảnh hưởng đến người cùng thời với ông là Adam Smith (1723–1790). 

Adam Smith (1723–1790) – Triết gia và nhà kinh tế học người Scotland 

Adam Smith chỉ nhắc đến “bàn tay vô hình” đúng một lần trong tác phẩm Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations, 1776), nhưng tư tưởng mạnh này xuyên suốt toàn bộ cuốn sách. Như Adam Ferguson từng nhận xét, các thiết chế xã hội có thể hình thành và phát triển mà không cần đến sự sắp đặt cố ý của bất kỳ ai. Smith không cho rằng con người vốn ích kỷ hay thiếu thiện chí, vì ai cũng mong người khác nghĩ tốt về mình; tuy nhiên, ông nhận định rằng con người hành xử dựa trên lợi ích cá nhân, với sự quan tâm mạnh mẽ (và chính đáng) đến lợi ích của bản thân. Khi không bị cưỡng ép, họ chỉ có thể hiện thực hóa lợi ích cá nhân bằng cách phục vụ lợi ích của người khác; do đó, khi giúp chính mình, họ cũng đang gián tiếp giúp đỡ người khác. Smith chỉ ra rằng, trao đổi tự nguyện như vậy tạo ra giá trị cho cả hai bên – nếu không, họ đã không trao đổi.  Ông đặc biệt nhấn mạnh chuyên môn hóa và phân công lao động – vốn được thúc đẩy bởi quá trình trao đổi – như là động lực chủ yếu tạo ra hiệu quả và thịnh vượng, cả trong nội bộ quốc gia lẫn trong thương mại giữa các quốc gia. Những lập luận có ảnh hưởng sâu rộng của ông đã góp phần tạo ra thời kỳ hoàng kim của thương mại tự do trong thế kỷ XIX. Smith nghi ngờ chủ nghĩa tư bản thân hữu và bộ máy chính quyền cồng kềnh. Ông tin rằng “người của hệ thống” (hay nhà hoạch định xã hội) không thể nào kiểm soát được toàn bộ những động cơ phức tạp và đa dạng của con người, và chỉ có “hệ thống tự do tự nhiên, rõ ràng và đơn giản” mới có thể trở thành nền tảng bền vững cho xã hội tự do và thịnh vượng. 

Thomas Jefferson (1743–1826) – Nhà lãnh đạo cách mạng người Mỹ 

Jefferson tin rằng Thượng Đế đã ban cho con người những quyền tự nhiên và “bất khả xâm phạm”, trong đó có “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ông cho rằng con người vốn có quyền tự do hành động theo ý mình, miễn là không xâm phạm đến quyền tự do tương tự như thế của người khác. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của John Locke (1632–1704), ông khẳng định rằng tính chính danh của chính phủ phải bắt nguồn từ khế ước giữa nhân dân và những người đại diện do họ bầu lên. Jefferson không tin vào việc tập trung quyền lực lớn, dù là trong chính quyền hay trong giới doanh thương. Ông phản đối mạnh mẽ tình trạng bất dung tôn giáo cũng như chế độ chuyên chế. 

Frédéric Bastiat (1801–1850) – Nhà lý luận chính trị người Pháp 

Trong bối cảnh thương mại bị hạn chế bởi “Hệ thống Lục địa” của Napoleon, Bastiat lên tiếng ủng hộ tự do cá nhân và thị trường tự do. Ông coi chính phủ là một thiết chế thiếu hiệu quả, không đáng tin, và dễ bị các nhóm lợi ích – đặc biệt là giới sản xuất – thao túng, khiến nó trở thành: “Một câu chuyện hư cấu vĩ đại mà trong đó người nào cũng tìm cách sống bằng chi phí của người khác.” Ông nổi tiếng với lối châm biếm sắc bén, đặc biệt là “bản kiến nghị của những người làm nến” – một văn bản giả tưởng, trong đó những người sản xuất nến đề nghị chính phủ ngăn chặn sự cạnh tranh từ mặt trời, vì ánh sáng tự nhiên “gây thiệt hại” cho ngành công nghiệp chiếu sáng. Bastiat cho rằng chính phủ tồn tại nhằm bảo vệ quyền tự do và quyền sở hữu – đã có trước khi nhà nước được thành lập. Vượt trước thời đại, ông dự báo những lập luận cốt lõi của các nhà kinh tế học Trường phái Áo, như F. A. Hayek (1899–1992): thị trường – được dẫn dắt bởi lợi ích cá nhân – sẽ tự điều phối hoạt động kinh tế và phân bổ nguồn lực đến những mục tiêu có giá trị cao nhất. 

Richard Cobden (1804–1865) – Nhà công nghiệp và chính khách người Anh 

Cùng với John Bright (1811–1889), Cobden là người đứng đầu Trường phái Manchester, kế thừa tư tưởng của Adam Smith (1723–1790), cho rằng thương mại tự do sẽ giúp mọi người tiếp cận được các hàng hóa thiết yếu và góp phần tạo ra xã hội công bằng hơn. Năm 1838, họ thành lập Liên đoàn Chống Luật Ngô (Anti-Corn-Law League), vận động – và thành công – trong việc bãi bỏ các loại thuế nhập khẩu có tính bảo hộ đối với lúa mì, là nguyên nhân khiến giá bánh mì tăng cao và thường xuyên gây ra tình trạng thiếu thốn. Họ cũng tích cực vận động cho sự hiểu biết và hòa bình giữa các quốc gia, với niềm tin cho rằng thương mại tự do là con đường dẫn tới hòa bình. Trên cương vị chính khách, Cobden đã góp phần mở rộng hoạt động thương mại giữa Anh và Pháp, thúc đẩy hợp tác quốc tế dựa trên lợi ích chung. 

John Stuart Mill (1806–1873) – Triết gia và nhà cải cách người Anh 

Cuốn Bàn về Tự do (On Liberty, 1859) của Mill được coi là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa tự do cổ điển, dù lập luận của ông nhằm bảo vệ tự do không dựa trên các lý thuyết trừu tượng về quyền tự nhiên, mà dựa trên những lợi ích thực tiễn mà tự do đem lại. Dù là người chỉ trích chính phủ cồng kềnh, ông vẫn chủ trương nhà nước cần can thiệp trên nhiều phương diện, chứ không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ tự do cá nhân. Tiếp nối người thầy theo chủ nghĩa công lợi là Jeremy Bentham (1748–1832), Mill cho rằng điều tốt là điều mang lại hạnh phúc lớn nhất cho số đông, dù ông cũng phân biệt giữa “những thú vui tao nhã” và “những thú vui thấp kém”, với niềm tin rằng thú vui tao nhã có giá trị vượt trội hơn. Ông cho rằng mỗi cá nhân nên được tự do theo đuổi mong muốn của mình, miễn là không gây hại cho người khác. Theo Mill, việc sử dụng quyền lực của nhà nước chỉ chính đáng khi ngăn chặn tổn hại thể chất hoặc đe dọa gây tổn hại đối với người khác; còn việc xã hội không tán thành hành vi của ai đó, hay ngay cả việc bảo vệ “lợi ích thể chất và đạo đức” của chính họ, thì cũng không phải là căn cứ để cưỡng ép hay hạn chế họ. Mill mạnh mẽ ủng hộ quyền tự do ngôn luận, với lập luận cho rằng những ý kiến bị bóp nghẹt có thể là đúng, và ngay cả khi sai, chúng vẫn góp phần thách thức và làm sáng tỏ các quan điểm đang thịnh hành. 

