XI. Sự cáo chung của chân lí
Điều
đặc biệt là bất cứ ở đâu quốc hữu hoá tư tưởng
cũng pari passu (song hành
- Tiếng Pháp – ND) với quốc hữu hoá công
nghiệp.
E. H. Carr
Muốn
cho mọi người cùng phục vụ một hệ thống các mục tiêu duy nhất, được kế hoạch của
xã hội trù liệu, thì cách tốt nhất là buộc tất cả cùng phải tin tưởng vào các mục
tiêu đó. Chỉ dùng các biện pháp cưỡng bách thì bộ máy toàn trị chưa thể hoạt động
hữu hiệu được. Điều quan trọng là làm sao mọi người cùng coi các mục tiêu đó là
của chính mình. Mặc dù những quan điểm như thế được lựa chọn và áp đặt từ bên
ngoài, nhưng chúng phải trở thành niềm tin của quần chúng, phải trở thành tín điều
của tất cả mọi người, sao cho các cá nhân có thể hành động một cách tự phát mà
vẫn theo đúng ý của người lập kế họach. Nếu trong các nước toàn trị người dân
không cảm thấy họ bị áp bức như là những người sống trong các nước tự do tưởng
tượng thì chủ yếu là vì chính phủ các nước này đã khá thành công trong việc buộc
người dân suy nghĩ theo hướng chính quyền muốn.
Có
thể làm được điều đó bằng những hình thức tuyên truyền khác nhau. Kĩ thuật này đã
phổ biến rộng rãi, chẳng cần nói thêm ở đây làm gì. Tuy nhiên, điều duy nhất cần
phải nhấn mạnh là công tác tuyên truyền cũng như kĩ thuật tuyên truyền được áp
dụng không phải là những đặc điểm riêng biệt của chủ nghĩa toàn trị, mà điểm
đặc biệt của chính sách tuyên truyền trong chế độ toàn trị là tất cả bộ máy tuyên
truyền đều hướng đến cùng một mục tiêu và tất cả các công cụ đều được phối hợp
nhằm tạo ảnh hưởng đối với các cá nhân theo cùng một hướng và tạo ra một Gleichschaltung
(quan điểm chính trị của Đức nhằm buộc tất cả các lĩnh vực của đời sống phải
phục vụ cho quyền lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa quốc gia, ở ta thường gọi là
sự thống nhất về tư tưởng – ND) đặc thù trong đầu óc mọi thần dân. Kết quả là,
hiệu ứng của công tác tuyên truyền trong các nước toàn trị khác hẳn không chỉ về
lượng mà còn khác về chất so với hiệu ứng tuyên truyền cho những mục tiêu khác
nhau do nhiều chủ thể độc lập và cạnh tranh với nhau tiến hành. Khi tất cả các
phương tiện thông tin đều bị một bộ máy duy nhất kiểm soát thì vấn đề không còn
là thuyết phục người ta tin vào quan điểm này hay quan điểm kia nữa. Khi đó, một
tuyên truyền viên khéo léo có thể nhào nặn tâm trí quần chúng theo bất kì hướng
nào mà anh ta chọn, ngay cả những người thông minh và có tư duy độc lập cũng không
thể hoàn toàn tránh được ảnh hưởng của bộ máy tuyên truyền, nhất là nếu họ lại
bị cách ly với các nguồn thông tin khác trong một thời gian dài.
Nhưng,
trong khi tại các quốc gia toàn trị bộ máy tuyên truyền tri phối hoàn toàn tâm
trí của dân chúng, thì hiệu quả đạo đức đặc biệt nảy sinh không phải từ kĩ thuật
tuyên truyền mà lại từ mục tiêu và nội dung tuyên truyền tòan trị. Nếu hoạt
động của nó chỉ giới hạn ở việc áp đặt một hệ thống các giá trị mà xã hội đang
cố gắng hướng tới thì bộ máy tuyên truyền chỉ là biểu hiện cụ thể của những đặc
điểm của đạo đức tập thể chủ nghĩa mà chúng ta đã bàn tới bên trên. Nếu mục tiêu
của nó chỉ là dạy cho dân chúng một tập hợp các chuẩn mực đạo đức toàn diện và xác
định thì vấn đề sẽ chỉ còn là cái chuẩn mực đạo đức đó là tốt hay xấu mà thôi.
