Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch - Tổng giám đốc,
InvestConsult Group
Phần
I - Toàn Cầu Hóa
1. Biện chứng của tự do
Tự do không phải là thuật
ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó gắn liền với con người như một
công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự
do vẫn phần nào bí ẩn; chúng ta, dường như, chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng
chưa biết khai thác và sử dụng nó như một công nghệ phát triển.
Thời kỳ Khai sáng đã
đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử mà còn trong nhận thức của con
người. Các học giả của thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn về tự do
nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới
về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã đón nhận
những đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vị ngọt của tự do và hưởng
thụ những thành quả của nó.
Tuy nhiên, ở một số
vùng kém phát triển, con người vẫn mơ hồ trước tự do và dừng lại ở việc nhận thức
nó như một công cụ thỏa mãn các đòi hỏi mang tính bản năng. Vậy đâu là căn
nguyên của hiện tượng này và phải chăng, có mối liên hệ giữa tình trạng kém
phát triển với trạng thái thiếu hoặc không có tự do? Bài viết “Biện chứng của tự
do” sẽ góp phần trả lời câu hỏi ấy.
TỰ
DO NHƯ MỘT PHẠM TRÙ TRIẾT HỌC
Những
quan niệm về tự do
Ngược dòng lịch sử, có
thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong
khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất
của Locke và Hegel.
Tự do là khả năng con
người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở
nào (Locke)
Đây là định nghĩa
nguyên thủy nhất về tự do và cũng từng được khá nhiều người tán đồng. Tuy
nhiên, định nghĩa này có những hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ nếu tự do chỉ
thuần túy là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà
không gặp bất kỳ cản trở nào thì sẽ có rất nhiều người nhân danh tự do để thỏa
mãn những mong muốn hay tham vọng cá nhân của mình, phá hoại trật tự xã hội, và
do đó, làm phương hại đến sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng.
Tự do là cái tất yếu được
nhận thức (Hegel)
Nhận thức được sự hạn
chế của định nghĩa về tự do của Locke, Hegel đã xây dựng một định nghĩa mới về
tự do. Đó là, tự do là cái tất yếu được nhận thức. Câu hỏi đặt ra là, vậy cái tất
yếu là gì? Ở đây, cái tất yếu được hiểu là các quy luật tự nhiên. Do vậy, có thể
viết lại định nghĩa về tự do của Hegel như sau: tự do là các quy luật tự nhiên
được nhận thức. Hegel cho rằng con người càng nhận thức một cách chính xác, rõ
ràng và toàn diện về cái tất yếu bao nhiêu thì càng có tự do bấy nhiêu.
Định nghĩa này đã phát
triển hơn một bước so với định nghĩa của Locke, tức đã đưa tự do từ một trạng
thái bản năng đến tự do trong mối tương quan với cái tất yếu. Như vậy, ranh giới
của trạng thái tự do và trạng thái không có tự do chính là cột mốc nhận thức được
cái tất yếu. Nhận thức được cái tất yếu, con người sẽ không nhân danh tự do để
thực hiện những hành vi kìm hãm sự phát triển của bản thân anh ta và cả cộng đồng.
Chính lúc ấy, tự do sẽ là điều kiện tinh thần giúp con người tiếp cận với sự
phát triển thực thụ và toàn diện.
Trong khi ở phương Tây,
các học giả bàn về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm hứng thì ở phương Đông, tự
do chưa phải là một khái niệm hoàn chỉnh mà mới chỉ được hiểu theo nghĩa tự do
bản năng, hay như cái cho phép, hệ quả là, cái gì không cho phép nghĩa là không
tự do. Chẳng hạn, giải thoát là một trong những phạm trù triết học tôn giáp Ấn
Độ để chỉ trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát ra khỏi mọi
sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ ải của cuộc đời. Có thể nói, triết
học Ấn Độ chỉ xoay quanh giải thoát con người trong đời sống tinh thần (gần như
tiệm cận trạng thái siêu thoát) thay vì đưa ra các tư tưởng phát triển con người
bằng cách giải phóng con người khỏi những ràng buộc. Triết học Trung Hoa cổ đại
từng đề xướng tư tưởng “vô vị” nghĩa là tự do tuyệt đối không bị ràng buộc bởi
bất cứ ý tưởng dục vọng, đam mê, ham muốn nào; tức sống, tồn tại theo bản tính
tự nhiên, không cần sự tham gia có tính chất xã hội.