Herbert Spencer (1820–1903) – Nhà nhân chủng học và triết gia người Anh 

Spencer tìm cách áp dụng thuyết tiến hóa vào các vấn đề xã hội và chính trị. Ông tin rằng các cộng đồng nhân loại, ban đầu vốn đơn giản và mang tính quân phiệt, đã tiến hóa thành các xã hội công nghiệp phức tạp và ổn định hơn, lan rộng nhờ tính bền vững và thịnh vượng vượt trội. Dù thường bị gán là người theo “Chủ nghĩa Darwin Xã hội”, Spencer thực ra tin rằng con người đang tiến hóa để trở thành những sinh vật nhân hậu hơn. Ông chủ trương “quyền tự do của mỗi người, bị giới hạn bởi quyền tự do tương tự của tất cả những người khác”, và ủng hộ chính phủ quy mô nhỏ, chính sách không can thiệp (laissez-faire) và tự do hợp đồng, đồng thời phản đối việc nhà nước điều tiết thương mại và kinh tế. Spencer tin rằng tự do sẽ thúc đẩy sự đa dạng và đổi mới, giúp xã hội tiến hóa nhanh hơn và theo hướng có lợi hơn. 

Friedrich A. Hayek (1899–1992) – Nhà khoa học chính trị người Anh gốc Áo 

Những công trình kinh tế của Hayek trong thập niên 1930, thực hiện cùng với ông thầy Ludwig von Mises, đã chỉ ra rằng các chu kỳ bùng nổ và suy thoái kinh tế phát sinh từ những hành động can thiệp yếu kém của chính phủ vào lĩnh vực tín dụng. Ông trở thành người phê phán hàng đầu đối với chủ nghĩa tập thể, kế hoạch hóa tập trung, và chủ nghĩa can thiệp mở rộng của John Maynard Keynes (1883–1946), cho rằng các chính sách này sẽ dẫn đến lạm phát và rối loạn kinh tế. Chiến tranh thế giới thứ hai khiến Hayek chuyển hướng quan tâm sang khoa học chính trị, và trong tác phẩm bán chạy Đường về nô lệ (The Road to Serfdom, 1944), ông truy tìm nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị, lập luận rằng kế hoạch hóa tập trung là phản tác dụng và chỉ có thể duy trì bằng lực lượng cưỡng chế ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong Hiến pháp Tự do (The Constitution of Liberty, 1960), ông trình bày hệ thống tư tưởng ủng hộ trật tự xã hội và kinh tế tự do. Hayek cập nhật tư tưởng tự do cổ điển về trật tự xã hội tự phát, tự điều chỉnh, cho thấy chúng phát sinh từ những hành vi thường xuyên (hay “quy tắc”) mà cá nhân tuân theo trong đời sống hằng ngày. Ông lập luận rằng, tuy không có kế hoạch trung tâm, các trật tự này vẫn có thể xử lý một lượng tri thức khổng lồ – vốn bị phân tán, mang tính cá nhân, tạm thời và không thể gom lại, vượt xa khả năng của bất kỳ cơ quan hoạch định nào, kể cả khi họ có thể tiếp cận được dữ liệu đó. Trong Tự phụ chết người (The Fatal Conceit, 1988), Hayek cho rằng thật là ngây ngô khi tưởng rằng chúng ta có thể định hình những trật tự xã hội phức tạp bằng các công cụ của khoa học vật lý; và mọi nỗ lực có ý thức nhằm thiết lại trật tự này đều sẽ dẫn đến bất ổn xã hội và thảm họa kinh tế. Hayek cũng là người sáng lập Hội Mont Pelerin - diễn đàn quốc tế có ảnh hưởng lớn trong việc bảo vệ và phát triển tư tưởng tự do cổ điển. 

Ayn Rand (1905–1982) – Tiểu thuyết gia và nhà đạo đức học người Mỹ gốc Nga 

Chủ yếu thể hiện qua các tiểu thuyết của mình, Ayn Rand ủng hộ chủ nghĩa cá nhân cấp tiến, nằm về phía tự do cá nhân (libertarian end) trong phổ tư tưởng tự do cổ điển. Bà coi đời sống và tự hoàn thiện bản thân là chuẩn mực đạo đức cao nhất. Theo bà, lý trí – nền tảng của đạo đức – phải dẫn dắt mọi hành động của con người, và mỗi cá nhân nên theo đuổi lợi ích hợp lý, lâu dài của chính mình. Rand cho rằng mỗi cá nhân có quyền hưởng thành quả từ hành động của chính họ, và không ai được phép dùng vũ lực để tước đoạt – vì tư duy duy lý coi bạo lực là ghê tởm. Tuy vậy, giữa những cá nhân hành xử một cách vị kỷ nhưng duy lý, sẽ không có xung đột và không cần hy sinh, bởi vì mỗi người đều nhận ra giá trị – đối với chính họ – của việc tôn trọng quyền lợi của người khác. Nếu có vai trò nào đó dành cho nhà nước và các quy tắc điều phối thị trường, thì chỉ là để bảo vệ các quyền đó mà thôi. 

Isaiah Berlin (1909–1997), triết gia người Anh gốc Latvia 

Berlin là triết gia hàng đầu thế kỷ XX trong việc bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên và khoan dung. Ông lập luận rằng không một mô hình nào có thể gói trọn sự phong phú và năng động to lớn của tư tưởng, giá trị và lịch sử nhân loại. Không tồn tại một nguyên lý đạo đức tuyệt đối, cũng không có một tiêu chuẩn cố định nào để đánh giá hành vi: cuộc sống là chuỗi thỏa hiệp không ngừng giữa các giá trị khác nhau – thường là xung đột với nhau – như tự do và bình đẳng. Ông cũng phân biệt hai loại tự do. Tự do tiêu cực, điển hình trong tư tưởng của John Stuart Mill (1806–73), là quyền được hành động mà không bị cản trở. Tự do tích cực cho rằng con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể làm chủ vận mệnh của mình và đạt được sự tự hiện thực hóa. Dù thừa nhận giá trị của cả hai khái niệm, Berlin lo ngại rằng tư tưởng tự do tích cực đang bị các nhà tư tưởng lợi dụng để làm suy yếu, chứ không phải để bổ sung cho tự do tiêu cực – vốn là nền tảng cốt lõi của chủ nghĩa tự do cổ điển. 