Như chúng ta đã thấy, các chuẩn mực đạo đức của chủ nghĩa toàn trị khó mà hấp
dẫn được chúng ta, thậm chí phấn đấu cho sự bình đẳng bằng nền kinh tế được
quản lý chắc chắn sẽ dẫn đến bất bình đẳng do chính nhà nước tạo ra – địa vị
của mỗi người trong cái trật tự thứ bậc mới được quyết định theo lối độc đoán -
còn phần lớn các yếu tố đạo đức nhân bản như tôn trọng đời sống con người, tôn
trọng kẻ yếu và tôn trọng cá nhân sẽ đơn giản là biến mất. Nhưng, dù nó có bị đa
số coi khinh đến đâu, dù chuẩn mực này có làm thay đổi các tiêu chuẩn đạo đức,
không phải lúc nào cũng có thể nói rằng nó là phi đạo đức. Đối với những nhà đạo
đức học theo trường phái bảo thủ, chuẩn mực này còn có một số nét hấp dẫn hơn là
các tiêu chuẩn nhẹ nhàng hơn của xã hội tự do.
Tuy
nhiên, hậu quả của bộ máy tuyên truyền tòan trị mà chúng ta phải xem xét thậm
chí còn sâu sắc hơn nhiều. Chúng có tính phá hoại đối với mọi nền đạo đức vì nó
phá hoại ngầm một trong những nền tảng của đức hạnh: ý thức về chân lý và thái
độ tôn trọng chân lý. Do bản chất các nhiệm vụ mà nó theo đuổi, bộ máy tuyên
truyền toàn trị không thể tự giới hạn trong những giá trị, trong những vấn đề về
quan điểm và niềm tin về đạo đức mà theo quan điểm thịnh hành trong xã hội thì
người ta vẫn tuân theo, dù ít dù nhiều, mà còn lan sang cả lĩnh vực nhận thức
sự kiện, một địa hạt khác của trí tuệ của con người. Điều này xảy ra là bởi vì:
thứ nhất, muốn buộc người ta chấp nhận các giá trị chính thống thì phải biện
minh chúng, hoặc phải chỉ ra mối liên hệ của chúng với các giá trị mà người dân
vẫn coi trọng, mà muốn làm như thế thì phải khẳng định được mối liên hệ nhân quả
giữa mục đích và phương tiện; và thứ hai, vì sự phân biệt giữa mục đích và phương
tiện, giữa mục tiêu và biện pháp thi hành để đạt mục tiêu, trên thực thế, không
phải lúc nào cũng dứt khoát và rõ ràng như lý thuyết, cho nên phải làm cho quần
chúng đồng ý không chỉ với mục tiêu cuối cùng mà còn chấp nhận các quan điểm về
các sự kiện, vì đó là cơ sở để đề ra các biện pháp cụ thể.
*
* *
Chúng
ta đã thấy rằng, trong bất kì kế hoạch kinh tế nào bao giờ cũng ngầm định một sự
nhất trí của toàn dân với một chuẩn mực đạo đức kiện toàn, một hệ thống giá trị
bao trùm lên tất cả; đây là điều không thể nào tồn tại được trong xã hội tự do;
người ta phải tạo ra nó. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng nhà lập kế hoạch không
nhận thức được như thế ngay từ đầu và ngay cả nếu như nhận thức được thì cũng
khó mà tạo được chuẩn mực đạo đức bao trùm như thế trước khi bắt đầu sọan thảo
kế hoạch. Xung đột giữa các nhu cầu khác nhau sẽ dần xuất hiện và khi chúng lộ
rõ thì phải có quyết định. Như thế nghĩa là chuẩn mực giá trị làm kim chỉ nam
cho quyết định không phải là in abstracto
(cái có trước- Latin – ND) khi phải
quyết định mà phải được tạo ra cùng với chính các quyết định đó. Chúng ta cũng
thấy rằng, việc không thể tách vấn đề giá trị khỏi các quyết định cụ thể làm
cho chính phủ dân chủ, trong khi không có khả năng soạn thảo tất cả các chi tiết
kĩ thuật cụ thể, lại càng không có khả năng quyết định các giá trị làm kim chỉ
nam cho hoạt động của nó.
