Phạm
Nguyên Trường dịch
Ngay từ sáng sớm những
dãy phố bên dưới căn phòng của tôi đã hoạt động nhộn nhịp như một tổ ong. Những quầy hàng nhỏ bé nằm rải
rác khắp nơi, chen nhau trong từng khoảng trống trên vỉa hè. Những rổ chuối
nhỏ, những túi khoai tây hay cà chua được bày bán khắp nơi. Những người bán báo
bám lấy từng góc phố đông đúc. Những người bán hàng rong với mọi thứ sản phẩm
có thể tưởng tượng được tiến hành công việc làm ăn của mình.
Chiều tà, hoạt động có
giảm đi nhưng không chấm dứt hẳn. Những người bán rau đã trở về nhà. Bây giờ
phố xá sặc mùi xúc xích nướng. Đi dọc phố sau khi trời đã tối được một lúc, tôi
bị những người bán thức ăn vây quanh, họ hi vọng bán món hàng của mình cho
những người tìm món ăn nhẹ vào buổi tối.
Những người bán hàng này
là những thứ đầu tiên tôi nhớ lại khi rời châu Phi. Tôi không chỉ ở châu Phi,
tôi đã ở trong những khu vực đông dân nhất trên lục địa này – đấy là khu Hillbrow
ở Johannesburg. Những người bán hàng rong là thành phần chủ yếu của đời sống ở
Hillbrow. Một số người thậm chí còn nói rằng chính họ làm cho nó suy sụp. Hiện
nay Hillbrow là một khu ổ chuột, đầy gái điếm, bọn buôn bán ma túy, người nước
ngoài rất đáng ngờ và những ngôi nhà đổ nát. Thế mà mới mười năn trước nó chính
là trung tâm thời trang của Johannesburg.
Những người bán hàng
rong bị lên án là nguyên nhân của sự suy sụp vì hàng quán của họ chiếm hết vỉa
hè. Mỗi ngày những đống rác và thức ăn thiu thối mà họ bỏ lại càng cao thêm mãi
lên. Không thể đi bộ trên vỉa hè vì tuần nào cũng có thêm những người bán hàng
rong mới chen chúc nhau ở đó.
Cố gắng rất đáng trân
trọng trong việc kiếm sống của người này lại trở thành khó chịu đối với người
khác. Khi đời sống chính trị ở Nam Phi thay đổi, việc thực thi quy định của
chính phủ về bán hàng rong cũng thay đổi theo. Thời gian đầu chính phủ mới tìm
cách bợ đỡ những người bán hàng rong và không đưa ra quy định nào hết. Nhưng
sau một thời gian, khu phố buôn bán trung tạm trở thành nơi không thể đi lại
được nữa. Khách sạn sang trọng tên là Carlton Hotel đóng cửa và phòng nghỉ của
cái khách sạn 50 tầng này đành bỏ không. Thậm chí thị trường chứng khoán Johannesburg
cũng chạy sang khu vực thịnh vượng và sạch sẽ hơn của Sandton. Tôi sẽ không dám
đi vào ban ngày nơi tôi từng một lần đi qua vào lúc nửa đêm. Khi khu vực trung
tâm suy sụp, chính phủ lúng túng không biết nên nghiêm khắc hay không cần thực
thi luật lệ về bán hàng rong nữa.
Nhưng dù người ta có gán
cho những người bán hàng rong những tội lỗi gì đi nữa thì bạn có thật sự phê
phán họ hay không? Trong một đất nước với trên 40 triệu dân, mà chỉ có dưới 25%
người có việc làm thì luật lao động mới chỉ làm cho vấn đề trầm trọng thêm mà
thôi. Vỉa hè là để dành cho người đi bộ chứ không phải cho hàng quán. Nhưng
không có hàng quán thì con em những người bán hàng rong sẽ bị đói.
Sự giận dữ sẽ còn tiếp
tục đổ lên đầu lên cổ những người bán hàng rong, và hiện nay cuộc xung đột vẫn
còn tiếp tục vì ngay cả bây giờ vỉa hè vẫn được coi là tài sản công cộng hay là
“của chung”. Các nhà kinh tế học đã và đang viết về “bi kịch của tài sản chung”
và đây là một ví dụ nữa của việc tài sản chung bị bóc lột một cách quá mức, đến
nỗi trở thành có hại cho tất cả mọi người.