Milton Friedman (1912–2006), nhà kinh tế học người Mỹ 

Trong Các nghiên cứu về Thuyết số lượng tiền tệ (Studies in the Quantity Theory of Money  - 1956), Friedman làm sống lại quan điểm cho rằng chính phủ có nghĩa vụ giữ giá trị đồng tiền ổn định. Ông lập luận rằng các chính phủ cố gắng tạo việc làm bằng cách để cho lạm phát gia tăng sẽ dẫn tới cả lạm phát lẫn thất nghiệp. Lạm phát giống như một loại ma túy – tạo hiệu ứng ngắn hạn nhưng gây tổn hại lâu dài. Do đó, ông vận động cho một “quy tắc tiền tệ” nhằm kiềm chế lạm phát và chấm dứt chi tiêu thâm dụng. Cùng với vợ là Rose D. Friedman (1910–2009), ông viết cuốn sách bán chạy Chủ nghĩa tư bản và tự do (Capitalism and Freedom - 1962), trong đó ông đề xuất hàng loạt cải cách táo bạo vào lúc đó: thị trường tự do, tỷ giá hối đoái thả nổi, thuế thu nhập âm, phiếu giáo dục, và tư nhân hóa hệ thống hưu bổng nhà nước. Friedman tin rằng chính những người hành nghề là đối tượng duy nhất được hưởng lợi từ việc nhà nước điều tiết nghề nghiệp – chứ không phải khách hàng. Ông phản đối việc hình sự hóa ma túy, cho rằng việc kiểm soát lối sống như vậy xâm phạm quyền tự do cá nhân. Tác phẩm và loạt chương trình truyền hình Tự do lựa chọn (Free to Choose - 1980) đã giúp đưa tư tưởng của ông đến với đại chúng. Trong đó, ông viết: “Dựa vào quyền tự do của con người trong việc kiểm soát cuộc đời mình theo các giá trị riêng là cách chắc chắn nhất để hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng của một xã hội vĩ đại.” 

James M. Buchanan (1919–2013), nhà kinh tế học người Mỹ 

James Buchanan cùng Gordon Tullock (1922–2014) là hai nhân vật chủ chốt của Trường phái Lựa chọn Công, đồng tác giả cuốn Phép tính của sự đồng thuận (The Calculus of Consent  - 1962). Họ đặt dấu hỏi về tính hợp lý của các quyết định theo lối dân chủ, chỉ ra rằng lợi ích của cử tri, nhóm lợi ích, chính trị gia và quan chức đều có thể làm sai lệch quá trình ban hành quyết định. Trong khi các nhà kinh tế học “công lợi” tập trung vào thất bại của thị trường, thì Buchanan nhấn mạnh rằng chính phủ cũng có thể thất bại. Ông đặc biệt quan ngại về việc các đa số – hoặc liên minh các nhóm lợi ích nhỏ – có thể sử dụng quyền lực nhà nước để áp đặt gánh nặng lên vai thiểu số, chẳng hạn như bằng cách đánh thuế. Buchanan cho rằng cách hiệu quả nhất để kiểm soát điều này là xây dựng một hiến pháp chính trị – một bộ quy tắc nền tảng mà mọi quyết định chính sách sau đó phải tuân theo. Lý tưởng nhất là những quy tắc này nên được xây dựng dựa trên sự đồng thuận tuyệt đối, để không ai phải đối mặt với chuyên chế của đa số trong các quyết định lập pháp sau đó. 

Robert Nozick (1938–2002), triết gia người Mỹ 

Trong tác phẩm Vô chính phủ, Nhà nước và Không tưởng (Anarchy, State, and Utopia - 1974), Nozick trình bày luận cứ biện hộ đạo đức toàn diện cho tự do cá nhân. Ông khởi đi từ “mệnh lệnh tuyệt đối” của Immanuel Kant (1724–1804): chúng ta phải đối xử với người khác như mục đích tự thân, chứ không bao giờ được coi là phương tiện cho mục đích của mình – và chỉ hành động theo cách mà mình sẵn sàng biến thành nguyên tắc phổ quát. Nozick khẳng định rằng con người có thân thể, tài năng và sức lao động của chính mình, và không ai có quyền dùng vũ lức để tước đoạt. Vì vậy, thuế khoá nhằm tái phân phối là không thể biện minh được. Của cải không “tồn tại để được chia sẻ công bằng” – nó phải được tạo ra bằng tài năng, tinh thần nghiệp chủ và nỗ lực cá nhân. Nếu của cải được tích lũy và chuyển giao một cách công bằng, không bị cưỡng ép, thì giàu nghèo – dù bất bình đẳng – vẫn là chính đáng. Theo Nozick, nhà nước chỉ nên đóng vai trò bảo vệ con người trước bạo lực, trộm cắp, lừa đảo và vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, mỗi cá nhân phải được tự do theo đuổi mục tiêu và hoài bão riêng. Một “nhà nước tuần đêm” như vậy sẽ không dẫn đến hỗn loạn – như nhiều người lo sợ sau Cách mạng Pháp – bởi vì con người sẽ liên kết với nhau một cách tự nguyện để bảo vệ quyền lợi của mình, chẳng hạn như thông qua các cơ quan trọng tài tư nhân. 

11. CHỦ NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN – TRÍCH DẪN

Đại Hiến chương Tự do (Magna Carta)

Chúng ta cũng đã ban cho tất cả những người tự do trong vương quốc của mình – cho chúng ta và những người thừa kế của chúng ta mãi mãi – tất cả các quyền tự do được ghi dưới đây, để họ và con cháu họ được sở hữu và nắm giữ, từ chúng ta và con cháu chúng ta mãi mãi. Không một khoản thuế [quân sự] hay trợ cấp nào sẽ được áp đặt lên vương quốc của chúng ta nếu không có sự đồng thuận chung của vương quốc. Không một người tự do nào sẽ bị bắt giữ, bị giam cầm, bị tước đoạt tài sản, bị lưu đày hoặc bị hủy diệt theo bất kỳ hình thức nào – và chúng ta sẽ không truy tố hay sai người truy tố họ – nếu không có phán quyết hợp pháp từ các đồng cấp của họ hoặc theo đúng luật pháp của xứ sở. Chúng ta sẽ không bán, không từ chối, cũng không trì hoãn quyền lợi hay công lý đối với bất kỳ ai. Tất cả thương nhân sẽ được xuất cảnh an toàn và đảm bảo ra khỏi nước Anh, và được nhập cảnh vào nước Anh, với quyền cư trú tại đây và tự do di chuyển bằng đường bộ cũng như đường thủy – để mua bán theo các phong tục cổ truyền và hợp pháp – và được miễn mọi loại thuế khóa bất công.

Vua John của Anh (1166–1216) (dưới sự ép buộc)

Quyền tự nhiên 

Quyền tự nhiên… là quyền tự do mà mỗi người có được để sử dụng sức mạnh của chính mình, theo ý chí của mình, nhằm bảo tồn bản tính tự nhiên của mình; nghĩa là, để bảo vệ mạng sống của chính mình.

– Thomas Hobbes (1588–1679), Leviathan

 Trạng thái tự nhiên có một luật tự nhiên chi phối nó, và luật ấy ràng buộc mọi người; lý trí – chính là luật đó – dạy cho toàn thể nhân loại, nếu ai chịu lắng nghe nó, rằng: vì tất cả đều bình đẳng và độc lập, không ai được phép xâm phạm đến mạng sống, sức khỏe, tự do hay tài sản của người khác.