Vì
cơ quan lập kế hoạch buộc phải thường xuyên giải quyết các vấn đề công lao mà
không có bất kì quy tắc đạo đức rõ ràng nào cho nên nó phải thường xuyên biện
minh hay ít nhất là thuyết phục dân chúng tin rằng đấy là các quyết định đúng đắn.
Và, mặc dù kẻ đưa ra quyết định có thể chỉ dựa vào định kiến của mình, người ta
vẫn buộc phải tuyên bố công khai một nguyên lý chung nào đó vì các thần dân không
chỉ phải tuân thủ một cách thụ động mà phải ủng hộ đường lối một cách tích cực
nữa. Nhu cầu hợp lý hóa thái độ yêu ghét chủ quan, tức là những thứ đóng vai trò
dẫn đạo người làm kế hoạch trong nhiều quyết định của mình, và nhu cầu tuyên bố
các lý lẽ của mình với hình thức phù hợp nhằm lôi kéo được càng nhiều người càng
tốt sẽ buộc người ta phải nghĩ ra đủ thứ lý luận tức là những điều khẳng định rằng
các sự kiện có mối liên kết nhân quả với nhau, các lý luận này sẽ trở thành một
phần của hệ tư tưởng chính thống.
Quá
trình sáng tạo “huyền thoại” nhằm biện hộ cho các hành động của chính quyền không
phải lúc nào cũng là việc làm có ý thức. Lãnh tụ của xã hội toàn trị có thể hành
động trên cơ sở lòng thù hận bẩm sinh của ông ta đối với trật tự hiện hành và ước
mơ thiết lập một trật tự thứ bậc mới, phù hợp với quan niệm về công bằng của chính
ông ta mà thôi, có thể đơn giản là ông ta không thích người Do Thái, nhưng họ lại
là những người thành đạt trong cái trật tự mà ông ta không thể chen chân vào và
mặt khác, ông ta lại thán phục những người cao to, tóc vàng, tức là trông giống
như các nhân vật “quí phái” trong những cuốn sách mà ông ta đã đọc thời niên
thiếu. Vậy là ông ta vồ vập ngay những lý thuyết cung cấp cơ sở hợp lẽ cho chính
các định kiến mà ông ta chia sẻ với các đồng đảng của mình. Các lý thuyết giả
khoa học trở thành một phần của hệ tư tưởng chính thống, là kim chỉ nam cho hành
động của nhiều người xuất hiện như thế đấy. Hay là thái độ căm ghét nền văn
minh công nghiệp và thi vị hoá đời sống thôn dã khá thịnh hành, lại được củng cố
thêm bằng lý luận (có lẽ là sai) rằng thôn quê sinh ra các chiến binh quả cảm,
lại tạo ra dưỡng chất cho một huyền thoại khác - huyền thoại but und Boden (Máu và đất - tiếng Đức – ND) chứa đựng không chỉ các
giá trị cao cả mà cả một loạt các khẳng định nhân quả, những khẳng định một khi
đã trở thành lý tưởng dẫn đạo cho hoạt động của tòan xã hội rồi thì không ai được
phép nghi ngờ nữa.
Nhu
cầu thiết lập các giáo điều chính thống như là công cụ định hướng và tập hợp các
cố gắng của tất cả mọi người đã được nhiều lý thuyết gia của hệ thống toàn trị đặt
ra. “Lời nói dối cao quí” của Platon cũng như “các huyền thoại” của Sorel phục
vụ cho cùng mục đích như lý thuyết chủng tộc của quốc xã hay thuyết nhà nước phường
hội của Mussolini. Chúng chỉ là những quan niệm cá biệt dựa trên các sự kiện mà
sau đó được chau truốt thành các lý thuyết khoa học nhằm biện minh cho các định
kiến có sẵn mà thôi.