Tự
do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi
Tự do được hiểu một
cách rất khác nhau giữa các dân tộc và thậm chí, giữa các thành viên của dân tộc.
Thực ra, người ta chỉ nhận ra giá trị của tự do khi đã bị mất tự do, hay nói
cách khác, người ta chỉ cảm thấy giá trị của tự do khi vướng phải những giới hạn
của nó bởi chính những giới hạn ấy sẽ đánh thức con người, giúp con người thoát
ra khỏi trạng thái thụ động đón nhận một phần của tự do như sự nhân nhượng của
bề trên đối với kẻ dưới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, tự do không phải là một
loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ thể chế nào mà nó là bản chất tự nhiên của
con người, tức là nó gắn liền với con người ngay từ khi sinh ra. Có thể nói, tự
do là không gian sống của mỗi cá nhân, ai cũng có thể khai thác không gian ấy,
thậm chí mở rộng nó, nếu hiểu được bản chất và giá trị của tự do.
Tuy nhiên, trước khi
bàn về phép biện chứng của tự do, chúng ta cần phải xây dựng một định nghĩa về
tự do. Chúng tôi cho rằng, tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ
và hành vi, hệ quả là, bất cứ xã hội nào cho phép sự dịch chuyển song song này
diễn ra một cách thuận lợi trong một trật tự hài hòa và cân đối, xã hội ấy sẽ đạt
tới trạng thái tự do. Phép biện chứng của tự do cần phải góp phần vào việc thay
đổi nhận thức của con người về tự do, trên cơ sở ấy hỗ trợ quá trình dịch chuyển
song song của ý nghĩ và hành vi ở mỗi cá nhân cũng như cả cộng động. Đó chính
là tiền đề của sự phát triển.
TỰ
DO VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
Tự do là một khái niệm
phức tạp, đa chiều và gồm có nhiều thành tố. Nó không phải là một cảm giác mặc
dù nếu thiếu cảm giác về tự do thì cũng không thể tạo thành khái niệm tự do. Điều
quan trọng nhất là khi nghiên cứu tự do là chúng ta phải phân tích các thành tố
tạo thành khái niệm tự do, vị trí và ảnh hưởng của từng thành tố đối với đời sống.
Trên cơ sở đó, con người sẽ nhận thức được mình nên chuyển nhượng bộ phận nào của
tự do, chuyển nhượng cho ai và vào thời điểm nào để phần tự do mình cống hiến
không trở nên vô nghĩa.
Tự do là một trong những
điều kiện ban đầu để hình thành hạnh phúc. Đồng thời, nó là nguyên liệu đầu vào
của đời sống con người, hạnh phúc chính là kết quả của việc chuyển hóa tự do
thành những sức mạnh nhất định và toàn bộ quá trình chuyển hóa chính là tiến
trình phát triển. Vì vậy, có thể nói, phân tích tự do, hạnh phúc và quá trình
phát triển chính là phân tích quá trình vận động của tự do.
Điều quan trọng nhất
là, trên cơ sở các phân tích về tự do, chúng ta cần phải xác lập ranh giới giữa
các loại đối tượng, đó là loại đối tượng có năng lực sử dụng và khai thác tự do
và loại đối tượng không có năng lực khai thác và sử dụng tự do, bởi tự do chỉ
dành cho những người có trình độ nhận thức nhất định. Mặc dù tự do là sở hữu tự
nhiên của con người, nhưng không phải tất cả mọi người đều có năng lực và xứng
đáng được khai thác thứ tài sản vô giá ấy. Xác lập ranh giới giữa những loại đối
tượng khác nhau sẽ giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình xây dựng
tự do như một công nghệ phát triển. Chỉ có như thế, tự do mới trở thành điểm xuất
phát của mọi quá trình phát triển cả về mặt nhận thức lẫn hành vi.
Mối
quan hệ giữa các thành tố của tự do
Có thể hiểu, tự do gồm
có hai thành tố quan trọng nhất là tự do nhận thức và tự do hành động trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống. Vậy, đâu là mối liên hệ giữa hai thành tố này?