– John Locke (1632–1704), Hai khảo luận về chính quyền dân sự

 Chúng tôi cho rằng những chân lý này là hiển nhiên: rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng; rằng họ được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có Quyền Sống, Quyền Tự Do, và Quyền mưu cầu Hạnh Phúc.

– Thomas Jefferson (1743–1826), Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ

 Quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu không tồn tại vì con người làm ra luật pháp. Ngược lại, chính vì các quyền đó đã tồn tại từ trước cho nên con người mới đặt ra luật pháp.

– Frédéric Bastiat (1801–1850), Luật pháp

 Cá nhân có quyền – và có những điều mà không một ai, dù là cá nhân hay tập thể, được phép làm đối với họ (mà không vi phạm quyền đó). Những quyền này mạnh mẽ và sâu rộng đến mức chúng làm dấy lên câu hỏi: liệu nhà nước và các quan chức của nó được phép làm gì – nếu có?

– Robert Nozick (1938–2002), Vô chính phủ, Nhà nước và Xã hội không tưởng

  Chính phủ hạn chế 

Sự hỗn xược và tự phụ cao độ… là khi các ông vua và bộ trưởng giả vờ giám sát nền kinh tế của người dân và muốn hạn chế chi tiêu của họ. Bản thân họ – không có ngoại lệ – luôn là những kẻ hoang phí nhất trong xã hội. Hãy để họ lo cho việc chi tiêu của chính mình, và khi đó họ có thể yên tâm giao việc chi tiêu của người dân cho chính người dân. Nếu sự phung phí của họ không hủy hoại nhà nước, thì sự phung phí của thần dân chắc chắn cũng không bao giờ làm được điều đó.

– Adam Smith (1723–1790), Của cải của các quốc gia

 Quyền lực của chính phủ buộc phải được trao cho một số người; và những ai được giao phó quyền lực sẽ đối mặt với vô vàn cám dỗ để lạm dụng nó – và họ sẽ không ngừng lạm dụng nếu không bị ngăn chặn.

– James Mill (1773–1836), ‘Tình hình quốc gia’, trong The London Review

 Quyền lực có xu hướng tha hóa, và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối.

– Lord Acton (1834–1902), Thư gửi Giám mục Creighton

 Làm sao chúng ta có thể ngăn chặn chính phủ – vốn do chính mình tạo ra – không trở thành một Frankenstein, hủy diệt nền tự do mà ta lập ra để bảo vệ? Tự do là một loài cây quý hiếm và mỏng manh… Chính phủ là cái cần thiết để bảo vệ tự do, là công cụ thông qua đó ta có thể thực hiện quyền tự do của mình; nhưng đồng thời, bằng việc tập trung quyền lực vào tay chính trị, nó cũng trở thành đe dọa đối với tự do. Dù những người nắm quyền ban đầu có thể là người thiện chí… thì quyền lực ấy vẫn sẽ vừa thu hút vừa nhào nặn nên những con người thuộc một phẩm chất khác.

– Milton Friedman (1912–2006) và Rose D. Friedman (1910–2009), Chủ nghĩa tư bản và Tự do

 Đối với một người tự do, đất nước là tập hợp những cá nhân cấu thành nên nó, chứ không phải là một thực thể nào đó vượt lên trên họ. Người ấy tự hào về một di sản chung, và trung thành với những truyền thống chung. Nhưng người ấy coi chính phủ chỉ là phương tiện – là công cụ – chứ không phải là kẻ ban phát ân huệ hay quà tặng, cũng không phải một ông chủ hay một vị thần để phải tôn thờ và phục vụ một cách mù quáng.

– Milton Friedman (1912–2006) và Rose D. Friedman (1910–2009), Chủ nghĩa tư bản và Tự do

 Trật tự tự phát…

 Mỗi bước đi và mỗi chuyển động của đám đông, ngay cả trong những thời đại được gọi là khai sáng, đều diễn ra với một mức độ mù quáng như nhau trước tương lai; và các quốc gia tình cờ vấp phải những thiết chế – vốn thực ra là kết quả của hành động con người, nhưng không phải là được thực hiện theo bất kỳ thiết kế nào của con người.

– Adam Ferguson (1723–1816), Tiểu luận về lịch sử xã hội dân sự

 [Người giàu] tiêu thụ không nhiều hơn người nghèo là bao, và bất chấp bản tính ích kỷ và tham lam của họ… họ vẫn chia sẻ với người nghèo thành quả của mọi cải tiến mà họ đạt được. Họ được dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình” để thực hiện quá trình phân phối các nhu yếu phẩm gần giống với những gì vốn sẽ xảy ra nếu trái đất được chia đều cho tất cả cư dân – và vì vậy, dù không chủ tâm, thậm chí không hề hay biết, họ lại thúc đẩy lợi ích của xã hội và tạo điều kiện cho sự sinh sôi nảy nở của loài người.

– Adam Smith (1723–1790), Lý thuyết về cảm nhận đạo đức

 …Hướng dẫn nhân từ… 

Vì vậy, một hiền giả từng nói: “Ta sẽ không làm gì (một cách có chủ ý), và dân chúng sẽ tự biến đổi; Ta sẽ thích sự tĩnh tại, và dân chúng sẽ tự trở thành chính trực; Ta sẽ không can thiệp, và dân chúng sẽ tự trở nên sung túc; Ta sẽ không biểu lộ tham vọng, và dân chúng sẽ tự đạt đến sự giản dị nguyên sơ.”

– Lão Tử (khoảng thế kỷ VI TCN)

 Chủ nghĩa tự do… giới hạn việc kiểm soát có chủ đích đối với trật tự chung của xã hội trong phạm vi thi hành các quy tắc phổ quát – là những quy tắc cần thiết để hình thành nên trật tự tự phát, mà các chi tiết cụ thể của nó thì ta không thể lường trước được.

 F. A. Hayek (1899–1992), Luật lệ và Trật tự

  …Chống lại kế hoạch hoá và kiểm soát

 Người theo chủ nghĩa hệ thống… thường rất tự cho mình là khôn ngoan; và thường quá say mê với vẻ đẹp tưởng tượng của bản kế hoạch chính trị lý tưởng do mình vạch ra, đến mức không thể chấp nhận bất kỳ sai lệch nhỏ nào khỏi bất kỳ phần nào của nó. Họ dường như tưởng rằng mình có thể sắp đặt các thành phần khác nhau của xã hội rộng lớn một cách dễ dàng, như bàn tay sắp xếp các quân cờ trên bàn cờ. Nhưng họ không nhận ra rằng, trong bàn cờ lớn của xã hội loài người, mỗi quân cờ đều có nguyên lý chuyển động riêng, hoàn toàn khác với nguyên lý mà nhà lập pháp có thể cố gắng áp đặt lên nó.

– Adam Smith (1723–1790), Lý thuyết về cảm nhận đạo đức

 [Khi không có các rào cản thương mại], hệ thống rõ ràng và đơn giản của tự do tự nhiên sẽ tự thiết lập một cách tự phát. Mỗi người… được hoàn toàn tự do theo đuổi lợi ích riêng theo cách riêng của mình. Nhà vua hoàn toàn được giải thoát khỏi một nhiệm vụ – mà không một trí tuệ hay kiến thức nào của con người có thể đủ khả năng đảm đương: đó là giám sát ngành nghề của tư nhân và chỉ đạo nó theo hướng được cho là phù hợp nhất với lợi ích của xã hội.