*
* *
Cách
tốt nhất để người dân chấp nhận các giá trị mà họ phải phục vụ là thuyết phục
họ rằng đấy là các giá trị họ, hay ít nhất là những người tốt nhất trong số họ vẫn
luôn luôn tin tưởng, chỉ có điều trước đây họ đã hiểu chưa thật đúng. Nhân dân dược
huấn luyện để chuyển lòng trung thành từ các chúa trời cũ sang các chúa trời mới
với kì vọng rằng, các chúa trời mới đúng là điều họ cần, nhưng từ trước đến nay
họ chỉ mới lờ mờ cảm thấy như thế. Và biện pháp tốt nhất là gán cho các ngôn từ
cũ những ý nghĩa hoàn toàn mới. Ít có đặc điểm nào của chế độ tòan trị vừa làm
cho những người quan sát hời hợt phải lúng túng lại vừa đặc trưng cho bầu không
khí trí tuệ của chế độ toàn trị bằng việc xuyên tạc tòan diện ngôn ngữ, bằng
thay đổi ý nghĩa của những từ mà lý tưởng của chế độ mới thể hiện.
Bị xuyên tạc nhiều
nhất chính là từ “tự do”. Như ở bất kì nơi nào khác, từ này cũng được sử dụng một
cách tự do ngay trong các nhà nước toàn trị. Trên thực tế, có thể nói - và đây
phải là lời cảnh báo để chúng ta luôn phải thận trọng trước những kẻ hứa hẹn New Liberties for Old[1] (Tự do mới thay cho tự do cũ) - có thể nói rằng, bất cứ khi nào tự do,
theo nghĩa chúng ta hiểu, bị phá họai thì bao giờ người ta cũng hứa hẹn cho
nhân dân một nền tự do mới. Ngay trong chúng ta cũng có “những người ủng hộ kế
hoạch hoá nhân danh tự do”, những người này còn hứa cho chúng ta nền “tự do tập
thể cho cả nhóm”, mà ý nghĩa của nó sẽ trở nên rõ ràng nếu ta chú ý đến điều họ
nói sau đây: “dĩ nhiên là đạt được tự do theo kế hoạch không có nghĩa là thủ tiêu
ngay lập tức tất cả <sic!> mọi hình thức của tự do đã từng tồn tại trước đây”.
Tiến sĩ Karl Mannheim, người có tác phẩm chứa câu dẫn bên
trên[2], ít nhất đã cảnh báo chúng ta rằng “khái niệm tự do hình thành trong
thời đại trước là cản ngại cho cách hiểu đúng đắn vấn đề này”. Nhưng chính từ
“tự do’ trong lập luận của ông ta cũng đáng ngờ như khi nó nằm trên đầu lưỡi của
các chính khách toàn trị mà thôi. Giống như họ, cái “tự do tập thể” mà ông ta đề
nghị không phải là tự do của từng thành viên trong xã hội mà là quyền tự do của
người lập kế hoạch, được phép làm với xã hội tất cả những gì ông ta muốn[3]. Đây
là sự lẫn lộn của tự do với quyền lực tuyệt đối.
Trong trường hợp cụ thể này, không nghi ngờ
gì rằng chính các nhà triết học Đức, trong đó có các lý thuyết gia xã hội chủ
nghĩa, đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc xuyên tạc ý nghĩa của từ “tự
do”. Nhưng “tự do” không phải là từ duy nhất mà ý nghĩa đã bị đánh tráo theo hướng ngược
lại để trở thành công cụ của bộ máy tuyên truyền toàn trị. Chúng ta đã chứng kiến chuyện tương tự với
các khái niệm như “luật pháp” và “công lý”, “quyền” và “bình đẳng”. Cái danh sách này có thể
còn kéo dài, có thể đưa vào đây hầu như tất cả các thuật ngữ chính trị và đạo đức
thường dùng hằng ngày.