Ngay cả vấn đề rác cũng
là vấn đề của sở hữu chung. Nhà kinh tế học Walter Block đã từng nhận xét rằng
vứt rác chỉ xảy ra ở những nơi thuộc tài sản công mà thôi. Chắc chắn là rác
rưởi thường bị ném vào những chỗ thuộc tài sản riêng nhưng được mở ra cho mọi
người cùng sử dụng – đấy là những chỗ như siêu thị, sân thể thao, rạp chiếu
phim. Nhưng ở những chỗ đó, người chủ sở hữu không gọi cảnh sát tới phạt, mà
đưa người tới dọn dẹp. Dọn dẹp là một phần của việc kinh doanh.
Nhưng thế giới của hàng
rong lại không có quyền sở hữu, và vì vậy mà mới có nhiều vấn đề. Người buôn
bán không có quyền sở hữu chỗ đặt quầy hàng và biết rằng họ có thể bị đuổi đi
bất cứ lúc nào. Thỉnh thoảng lại có một đội cảnh sát tới đuổi, tịch thu hàng
hóa và tịch thu cả hàng quán nữa. Kết quả là người bán hàng không quan tâm tới
việc đầu tư vào hàng quán. Chỉ cần môt tấm bìa các tông trải ngay trên nền đất
cũng xong. Thêm nữa, sẽ trở thành khoản đầu tư mà họ không thể kham nổi vì sợ
mất.
Hernando de Soto cũng
nhận thấy vấn đề tương tự như thế ở những người bán hàng rong ở Peru. Ông viết
như sau: “Nguy cơ bị đuổi luôn luôn đe dọa những người bán hàng rong, nhất là
khi bị tắc đường hay dưới áp lực của người dân sống trong khu vực. Nói một cách
thực tế, điều đó ngăn chặn mọi ý định đầu tư dài hạn nhằm cải thiện khu vực,
buộc những người bán hàng rong tiếp tục sử dụng những chiếc xe đẩy chứ không
làm hàng quán bằng vật liệu xây dựng, có điện, nước, tủ lạnh, kho và những vật
dụng khác đủ chứa số hàng hóa cần thiết. Xây dựng những tiện nghi như toilet, chỗ
để xe hay vườn cây sẽ là việc làm không thiết thực”[1].
Giải pháp cho cuộc xung
đột khi những quyền lợi cạnh tranh với nhau có ý định chộp giật những tài sản
thuộc quyền sở hữu chung là tư nhân hóa. Như tôi đã nói bên trên, giải pháp
thay thế còn lại duy nhất là những biện pháp có tính độc đoán: công an, phạt và
tịch thu[2].
Quyền sở hữu có tác dụng
Trong một khu vực ở Johannesburg,
biện pháp tư hữu đã được đem ra thử nghiệm và có tác dụng. Các chủ doanh nghiệp
tư nhân đã thành lập những khu vực quản lí tư nhân nhằm giải quyết những vấn đề
phát sinh. Một khu vực như thế nằm ngay trên con đường trước khu nhà tôi, gọi
là Ban quản lí Rosebank (RBMD).
Ở đây cũng có vấn đề
hàng rong. Một đoạn phố nhỏ tên là Craddock chạy giữa siêu thị Rosebank và một
vài cửa hàng nhỏ ở bên kia đường. Khoảng 140 người bán hàng rong chen chúc
trong khu vực này. Mọi cố gắng nhằm ngăn chặn việc chiếm đoạt vỉa hè đều không
đem lại kết quả vì khi lực lượng cưỡng chế vừa ra đi là những người bán hàng
rong lại chiếm lấy càng nhiều chỗ càng tốt. Người đi bộ nhiều khi buộc phải
bước xuống đường. Chỉ cần một người dừng lại để xem món đồ là lối đi đã không
còn. Mỗi người bán hàng rong, trong khi hành động vì lợi ích cá nhân của mình,
lại có những hành vi mà tất cả đều bị thiệt hại – tất cả, bởi vì không người
nào có quyền sở hữu cái tài sản mà người đó đang sử dụng.
RBMD có giải pháp. Thứ
nhất, dãy phố được nhượng lại cho họ. Con phố bị đóng cửa, không cho xe chạy
qua nữa. Thứ hai, hầu như toàn bộ dãy phố được biến thành khu vực ngoài trời
cho công chúng sử dụng. Một khu chợ hai tầng được xây dựng cho những người bán
hàng rong và một công ty quản lí được thuê để cai quản công việc. Khoảng 60
người bán hàng rong được chọn vào bán trong tòa nhà này với khoản phí tối
thiểu. Ngay bên dưới tòa nhà, nơi những người bán hàng rong từng sử dụng làm
chỗ bán hàng, được RBMD dùng làm nơi biểu diễn của các diễn viên múa truyền
thống. Các khách sạn ở đây đặt cả bàn ra ngoài vỉa hè. Khu vực từng xuýt bị lụn
bại lại trở thành nơi thu hút khách du lịch.