Tôi cho rằng tự do nhận
thức là nền tảng để con người đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức
tức là không có tự do tinh thần, con người sẽ không thể có tự do hành động bởi
luôn vấp phải các rào cản về mặt nhận thức, và do đó, con người sẽ cảm thấy bị
hạn chế, bị mất tự do ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong hành vi của
mình. Điều này hoàn toàn trái ngược với tinh thần về tự do mà chúng tôi đã đưa
ra trong phần trên, đó là tự do là sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành
vi. Phải hiểu rằng, tự do nhận thức sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển và dịch
chuyển của ý nghĩ, trong khi đó, tự do hành động sẽ tạo điều kiện cho sự dịch
chuyển của hành vi song song và tương ứng với sự dịch chuyển của ý nghĩ.
Mặt khác, tự do nhận thức
chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng các mô-đun nhận thức, biến không gian
nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng thành một vườn ươm các mô-đun tư duy của
con người. Khu vườn đó chỉ đa dạng và phong phú chừng nào tự do hạnh phúc được
công nhận như một trong những nguyên lý căn bản nhất. Sự phong phú và đa dạng về
mặt nhận thức sẽ dẫn tới sự phong phú và đa dạng của hành động. Điều này sẽ tạo
ra không gian đa chiều trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa - điều
kiện cần và đủ để mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi nhà nước, mỗi thể chế duy trì
và phát triển sự đúng đắn của mình. Mặt khác, đến lượt mình, tự do hành động lại
tạo điều kiện cho việc mở rộng không gian nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng,
bởi thông qua tự do hành động, con người sẽ có điều kiện làm phong phú kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm văn hóa của mình, và do đó, có thể xúc tiến những cái
mới về nhận thức và tự điều chỉnh nhận thức của mình. Đây chính là mối liên hệ
hữu cơ giữa hai thành tố cơ bản nhất của tự do.
Mối
quan hệ giữa tự do và phát triển
Chúng ta đã trăn trở rất
nhiều trước vấn đề tại sao trong lịch sử cận đại và hiện đại phương Đông lại chậm
phát triển hơn phương Tây. Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta đã tốn rất nhiều
công sức và nhiệt huyết mà vẫn chưa tìm ra lời giải thích xác đáng. Phần lớn
tài nguyên của nhân loại nằm ở phương Đông, nhưng phương Tây là cả chiến thắng
trong hầu hết các cuộc chạy đua đến sự phát triển. Trong khi đó, ngụy biện với
chính mình, phương Đông đắm chìm và tự cổ vũ mình trong những giá trị Châu Á đến
khi nhận ra những giá trị ấy cũng chỉ là một dạng tài nguyên chứ không thể và
không phải là sự phát triển thực. Vậy đâu là căn nguyên và lời giải của hiện tượng
này?
Các phân tích về tự do
cho thấy rằng chính sự thiếu tự do ở phương Đông là nguyên nhân sâu xa nhất gây
nên tình trạng chậm phát triển, và do đó, nhận thức lại tự do, ý nghĩa và vai
trò của nó đối với đời sống cũng như công nhận tự do như quyền và sở hữu tự
nhiên của con người chính là giải pháp triệt để để phương Đông tiếp cận sự phát
triển.
Chúng tôi tán đồng luận
điểm của Amartya Sen, một trong những nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, khi ông
cho rằng “Phát triển như là tự do”. Sở dĩ có thể nói như vậy là bởi cấu trúc tự
do, nói chung, gồm có tự do kinh tế, tự do chính trị và tự do tinh thần. Tự do
kinh tế chính là nguyên khí của nền kinh tế thị trường - giải pháp duy nhất để
phát triển kinh tế. Tự do chính trị chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một
nhà nước dân chủ - phương thức quản lý ưu việt cho phép phát triển con người một
cách toàn diện. Tự do tinh thần, tức không lệ thuộc vào nhận thức của người
khác, chính là nguyên khí của khoa học nhận thức, nó chính là yếu tố quan trọng
nhất tạo ra sự sáng tạo và sự đa dạng của khoa học nhận thức, tức sự đa dạng về
mặt tinh thần.
Mối quan hệ giữa tự do
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng là một khía cạnh quan trọng
trong các phân tích về tự do. Cần lưu ý rằng trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất không chỉ thể hiện ở sự hiện đại của tư liệu sản xuất mà quan trọng
hơn là ở sự tiến bộ của nhận thức. Tự do đánh thức các năng lực phát triển, đó
là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, sự phát triển của
trình độ lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò đáng kể vào việc mở rộng không
gian tự do của con người. Nói cách khác, lực lượng sản xuất phát triển đến đâu
thì không gian tự do sẽ mở rộng đến đó, và do đó, có thể kết luận giữa hai cặp
phạm trù này luôn có một sự dịch chuyển song song và tương ứng.