Một
người chưa tự mình trải nghiệm thì khó mà đánh giá được mức độ xuyên tạc ý nghĩa
của các từ và sự rối rắm mà nó gây ra cũng như những rào cản mà nó tạo ra cho bất
kì cuộc thảo luận duy lý nào. Phải tận mắt chứng kiến thì mới hiểu được là sao
mà hai anh em ruột không thể giao thiệp được với nhau, sau khi một người cải đạo
bắt đầu nói bằng một ngôn ngữ hoàn toàn khác. Còn rắc rối hơn vì sự thay đổi ý
nghĩa của các từ thể hiện lý tưởng chính trị diễn ra không chỉ một lần mà là một
quá trình liên tục, đã trở thành kĩ thuật tuyên truyền, cố ý hoặc vô tình nhằm định
hướng tư duy của con người. Dần dà, khi quá trình này đã đạt đến một mức độ nhất
định thì ngôn ngữ trở thành bất lực, từ ngữ trở thành vỏ bọc trống rỗng chẳng còn
ý nghĩa xác định nào, có thể biểu hiện cả nghĩa hòan tòan khác với nghĩa ban đầu
của chúng, và chỉ được dùng để tạo ra những liên tưởng cảm xúc còn gắn bó với
chúng mà thôi.
* * *
Tước đoạt khả năng suy nghĩ độc lập
của rất nhiều người là việc không khó. Nhưng thiểu số những người còn giữ được khả năng phê bình cũng phải bị
bịt miệng. Như chúng ta đã thấy, vấn đề không chỉ là ép buộc nhân dân chấp nhận một chuẩn mực đạo đức dùng làm cơ sở cho kế hoạch hoạt động của toàn bộ xã hội. Vì nhiều điều khoản trong cái bộ
chuẩn mực đó không thể phát biểu một cách tường minh được, vì nhiều điều khỏan trong thang giá trị làm kim chỉ nam cho hoạt động chỉ tồn tại một cách ngầm định trong bản kế hoạch, còn các chi tiết của bản kế hoạch và mỗi hành động của chính phủ đều phải trở thành thiêng liêng và không thể bị phê bình. Muốn cho dân chúng ủng hộ sự nghiệp chung một cách vô điều kiện thì phải thuyết phục họ rằng, không
chỉ mục đích mà
cả phương tiện được lựa chọn đều
là những
thứ đúng đắn. Vì vậy, giáo điều chính thống phải bao trùm tất cả các sự kiện làm
nền tảng cho kế họach và phải nhồi vào óc mọi thần dân. Mọi lời phê phán công khai hay thậm chí ngay cả những biểu hiện của sự nghi ngờ cũng bị đàn áp vì chúng có thể làm suy giảm sự ủng hộ của công chúng. Như Sidney và Beatrice Webb viết về tình hình trong các xí nghiệp ở Nga: “Khi công việc đang được tiến
hành bất kì biểu hiện công khai nào về sự ngờ vực, thậm chí lo lắng về khả năng thành công của kế hoạch đều bị coi là sự bất trung, thậm chí phản bội, vì nó có thể ảnh hưởng đến ý chí và nỗ lực của những người khác[4]”. Còn nếu nghi ngờ và lo lắng không phải là về sự thành công của một xí nghiệp cụ thể mà liên quan đến kế họach của tòan thể xã hội thì bị coi là hành động phá họai.
Như vậy là, sự kiện và lý
thuyết cũng như các quan điểm về giá trị đều trở thành những thành tố không thể tách rời của hệ tư tưởng. Tất cả các kênh truyền bá kiến thức - trường học và sách
báo, đài phát thanh và phim ảnh - tất cả đều được sử dụng để truyền bá các quan điểm, bất luận là đúng hay sai, nhằm củng cố niềm tin vào sự đúng đắn của chính quyền; trong khi đó, mọi thông tin có thể gây nghi ngờ hay tạo ra dao động đều bị cấm. Tiêu chuẩn để cho hoặc không cho công bố một thông tin là ảnh hưởng của nó đối với lòng trung thành của nhân dân. Nói tóm lại, chính thể tòan trị luôn luôn nằm trong tình trạng mà ở các nước khác chỉ có thể xảy ra trong thời chiến. Người ta giấu tất cả những gì có thể làm cho nhân dân nghi ngờ sự sáng suốt hay làm mất niềm tin vào chính phủ. Thông tin về điều kiện sống của người dân ở các nước khác có thể tạo cơ sở cho những so sánh bất lợi, kiến thức về những đường lối khả dĩ có thể lựa chọn, thông tin cho phép người ta nghĩ rằng chính phủ đã mắc sai lầm, đã bỏ qua cơ hội cải thiện đời sống của người dân...v.v.. đều bị cấm hết. Kết quả là, thông tin trong tất cả mọi lĩnh vực đều bị kiểm sóat, đấy là nhằm tạo ra một sự thống nhất tuyệt đối về tư tưởng.