– Adam Smith (1723–1790), Của cải của các quốc gia

 Đây không phải là cuộc tranh luận về việc có nên lập kế hoạch hay không, mà là tranh luận về việc liệu kế hoạch đó có nên được thực hiện tập trung bởi một cơ quan duy nhất cho toàn bộ hệ thống kinh tế, hay nên được phân tán giữa nhiều cá nhân.

– F. A. Hayek (1899–1992), “Sử dụng tri thức trong xã hội”

 [Trước khi chúng ta có thể] cố gắng tái cấu trúc xã hội một cách sáng suốt, ta phải hiểu được cách nó vận hành; và phải thừa nhận rằng ngay cả khi ta tin rằng mình đã hiểu, thì ta vẫn có thể nhầm lẫn. Điều cần học hỏi là: nền văn minh nhân loại có một đời sống riêng, và mọi nỗ lực cải thiện của ta đều phải vận hành trong một chỉnh thể đang hoạt động – mà ta không thể hoàn toàn kiểm soát – và ta chỉ có thể hy vọng tạo điều kiện, hỗ trợ cho những lực lượng vận hành mà ta hiểu được phần nào.

– F. A. Hayek (1899–1992), Hiến pháp Tự do

 Công lý và nguyên tắc pháp quyền

 Điều gì không công bằng thì không phải là luật; và điều gì không phải là luật thì không đáng để tuân theo.

– Algernon Sidney (1623–1683), Diễn văn về chính quyền

 Bất cứ nơi nào luật pháp chấm dứt, thì chế độ chuyên chế bắt đầu, nếu luật bị vượt quá theo cách gây tổn hại cho người khác. Và bất cứ ai, khi có thẩm quyền, mà vượt quá quyền hạn được luật pháp trao cho và dùng đến quyền lực trong tay mình… thì người ấy không còn là quan tòa nữa; họ hành động mà không có thẩm quyền, và có thể bị phản kháng như bất kỳ ai khác đang dùng vũ lực xâm phạm quyền của người khác.

– John Locke (1632–1704), Hai khảo luận về chính quyền dân sự

 Tự do chính trị của người dân là sự thanh thản trong tâm trí, phát sinh từ niềm tin của mỗi người vào sự an toàn của mình. Khi quyền lập pháp và hành pháp được thống nhất trong cùng một người, hoặc một cơ quan, thì không thể có tự do; vì khi ấy sẽ có lo ngại rằng chính nhà vua hoặc viện nguyên lão sẽ ban hành những đạo luật chuyên chế – và tự mình thực thi luật pháp theo lối chuyên chế.

– Montesquieu (1689–1755), Tinh thần pháp luật

 Việc gìn giữ quyền tự do cá nhân là điều tối hệ trọng đối với công chúng; vì nếu một khi bất kỳ vị quan tối cao nào được quyền tùy tiện giam giữ bất kỳ ai mà ông ta hoặc thuộc hạ của ông ta cho là “hợp lý” (như ở Pháp – nơi quyền lực của hoàng gia làm như thế mỗi ngày), thì chẳng bao lâu nữa, mọi quyền lợi và sự miễn trừ khác sẽ hoàn toàn sụp đổ.

– Sir William Blackstone (1723–1780), Bình luận về luật pháp Anh quốc

 Nếu công lý bị bãi bỏ, thì toàn bộ kết cấu vĩ đại, bao la của xã hội loài người – kết cấu mà, nếu được phép nói vậy, dường như là đối tượng được Thiên nhiên yêu quý và chăm sóc một cách đặc biệt – sẽ, chỉ trong khoảnh khắc, sụp đổ thành từng mảnh vụn.

– Adam Smith (1723–1790), Lý thuyết về cảm nhận đạo đức

 Một tổ ong rộng lớn, đông đúc ong,

Sống trong xa hoa và an nhàn…

Không làm nô lệ cho bạo quyền,

Cũng chẳng bị cai trị bởi dân chủ cuồng loạn;

Nhưng là các ông vua – không thể làm sai –

Vì quyền lực của họ đã bị luật pháp ràng buộc.

– Bernard Mandeville (1670–1733), Ngụ ngôn về loài ong

 Tự do kinh tế

 Chính phủ luôn đồng nghĩa với cưỡng chế và áp đặt, và tất yếu là đối lập với tự do. Chính phủ chỉ có thể đóng vai trò người bảo đảm tự do nếu – và chỉ nếu – phạm vi hoạt động của nó được giới hạn một cách thỏa đáng trong việc bảo vệ cái gọi là tự do kinh tế. Nơi nào không có kinh tế thị trường, thì những điều khoản thiện chí nhất trong hiến pháp và luật pháp cũng chỉ là văn tự chết mà thôi.

– Ludwig von Mises (1881–1973), Hành vi của con người

 Bị kiểm soát trong các hoạt động kinh tế cũng đồng nghĩa với việc bị kiểm soát trong mọi khía cạnh khác của đời sống.

– F. A. Hayek (1899–1992), Đường về nô lệ

 Bất cứ nơi nào chúng ta thấy xuất hiện những yếu tố nổi bật của tự do cá nhân, một mức độ tiến bộ về tiện nghi vật chất dành cho người dân bình thường, và một niềm hy vọng rộng khắp về tiến bộ hơn nữa trong tương lai – thì ở đó ta cũng thấy rằng hoạt động kinh tế được tổ chức chủ yếu thông qua thị trường tự do.

– Milton Friedman (1912–2006) và Rose D. Friedman (1910–2009), Tự do lựa chọn

 Ít có biện pháp nào có thể thúc đẩy sự nghiệp của tự do – cả trong nước lẫn quốc tế – tốt hơn một nền thương mại hoàn toàn tự do.

– Milton Friedman (1912–2006) và Rose D. Friedman (1910–2009), Tự do lựa chọn

 Tự do cá nhân

 Không ai có quyền ép buộc tôi phải hạnh phúc theo cách riêng mà họ cho là vì lợi ích của người khác; nhưng mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc theo cách mà họ cho là tốt nhất, miễn là điều đó không xâm phạm đến quyền tự do của người khác trong việc theo đuổi mục tiêu tương tự cho chính họ — khi Quyền tự do của họ vẫn có thể dung hợp với Quyền tự do của mọi người khác theo những quy luật phổ quát khả thi.

– Immanuel Kant (1724–1804), Nguyên lý chính trị

 Những ai sẵn sàng từ bỏ tự do thiết yếu để đổi lấy một chút an toàn tạm thời thì không xứng đáng được hưởng cả tự do lẫn an toàn.

– Benjamin Franklin (1706–90), Thư trả lời Thống đốc [Pennsylvania]

 Tự do duy nhất xứng đáng với tên gọi ấy là tự do theo đuổi điều thiện cho chính mình, theo cách của chính mình, miễn là không tước đoạt điều đó khỏi người khác, hoặc cản trở nỗ lực của họ nhằm đạt được điều đó.