Phải khẳng định rằng tự
do bao giờ cũng là điểm xuất phát của sự phát triển và không thể có sự phát triển
nào đi trước tự do. Sự phân biệt rành mạch hai khái niệm tự do và bản lĩnh tự
do sẽ giúp nhà cầm quyền nhận ra nỗi sợ về sự mất ổn định do sự thiếu kinh nghiệm
tự do của người dân tạo ra là một nỗi sợ hoàn toàn vô lý bởi kinh nghiệm tự do,
hay bản lĩnh tự do chỉ hình thành khi người dân có tự do và có quyền sử dụng và
khai thác nó trong đời sống của mình. Đó cũng chính là một trong những ý nghĩa
căn bản của các phân tích về tự do.
Bên cạnh đó, tự do còn
là hạt nhân của mọi cuộc cải cách, trong đó có bốn cuộc cải cách quan trọng nhất,
đó là cải cách chính trị, cải cách kinh tế, cải cách văn hóa và cải cách giáo dục.
Tự do kinh tế đi trước để con người nếm được các thành quả sự phát triển. Chừng
nào cảm nhận được vị ngọt, tức các thành quả thu được từ tự do kinh tế, con người
sẽ nhận thức được giá trị của tự do chính trị. Tự do chính trị chính là nhu cầu
đòi hỏi thể chế khẳng định các quyền tự do. Tuy nhiên, con người còn là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội, nói cách khác, con người chính là sản phẩm của văn
hóa. Do vậy, nếu không có tự do văn hóa, con người sẽ không thể ra khỏi quá khứ
và không tìm được yếu tố bảo trợ tinh thần cho tự do kinh tế và tự do chính trị.
Mặt khác, thiếu yếu tố bảo trợ tinh thần là tự do văn hóa, tự do kinh tế và tự
chính trị sẽ tạo ra trạng thái phát triển không ổn định vì luôn bị níu kéo bởi
sự lạc hậu về mặt văn hóa. Cải cách giáo dục là tiền đề của việc xây dựng một lực
lượng tiên tiến hùng hậu của xã hội, đủ năng lực để duy trì và nâng cao chất lượng
của sự phát triển. Tựu trung lại, bốn cuộc cải cách này với hạt nhân là tự do đều
nhằm tiếp cận trạng thái phát triển bền vững. Phát triển bền vững không thuần
túy là sự phát triển ổn định và liên tục mà còn là sự ổn định của các nguồn
phát triển. Nếu cải cách kinh tế tạo ra được sức mạnh hữu hình của sự phát triển
thì tự do về chính trị và tự do về văn hóa sẽ tạo ra tính ổn định của các nguồn
của sự phát triển, hay nói cách khác chính là tạo ra phạm trù phát triển bền vững.
Đó chính là một trong những điểm mấu chốt quan hệ giữa tự do và phát triển.
Mối
quan hệ giữa tự do và dân chủ
Ở phương Tây, người ta
cho rằng, tự do là một quyền tự nhiên, là không gian vốn có của mỗi con người,
và do đó, Nhà nước dân chủ là kết quả của sự nhượng bớt một phần tự do cá nhân
cho chính phủ để nhà nước có vốn liếng điều hành xã hội. Từ đó, có thể khẳng định,
sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ như một hình thức
góp vốn chính là bản chất khế ước xã hội. Điều hành đất nước bằng pháp luật, hay
các khế ước xã hội chính là điểm ưu việt của phương thức quản lý theo mô hình
dân chủ.
Russeau viết “Với khế ước
xã hội, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và hạn chế cái quyền được làm những
điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt khác, con người thu lại quyền tự do dân sự
và quyền sở hữu những cái mà anh ta có”. Cũng trong phần này, ông viết “làm
theo kích thích của dục vọng là nô lệ, mà tuân theo các quy tắc mà mình đặt ra
là tự do”. Như vậy, bản chất của tự do là gì và đâu là giá trị cao quý của nó?