Việc kiểm sóat được thực hiện với cả những lĩnh vực có vẻ như chẳng liên quan gì đến chính trị, và
đặc biệt là với tất cả các ngành khoa học,
thậm chí là cả những ngành trừu tượng nhất. Dưới chính thể tòan trị, các ngành khoa học liên
quan trực tiếp đến các vấn đề của con người và vì vậy mà có thể tạo ra ảnh
hưởng trực tiếp tới quan điểm chính trị như lịch sử, luật học hay kinh tế học không được
phép tiến hành được các nghiên cứu mang tính khách quan
hòng truy tìm chân lý, nhiệm vụ duy nhất của các ngành này là chứng minh tính đúng đắn của các quan điểm chính thống, đây là sự kiện ai cũng biết và đã được thực tế xác nhận. Trong tất cả các nước tòan trị, các ngành khoa học này đã trở thành những kênh cung cấp huyền thọai hiệu quả nhất, chính quyền đã dùng chính những huyền thọai này để tác động lên lý trí và ý chí của các
thần dân. Điều đặc biệt là các nhà khoa học trong những lĩnh vực nói trên không thèm giả vờ rằng họ đang tìm tòi chân lý, chính nhà chức trách quyết định phải giảng
dạy và công bố những luận thuyết nào.
Việc kiểm sóat tòan diện lan sang cả những lĩnh vực mà mới nhìn
dường như chẳng có một tí ý nghĩa chính trị nào. Đôi khi thật khó mà giải thích vì sao lý
thuyết này được ủng hộ mà lý
thuyết kia thì bị phê phán, nhưng điều kì lạ là trong các nước tòan trị khác nhau sự yêu ghét, trong nhiều trường hợp, lại dường
như giống nhau. Cụ thể là, trong các nước này người ta bao giờ cũng có phản ứng tiêu cực đối với những hình thức tư duy trừu tượng, đây là phản ứng đặc trưng ngay cả trong số các nhà khoa học ủng hộ chủ nghĩa tập thể của chúng ta. Thuyết tương đối bị bác bỏ vì nó là “âm mưu của bọn Do Thái nhằm phá họai nền
tảng Vật lý Thiên chúa giáo và Bắc Âu ” hay là nó “mâu thuẫn với chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa duy vật biện chứng” có
giá trị cũng gần như nhau. Cũng chẳng
có gì khác nhau trong những cuộc tấn công vào một số định lý tóan thống kê,
bất kể chúng “là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng và là
sản phẩm phục vụ giai cấp tư sản” hay toàn
bộ lĩnh vực này bị lên
án vì “không có gì bảo đảm rằng nó sẽ phục vụ quyền lợi của nhân dân”. Dường như không chỉ môn tóan ứng dụng mà cả môn tóan lý
thuyết cũng được xem xét trên những quan điểm như thế, bất luận thế nào thì một vài quan điểm về các hàm liên tục đã bị coi là “định kiến tư sản”. Theo tường trình của ông bà Webb thì tạp chí Journal for Marxist-Leninist Natural Sciences (Tạp chí khoa học tự nhiên Marxist-Leninist) đầy rẫy các khẩu
hiệu như “Bảo vệ tính đảng trong tóan học” hay “Bảo vệ sự trong sáng của học thuyết Marx-Lenin trong phẫu thuật học”. Ở Đức, tình hình cũng tương tự như thế. Tờ Journal of the National-Socialist Association of Mathematicans (Tạp chí của Hiệp hội các nhà tóan học Xã hội chủ nghĩa quốc gia) cũng đầy rẫy “tính đảng”, thậm chí Lenard, nhà vật lý Đức nổi tiếng nhất, huân chương Nobel còn tổng kết sự nghiệp của đời mình trong bộ tòan tập với tên gọi: German Physics in Four Volumes!