– John Stuart Mill (1806–73), Bàn về Tự do

 Mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào trong cộng đồng văn minh – trái với ý muốn của họ – là để ngăn ngừa tổn hại cho người khác. Lợi ích của riêng họ, dù là thể chất hay đạo đức, không phải là lý do đủ để can thiệp.

– John Stuart Mill (1806–73), Bàn về Tự do

 Tự do ngự trị trong trái tim con người; và khi nó chết đi ở đó, thì không một bản hiến pháp, không một đạo luật, không một tòa án nào có thể cứu vãn được.

– Thẩm phán Learned Hand (1872–1961), Tinh thần Tự do, bài phát biểu ở New York, 1944 

Niềm tin của chúng ta vào tự do không dựa vào kết quả trước mắt trong từng hoàn cảnh cụ thể, mà dựa vào niềm tin rằng, xét tổng thể, tự do sẽ giải phóng nhiều lực lượng cho điều thiện hơn là cho điều ác.

– F. A. Hayek (1899–1992), Hiến pháp Tự do

 Xã hội đặt bình đẳng lên trên tự do thì sẽ không có được điều gì hết. Xã hội đặt tự do lên trên bình đẳng sẽ đạt được cả hai ở mức độ cao.

– Milton Friedman (1912–2006), Tự do lựa chọn (tập phim truyền hình)

 Tôi ủng hộ việc hợp pháp hóa ma túy. Theo hệ giá trị của tôi, nếu ai đó muốn tự hủy hoại bản thân, họ có toàn quyền làm vậy. Phần lớn những tác hại từ ma túy bắt nguồn từ việc chúng bị đặt ngoài vòng pháp luật.– Milton Friedman (1912–2006),

Trích dẫn trong Nếu Vô minh là Hạnh phúc, Vì sao Không Có Nhiều Người Hạnh phúc hơn? – John Mitchinson

 Tôi chúc những người vô chính phủ thành công – vì đó là con đường mà chúng ta nên hướng tới hiện nay. Nhưng tôi tin rằng ta vẫn cần chính phủ để thực thi các quy tắc của cuộc chơi… Ta cần chính phủ để duy trì hệ thống tòa án nhằm bảo đảm các hợp đồng và xét xử việc bồi thường thiệt hại. Ta cần chính phủ để bảo vệ sự an toàn của công dân – cung cấp lực lượng cảnh sát. Nhưng chính phủ đang thất bại trong nhiều việc mà lẽ ra họ phải làm, vì họ đang can thiệp quá nhiều vào những việc mà lẽ ra họ không nên làm.

– Milton Friedman (1912–2006), phỏng vấn trên Playboy

 

Tự do chính trị 

Những người viết về chính trị đã thiết lập một châm ngôn, nói rằng: khi xây dựng bất kỳ hệ thống chính quyền nào, và thiết kế các cơ chế kiểm soát và đối trọng trong hiến pháp, thì phải giả định rằng con người là kẻ gian trá – và trong mọi hành động của mình, không mưu cầu điều gì khác ngoài lợi ích cá nhân.

– David Hume (1711–76), Tiểu luận về đạo đức, chính trị và văn học

 Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chẳng có điểm chung nào ngoài một từ: “bình đẳng”. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm bình đẳng trong tự do, thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm bình đẳng trong kìm hãm và nô dịch.

– Alexis de Tocqueville (1805–59), Diễn văn trước Quốc hội, 1848

 Nhà nước là một hư cấu vĩ đại, nơi mà ai cũng tìm cách sống bằng chi phí của người khác.

 Frédéric Bastiat (1801–50), Nhà nước

 Dân chủ, xét cho cùng, chỉ là phương tiện – là công cụ thực dụng để bảo vệ hòa bình nội bộ và tự do cá nhân. Với tư cách ấy, nó hoàn toàn không bất khả sai lầm hay chắc chắn.

– F. A. Hayek (1899–1992), Đường về nô lệ

  

12. DÒNG THỜI GIAN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO CỔ ĐIỂN

 Năm 0930: Quốc hội đầu tiên trên thế giới, gọi là Althing, được thành lập tại Iceland.

 Năm 0973: Vua Edgar của người Anglo-Saxon là vị vua đầu tiên được biết đến tuyên thệ đăng quang, cam kết bảo vệ đất nước, giữ gìn pháp luật và cai trị công bằng.

 Năm 1014: Vua Aethelred của người Anglo-Saxon đồng ý tuân giữ các luật lệ cổ xưa và làm theo lời khuyên của hội đồng Witan.

 Năm 1066: Quyền tự do cá nhân và chính quyền hạn chế của người Anglo-Saxon chấm dứt sau cuộc xâm lược của người Norman, mang theo chế độ phong kiến đến nước Anh.

 Năm 1215: Dưới áp lực từ các nam tước, Vua John đồng ý ký Đại Hiến Chương Tự Do (Magna Carta), tái khẳng định quyền sở hữu tài sản và giới hạn quyền lực hoàng gia theo “luật pháp của đất nước”.

 Năm 1225: Vua Henry III của Anh tự nguyện ban hành một phiên bản mới của Magna Carta; văn kiện này trở thành nền tảng cho hiến pháp nước Anh.

 Năm 1265: Simon de Montfort thành lập Đại Quốc hội, quy định rằng các quyết định của nhà vua phải được hội đồng phê chuẩn, sau khi tham khảo ý kiến của Quốc hội.

 Năm 1381: Cuộc khởi nghĩa nông dân kêu gọi khôi phục các quyền cổ xưa của nước Anh.

 Năm 1517: Martin Luther châm ngòi cho cuộc Cải cách Kháng Cách (Protestant Reformation), vô tình thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh mẽ hơn.

 Năm 1651: Tác phẩm Leviathan của Thomas Hobbes kêu gọi một chính quyền mạnh, nhưng lập luận rằng cộng đồng nên được xây dựng trên nền tảng khế ước xã hội, và con người có “quyền tự nhiên” bất khả xâm phạm để tự vệ – kể cả chống lại nhà nước.

 Năm 1687: William Penn xuất bản bản in đầu tiên của Magna Carta tại Mỹ.

 Năm 1688: Trong cuộc Cách mạng Vinh quang, Vua James II bị lật đổ; Quốc hội đặt ra các điều kiện cho hai vị quân vương mới là William và Mary, xác lập các giới hạn cho quyền lực quân chủ.

 Năm 1689: Tuyên ngôn Nhân quyền của Vương quốc Anh nhấn mạnh bản chất khế ước của chính phủ, đặt giới hạn cho quyền lực của Hoàng gia, bảo đảm tự do ngôn luận trong Quốc hội, quy định bầu cử định kỳ và khẳng định quyền kiến nghị lên chính quyền mà không lo bị trừng phạt.

 Năm 1690: John Locke xuất bản Hai khảo luận về chính quyền dân sự (Two Treatises on Civil Government) đặt nền móng triết học cho chính quyền dựa trên khế ước và biện minh cho việc lật đổ Vua James II.

 Năm 1705: Bernard Mandeville xuất bản The Grumbling Hive, một bài thơ luận về lợi ích xã hội của tư lợi cá nhân.

 Năm 1720: John Trenchard và Thomas Gordon bắt đầu xuất bản Cato’s Letters, những bài luận trên báo nhằm cổ vũ cho tự do ngôn luận và tự do lương tâm.