RBMD còn thuê cả đội bảo
vệ và vệ sinh viên nữa. An ninh được cải thiện, cả người mua, người bán hàng có
môn bài và cả những người bán hàng rong đều được lợi. Ngoài ra, thành phố không
còn phải lo dọn dẹp nữa vì RBMD đã quan tâm tới chuyện này rồi.
Trước đây, xung đột là
không tránh khỏi. Nhưng khi những người bán hàng không có môn bài được đưa vào
hệ thống thị trường với quyền sở hữu thì những người bán hàng có môn bài và
không có môn bài có thể hợp tác với nhau vì quyền lợi chung.
Một cách nữa là dựng
những quầy hàng trên hè phố. Người ta dành ra những khu vực riêng và người bán
hàng được giao quyền sở hữu quầy hàng đó. Bằng cách bảo đảm cho người ta quyền
sở hữu khu đất mà đằng nào người ta cũng sử dụng, thành phố có thể động viên
những người bán hàng rong.
Theo luật hiện hành,
quầy hàng là vốn chết: giá trị của nó không được sử dụng một cách đúng đắn vì
không được pháp luật công nhận. Trong các nước thuộc thế giới thứ III, như de
Soto đã chỉ rõ trong tác phẩm Bí ẩn của
vốn (The Mystery of Capital), có một số lớn vốn chết[3]. Nhà chưa có quyền sở hữu,
doanh nghiệp ngầm, những người bán hàng rong – tất cả đều là một phần vốn chết
của thế giới thứ III. Chỉ cần công nhận về mặt pháp lí là một số tài sản khá
lớn đã được hình thành chỉ sau một đêm, đấy là số tài sản mà người nghèo có thể
sử dụng để mở rộng và tạo thêm tài sản mới.
Vị trí có thể sang
nhượng
Quyền sở hữu tạo điều
kiện cho người ta sang nhượng các vị trí. Những quy định về buôn bán hiện hành
chẳng khác gì luật ăn cướp. Người bán hàng có thể sử dụng vị trí với điều kiện
là người đó giành được nó trước khi những người khác kịp làm như thế. Nhưng với
hệ thống pháp luật như thế, chuyển giao vị trí là việc khó khăn vì người bán
hàng không có quyền sở hữu. Điều đó làm cho kinh tế trì trệ và những người bán
hàng khó lợi dụng được ưu thế của vị trí buôn bán. Điều này là rõ ràng bởi vì
không phải tất cả mọi chỗ đều có giá trị kinh tế như nhau cho tất cả những
người bán hàng. Nếu những người bán hàng có quyền sở hữu thì họ sẽ có thể thu
xếp việc sử dụng vị trí phù hợp với giá trị kinh tế cả nó. Giá trị một số vị
trí sẽ tăng, những người bán hàng có lợi nhuận cao nhờ vị trí đặc thù, người
bán hàng rong cũng thế. Ở Peru, de Soto phát hiện ra rằng quyền sở hữu bên
ngoài hệ thống pháp luật hiện hành tạo điều kiện cho những người bán hàng rong
bán vị trí của họ. Và cũng giống như mọi hàng hóa khác, vị trí cũng có giá khác
nhau.
Tính linh hoạt trong sử
dụng còn có nghĩa là một người có thể sử dụng vị trí vào buổi sáng, còn người
khác thì sử dụng vào buổi chiều. De Soto đã nhận thấy hiện tượng như thế, ông
viết:
Thí dụ, không có gì bất thường khi thấy một chỗ
mà buổi sáng có người bán đồ điểm tâm, khoảng 9 hay 10 giờ thì lại có người bán
nước ngọt, rồi đến trưa thì nhường cho người bán cơm trưa, sau đó, khoảng 4 giờ
chiều lại được thay bằng người bán thuốc làm bằng thảo mộc, rồi đến tối lại
được thay bằng người bán các món ăn Trung Hoa. Việc quay vòng như thế có thể
biến một cái xe đẩy thành một tiệm lớn, góp phần tối đa hóa giá trị của nó. Tự mình, những người bán hàng khác nhau này
chỉ cung cấp được một ít loại hàng hóa và dịch vụ. Nếu bán mãi một vài thứ
không hiệu quả thì họ sẽ cải thiện vị trí bằng cách xoay vòng, làm cho cái xe
đẩy đáp ứng được nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng suốt cả ngày, tức là tận
dụng được giá trị thương mại của vị trí suốt hai mươi bốn giờ một ngày”[4]
Việc thiết lập quyền sở
hữu còn làm thay đổi cả hành vi của những người bán hàng rong. Nó khuyến khích
người ta cải thiện công việc kinh doanh của chính họ. Nó tạo điều kiện cho
người ta đầu tư. Nó cho phép người ta chuyển nhượng quyền kinh doanh. Hệ thống
quyền sở hữu như thế giúp biến những người bán hàng không có môn bài thành khu
vực có môn bài. Buôn bán trên đường phố có thể trở thành nơi ươm mầm cho những
doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng và đầy sức sống. Cả một tầng lớp doanh
nhân có thể được hình thành, với tất cả những lợi ích mà họ có thể cống hiến
cho xã hội.