Có thể khẳng định ngay rằng, bản chất của tự do chính là việc tuân theo các quy
tắc của nhận thức của mình chứ không lệ thuộc vào nhận thức của người khác. Do
đó, giá trị cao quý của tự do chính là đảm bảo và trao trả một cách nguyên vẹn
không gian sống của con người và tạo điều kiện cho hành vi của mỗi con người phản
ánh một cách trung thực gương mặt của nhận thức của mình. Câu hỏi được đặt ra:
Hình thái nhà nước nào đảm bảo được tính ổn định hay giá trị bền vững của tự do
công dân? Lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng chế
độ chính trị tiên tiến có thể đảm bảo quyền tự do công dân chính là chế độ dân
chủ. Khi bàn đến tự do, người ta mới nói dân chủ là tất yếu, tức là xã hội
không thể tiếp tục duy trì tình trạng độc tài.
Nền dân chủ được hình
thành trên cơ sở các quyền tự do được thể chế hóa, nói cách khác, tự do chính
là nguyên liệu quan trọng nhất để xây dựng nền dân chủ. Có thể nói, sở dĩ nền
dân chủ ngày càng phát triển và chứng minh vai trò của nó trong việc xúc tiến sự
phát triển và tiến bộ xã hội là bởi nó đã nhận thức đúng đắn về tự do thể hiện ở
việc xây dựng các khế ước xã hội. Khế ước xã hội không phải là những mệnh lệnh
mà là những thỏa thuận của con người trên cơ sở nhận thức về tự do và tự nguyện
nhượng bớt một phần tự do cá nhân để xác lập trạng thái phát triển hài hòa và
cân đối.
Trên cơ sở đó, cần phải
đi đến nhận thức rằng, không có một môi trường nào có thể hỗ trợ sự phát triển
của con người tích cực bằng một môi trường đảm bảo tự do cá nhân thông qua sự tự
nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân, tức một nhà nước dân chủ.
Một khía cạnh khác
trong mối quan hệ giữa tự do và dân chủ là, tự do là thứ tài sản tự nhiên vô
giá nhất của con người và xã hội được cấu thành từ sự góp vốn của con người, ở
đây, vốn được hiểu là một phần tự do cá nhân. Vì vậy, bản chất của nhà nước là
một khế ước, mà ở đó, con người tự nguyện góp một phần tự do. Gia đình là một
đơn vị xã hội mà mỗi người, ngoài quan hệ huyết thống, còn tự nguyện góp một phần
tự do. Do đó, chế độ độc tài là chế độ chiếm đoạt vốn liếng tự nhiên của đời sống
con người tự do. Đó chính là bản chất của sự tham nhũng tinh thần, tức chiếm đoạt
tự do của người khác thay vì sử dụng sự tự nguyện chuyển nhượng tự do của họ một
cách minh bạch. Đó cũng chính là hạn chế của các nhà nước phi dân chủ. Các phân
tích về tự do phải chỉ ra ai chiếm dụng vốn liếng của con người và phải giúp
con người đi tới nhận thức rất quan trọng, đó là trạng thái không có tự do của
nhiều người sẽ tạo ra quyền tự do tuyệt đối của một hay một số con người. Luận
điểm này đã được khẳng định từ thời kỳ Khai sáng - thời kỳ của những tên tuổi
vĩ đại như Voltaire, Didro, Montesquieu hay Russeau.
Hết thảy con người khi
sinh ra đều bình đẳng, và được tự nhiên ban cho những quyền không thể phủ nhận,
trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những
quyền này, các nhà nước được hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các thành
viên trong một xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một khái niệm rất
nhân văn, nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con người (nói riêng).
Tự do còn là một phạm
trù văn hóa, nói khác đi, văn hóa chính là không gian tinh thần của tự do. Ý
nghĩa và hành vi của con người “lội bộ” trong một cánh đồng mênh mông các đối
tượng hình thành từ quá khứ, hay các ý niệm, khái niệm và nhận thức về văn hóa.
Do đó, chính văn hóa mới có khả năng điều chỉnh hành vi và ý nghĩ của con người.
Văn hóa điều chỉnh tự do cá nhân trở thành tự do cộng đồng tức là nó xây dựng
các khái niệm sơ khai của khế ước xã hội, mọi khế ước xã hội đều xây dựng trên
kinh nghiệm văn hóa chứ không phải kinh nghiệm pháp lý.
bài rất hấp dẫn
ReplyDeleteGreat read thankyouu
ReplyDeleteVery nice blog yoou have here
ReplyDelete