 Năm 1734: Voltaire chỉ trích nền văn hóa phi tự do của nước Pháp trong tác phẩm Những bức thư triết học về người Anh (Philosophical Letters on the English).

 Năm 1748: Charles de Montesquieu xuất bản Tinh thần luật pháp (The Spirit of the Laws), đề xướng phân chia quyền lực thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

 Năm 1767: Cuốn Lịch sử xã hội dân sự (History of Civil Society) của Adam Ferguson mô tả các thiết chế xã hội là “kết quả của hành động con người, nhưng không phải là sản phẩm của bất kỳ thiết kế có chủ ý nào”.

 Năm 1776: Lương tri (Common Sense) của Thomas Paine lên án chính phủ Anh vi phạm khế ước xã hội với người Mỹ và kêu gọi cách mạng.

 Năm 1776: Adam Smith xuất bản Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), chứng minh rằng tư lợi, trao đổi tự nguyện, thương mại tự do và phân công lao động thúc đẩy tiến bộ kinh tế.

 Năm 1776: Mỹ tuyên bố độc lập khỏi chính phủ Anh vì đã xâm phạm các “quyền bất khả xâm phạm” của công dân.

 Năm 1780: Hiến pháp Massachusetts (Constitution of Massachusetts) do John Adams soạn thảo quy định phân chia quyền lực, “để cuối cùng có thể trở thành một chính phủ của pháp luật, chứ không phải của con người”.

 Năm 1785: Trong Cơ sở cho siêu hình học đạo đức (Groundwork for the Metaphysics of Morals), Immanuel Kant nêu ra “mệnh lệnh tuyệt đối” rằng con người phải được đối xử như mục đích tự thân, chứ không phải là phương tiện để đạt đến mục đích.

 Năm 1789: Hiến pháp Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực, thể hiện rõ nguyên tắc phân quyền và chính phủ hạn chế.

 Năm 1789: Chính phủ cách mạng Pháp công bố Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, khẳng định nguyên tắc không gây hại, quy trình pháp lý hợp pháp, quyền sở hữu và tự do tín ngưỡng – tuy nhiên, các nguyên tắc này nhanh chóng bị từ bỏ.

Năm 1791: Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ (The United States Bill of Rights) được phê chuẩn, liệt kê các quyền cơ bản như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, quyền mang vũ khí, và quyền không bị bắt giữ hoặc tịch thu tài sản một cách bất công.

 Năm 1833: Chủ nghĩa tự do cổ điển góp phần dẫn đến việc bãi bỏ chế độ nô lệ trên phần lớn lãnh thổ Đế quốc Anh.

 Năm 1838: Richard Cobden và John Bright thành lập Liên đoàn Chống Luật Ngô (Anti-Corn Law League), nhằm bãi bỏ các loại thuế nhập khẩu lúa mì có tính chất bảo hộ, có hại.

 Năm 1843: Tờ The Economist, do James Wilson sáng lập, trở thành tiếng nói ủng hộ thương mại tự do và chính phủ theo đường lối tự do.

 Năm 1843: Chế độ nô lệ chính thức bị xóa bỏ trên toàn Đế quốc Anh.

 Năm 1846: Luật Ngô (The Corn Laws) bị bãi bỏ.

 Năm 1849: Trong tác phẩm Luật pháp (The Law), Frédéric Bastiat khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ bản thân, tự do và tài sản, đồng thời lập luận rằng chính phủ và pháp luật trở nên bất hợp pháp nếu vi phạm những quyền đó.

 Năm 1851: Trong cuốn Tĩnh học Xã hội (Social Statics), Herbert Spencer đưa ra lập luận theo quan điểm tiến hóa rằng nhà nước nên giới hạn vai trò của mình vào việc bảo vệ con người và tài sản của mọi cá nhân.

 Năm 1859: John Stuart Mill xuất bản tác phẩm kinh điển Bàn về Tự do (On Liberty), một luận thuyết sâu sắc về tự do cá nhân.

 Năm 1927: Ludwig von Mises tái khẳng định các nguyên tắc tự do cổ điển trong cuốn Chủ nghĩa tự do truyền thống (Liberalismus) tuy nhiên phải đến năm 1962 tác phẩm mới được dịch sang tiếng Anh.

 Năm 1943: Ayn Rand xuất bản tiểu thuyết triết học Suối nguồn (The Fountainhead), một tuyên ngôn mạnh mẽ cho sự tự hoàn thiện và cá nhân chủ nghĩa.

 Năm 1944: F. A. Hayek xuất bản Đường về nô lệ (The Road to Serfdom), chỉ ra rằng cội rễ của chủ nghĩa toàn trị nằm ở kế hoạch hoá kinh tế tập trung và những biện pháp cưỡng chế đi kèm với nó.

 Năm 1945: Trong Xã hội Mở và Những Kẻ Thù của nó (The Open Society and Its Enemies), Karl Popper phê phán mô hình kỹ trị xã hội không tưởng và đề xuất khái niệm “xã hội mở” – nơi các quan điểm đa dạng được tôn trọng và thay đổi diễn ra từng bước một.

 Năm 1947: Các học giả theo chủ nghĩa tự do cổ điển từ châu Âu và Mỹ nhóm họp tại Thụy Sĩ trong cuộc họp đầu tiên của Hội Mont Pelerin (Mont Pelerin Society).

 Năm 1957: Ayn Rand xuất bản tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu rộng Atlas vươn mình (Atlas Shrugged), nhấn mạnh vai trò thiết yếu của nỗ lực cá nhân trong việc tạo ra thịnh vượng.

 Năm 1958: Trong bài luận Hai Khái niệm về Tự do (Two Concepts of Liberty), Isaiah Berlin phân biệt giữa tự do tiêu cực và tự do tích cực, và cảnh báo rằng tự do tích cực có thể bị lạm dụng bởi các hệ tư tưởng. 

Năm 1960: F. A. Hayek xuất bản Hiến pháp Tự do (The Constitution of Liberty), trình bày nền tảng lịch sử, nguyên lý và thiết chế của xã hội tự do cổ điển. 

Năm 1962: Trong Phép tính Đồng thuận (The Calculus of Consent), James M. Buchanan và Gordon Tullock phân tích những vấn đề do lợi ích cá nhân gây ra trong quá trình ban hành quyết định chính trị.

 Năm 1962: Milton Friedman xuất bản cuốn Chủ nghĩa Tư bản và Tự do (Capitalism and Freedom), kêu gọi thị trường tự do, tỷ giá hối đoái thả nổi, thuế thu nhập âm, phiếu giáo dục và nhiều chính sách mà lúc đó bị coi là cấp tiến. 

Năm 1973: Murray Rothbard xuất bản Vì một Nền Tự do Mới (For a New Liberty), áp dụng một cách mạnh mẽ truyền thống quyền tự nhiên vào các vấn đề xã hội và chính trị hiện đại. 

Năm 1974: Robert Nozick xuất bản cuốn Vô Chính phủ, Nhà nước và Xã hội Không tưởng (Anarchy, State, and Utopia), một luận điểm sắc bén về tự do, phản đối thuế tái phân phối vì cho rằng chúng vi phạm quyền sở hữu cá nhân. 