Tiếp cận bằng quyền sở
hữu đem lại không chỉ sự uyển chuyển mà còn hiệu quả hơn trong việc giữ gìn
trật tự trong khu vực buôn bán. Ban quản lí tại chỗ biết rõ khu vực của mình.
Họ biết ai cần hay ai không cần có mặt tại vị trí nào. Họ còn biết ngay khi
người bán hàng này gây khó khăn cho người bán hàng kia và ai là người chịu
trách nhiệm giải quyết. Nghĩa là, họ có khả năng quản lí những khu vực nhỏ, đặc
thù trên đường phố. Những thành phố lớn với hàng chục triệu dân và hàng ngàn
đường phố không thể cạnh tranh về mặt uyển chuyển với sự quản lí đã được địa
phương hóa như thế.
Ở Lima, Peru, chính
quyền thành phố đã phải công nhận rằng cấm buôn bán trên hè phố là việc làm vô
ích. Sau đó, chính quyền thành phố quyết định tạo ra những khu chợ cho người
bán hàng rong. Nhưng theo de Soto, chính quyền thành phố “không tìm cách giữ
độc quyền trong việc xây chợ. Ngược lại, được sự đồng ý của chính quyền trung
ương, những người muốn xây chợ còn được miễn thuế, thậm chí miễn cả phí xin
phép xây dựng nữa, chính quyền thậm chí còn đưa ra những luật lệ có lợi cho các
tổ chức của người buôn bán”. Kết quả là từ năm 1964 đến năm 1970, “hễ nhà nước
xây một chợ thì những người buôn bán không có môn bài xây được bốn cái”[5].
Những người bán hàng
rong đại diện cho cái mà de Soto gọi là “cuộc trường chinh” tới chủ nghĩa tư
bản. Nếu bị chính quyền cản trở và quấy rầy thì quyền sở hữu không thể phát
triển được. Kết quả sẽ là suy sụp và đổ nát. Nhưng nếu thay vì kiểm soát, chính
phủ lại hành động như là người bảo vệ quyền sở hữu thì việc buôn bán trên đường
phố sẽ là bước khởi đầu trên con đường dẫn tới thịnh vượng.
James Peron là chủ tịch dự án Laissez Faire Books và biên tập viên
tạp chí Laissez Faire!
[1]
Hernando de Soto, Con đường khác (The Other
Path), New York: Harper & Row, 1989), trang 66-67.
[2] Quyền tự do, quyền sở hữu và tội phạm (Liberty,
Property and Crime), Ideas on Liberty,
November 2001, trang 11.
[3] Hernando de Soto, Bí ẩn của vốn (The Mystery
of Capital), New York: Basic Books, 2000.
[4] Hernando de Soto, Con đường khác (The Other
Path), trang 67.
[5] Sách đã dẫn,
trang 81.
Hay quá anh Trường ạ. Em cảm ơn anh.
ReplyDeleteQuyển "The Mystery of Capital" kia có dịch sang tiếng Việt rồi anh ạ, dịch giả Nguyễn Quang A. Tên tiếng Việt là "Bí ẩn của vốn". Cuốn này chỉ lưu hành nội bộ thôi, ra từ 4-5 năm trước rồi, em nhanh chân lấy được một quyển :D
Cám ơn Đoan Trang. Sẽ sửa lại.
DeleteChính quyền là người bảo vệ quyền sở hữu thì việc buôn bán trên đường phố sẽ là bước khởi đầu trên con đường dẫn tới thịnh vượng.
ReplyDeleteCảm ơn chú Trường rất nhiều.
Cám ơn. Chúc năm mới nhiều may mắn.
Delete