Năm 1980: Loạt phim truyền hình Tự do Lựa chọn (Free to Choose) của Milton Friedman giúp đưa tư tưởng tự do cổ điển đến với một lượng lớn khán giả mới trên toàn thế giới. 

Năm 1988: F. A. Hayek xuất bản Tự Phụ Chết Người (The Fatal Conceit), giải thích rằng trật tự tự phát trong xã hội con người quá phức tạp đến mức không ai có thể hoạch định hoặc kiểm soát được. 

Năm 1989: Bức tường Berlin, phơi bày tình trạn lạc hậu về kinh tế và các vấn đề xã hội nghiêm trọng trong khối Xô Viết theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung. 

 

13. ĐỌC THÊM

Dẫn nhập

Ashford, N. (2013) Principles for a Free Society. Stockholm: Jarl Hjalmarson Foundation. Thorough, short exposition of the principles on which a free society and free economy are built. 

Butler, E. (2011) The Condensed Wealth of Nations. London: Adam Smith Institute. Précis of Adam Smith’s classical liberal economics, and of his ethics. 

Butler, E. (2013) Foundations of a Free Society. London: Institute of Economic Affairs. Easy outline of the core principles underlying a free society, such as freedom, rights, toleration, the rule of law and limited government.

 Friedman, M. with Friedman, R. D. (1962) Capitalism and Freedom. Chicago, IL: University of Chicago Press. Classic outline of the case for a free society and free economy, with radical policy prescriptions. 

Friedman, M. and Friedman, R. D. (1980) Free to Choose. New York: Harcourt Brace Jovanovich. Engaging case for the free society, based on the television series of the same name. 

Hannan, D. (2013) How We Invented Freedom and Why It Matters. London: Head of Zeus. Masterful tracing of classical liberal ideas from the Anglo-Saxon era to the present day. 

Palmer, T. G. (2011) The Morality of Capitalism. Arlington, VA: Students for Liberty and Atlas Foundation. Short collection of essays on classical liberal morality, cooperation, progress, globalisation and culture.

 Palmer, T. G. (ed.) (2013) Why Liberty. Arlington, VA: Students for Liberty and Atlas Foundation. Collection of essays on libertarian and classical liberal themes. 

Palmer, T. G. (ed.) (2014) Peace, Love, and Liberty. Ottawa, IL: Jameson Books. Short but wide-ranging series of essays showing how social and economic freedom promotes international peace. 

Pirie, M. (2008) Freedom 101. London: Adam Smith Institute. One hundred and one arguments against the free economy and free society, knocked down in a page each. 

Wellings, R. (ed.) (2009) A Beginner’s Guide to Liberty. London: Adam Smith Institute. Straightforward explanations of markets, property rights, liberty, government failure, prohibitions and welfare without the state. 

Tổng quan 

Butler, E. (2011) Milton Friedman: A Concise Guide to the Ideas and Influence of the Free-Market Economist. Petersfield: Harriman House. Easy introduction to the economic and social ideas of the celebrated classical liberal economist. 

Butler, E. (2012) Friedrich Hayek: The Ideas and Influence of the Libertarian Economist. Petersfield: Harriman House. Easy introduction to the classical liberal political scientist who developed much of the modern thinking on the spontaneous society. 

Butler, E. (2012) Public Choice – A Primer. London: Institute of Economic Affairs. Simple explanation of government failure, the problems of self-interest in democratic systems, and the case for constitutional restraints. 

Cranston, M. (1967) Liberalism. In The Encyclopaedia of Philosophy (ed. P. Edwards), pp. 458–461. New york: Macmillan and the Free Press. 

Kukathas, C. (2003) The Liberal Archipelago. Oxford University Press. Powerful defence of diversity, multiculturalism and minority rights. 

Meadowcroft, J. (ed.) (2008) Prohibitions. London: Institute of Economic Affairs. Powerful set of arguments against government controls on many different lifestyle choices. 

Smith, G. H. (2013) The System of Liberty: Themes in the History of Classical Liberalism. Cambridge University Press. Outline of the history and different views of classical liberals on key issues such as order, justice, rights, anarchy and the role of the state. 

Tác phẩm kinh điển 

Bastiat, F. (2001) [1849] Bastiat’s ‘The Law’. London: Institute of Economic Affairs. Classic statement of classical liberal ideas from the French politician and writer. 

Berlin, I. (1969) Two concepts of liberty. In Four Essays on Liberty. Oxford University Press. Article in which he distinguishes positive and negative liberty. 

Hayek, F. A. (1944) The Road to Serfdom. London: Routledge. Classic short wartime exposition of the dangers of central planning and unrestrained government. 

Hayek, F. A. (1960) The Constitution of Liberty. London: Routledge. Large book tracing the origins of liberal ideas and the principles on which a free society is founded. 

Hayek, F. A. (1988) The Fatal Conceit (3 volumes). Chicago, IL: University of Chicago Press. Statement of the principles underpinning our spontaneous social and economic orders, and the case against trying to plan them centrally.

 Hazlitt, H. (1946) Economics in One Lesson. New york, Ny: Harper & Brothers. Still reckoned by many as the best introductory book on classical liberal economics. 

Locke, J. (1960) [1689] The Second Treatise of Government. In Two Treatises of Government (ed. P. Laslett), pp. 283–446. Cambridge University Press. Philosophical justification of the idea of contractual and limited government, and of the right of the people to overthrow a government that breaches that contract. 

Mill, J. S. (2008) [1859] On liberty. In On Liberty and Other Essays (ed. J. S. Mill). Oxford University Press. Classic text on the case for freedom, the no-harm principle, free speech, limited government, natural justice and toleration. 

Popper, K. (1945) The Open Society and Its Enemies. London: Routledge. Philosophical defence of the free society and devastating critique of attempts to redesign society wholesale.

 Các trang mạng chọn lọc 

Adam Smith Institute blog – rapidly changing blog of classical liberal viewpoints on current political, social and economic issues: http://www.adamsmith.org/blog/ 

Cato Institute – a leading Washington think tank committed to spreading the philosophy of liberty through research and media commentary: http://www.cato.org 

IEA TV – short videos from the Institute of Economic Affairs on current issues, research, books, events and issues: http://www.iea.org.uk/tv 

Learn Liberty – short videos from the Institute for Humane Studies, with classical liberal views on economics, politics, law, history and philosophy: http://www.learnliberty.org/videos/ 

Liberty League – promotes pro-freedom ideas among students and young professionals in the UK, and runs the UK’s largest annual free-market conference: http://uklibertyleague.org 

Mercatus Center – works to bridge the gap between academia and real world issues by training students, producing research, and producing solutions to social problems: http://mercatus.org 

Online Library of Liberty – massive resource from the Liberty Fund, featuring key books and writings from classical liberals through the ages: http://oll.libertyfund.org 

Reason Foundation – a leading US think tank that publishes a prominent magazine on market ideas and policy research: http://reason.org 

Students for Liberty – a network of pro-freedom student groups, representing over 100,000 students in more than 1,350 groups worldwide: http://studentsforliberty.org