(Vật lý Đức trong bốn tập!)
Việc
lên án tất cả mọi họat động không có mục đích thực tiễn trước mắt là hòan tòan
phù hợp với tinh thần của chủ nghĩa tòan trị. Khoa học vị khoa học hay nghệ thuật
vị nghệ thuật đều bị những người quốc xã, những trí thức theo đường lối xã hội
chủ nghĩa và cộng sản của chúng ta căm ghét như nhau. Mọi họat động đều phải có mục đích xã hội rõ ràng. Họat động tự phát
hay không được cấp trên hướng dẫn đều không được khuyến khích vì có thể dẫn đến
những kết quả không lường trước được, những kết quả không nằm trong kế họach
nào. Những hoạt động như thế có thể tạo ra một cái gì đó mới mẻ, không thể tưởng
tượng nổi trong triết lý của người lập kế họach. Nguyên tắc này còn lan sang cả
lĩnh vực trò chơi và giải trí nữa. Tôi xin mời độc giả đoán xem những người
chơi cờ ở Nga hay ở Đức phải hô hào: "Chúng ta phải chấm dứt một lần và
vĩnh viễn thái độ trung lập của môn cờ vua. Chúng ta phải lên án một lần và
vĩnh viễn công thức ‘cờ vị cờ’ cũng như ‘nghệ thuật vị nghệ thuật’”.
Dù
sự xuyên tạc như thế có là chuyện khó tin đến đâu, chúng ta cũng phải nhận thức
rõ rằng đấy không phải là những lệch lạc vô tình, không có liên quan gì với bản
chất của hệ thống kế hoạch hóa hay tòan trị. Không phải như thế. Chúng là kết
quả của chính cái ước muốn buộc tất cả phải quy phục “quan điểm duy nhất về cái
tòan thể”, của những nỗ lực nhằm giữ vững quan điểm bằng mọi giá, bắt nhân dân
phải liên tục hy sinh nhân danh các quan điểm đó và của tư tưởng cho rằng kiến
thức và niềm tin của con người chỉ là công cụ được sử dụng nhằm thực hiện một mục
tiêu duy nhất. Khi khoa học không còn phụng sự chân lý mà phụng sự quyền lợi giai
cấp, cộng đồng hay nhà nước thì nhiệm vụ của tranh luận và thảo luận chỉ còn là
chứng minh và truyền bá những quan điểm vốn là kim chỉ nam cho tòan bộ xã hội mà
thôi. Như Bộ trưởng Bộ Tư pháp quốc xã đã giải thích, tất cả mọi lý thuyết khoa
học mới đều phải tự hỏi: “Ta có phụng sự chủ nghĩa xã hội quốc gia vì lợi ích
cao cả của tòan dân hay không?”
Chính
từ “chân lý” đã đánh mất ý nghĩa xưa cũ của nó. Nếu trước đây, từ này dùng để mô
tả cái cần tìm, mà lương tâm cá nhân là người quyết định duy nhất rằng bằng chứng
(hay địa vị của người đưa ra bằng chứng ấy) có bảo đảm độ tin cậy hay không thì
nay chân lý là do người có quyền đặt ra, là cái mà mọi người phải tin nhân danh
sự thống nhất vì sự nghiệp chung và chân lý có thể thay đổi một khi nhu cầu của
sự nghiệp chung đòi hỏi[5].
Điều
đó đã tạo ra một bầu không khí trí tuệ đặc thù với thái độ vô liêm sỉ đối với cái
chân lý mà nó tạo ra, đánh mất ngay chính ý nghĩa của từ chân lý, đánh mất tinh
thần tìm tòi độc lập và niềm tin vào sức mạnh thuyết phục của lý trí, và những
khác biệt về quan điểm trong tất cả các lĩnh vực khoa học trở thành các vấn đề
chính trị mà nhà chức trách là người có tiếng nói cuối cùng - phải trải nghiệm
thì mới hiểu được, đấy là những điều không thể diễn tả nổi trên một vài trang
giấy. Nhưng, có lẽ, đáng ngại nhất là thái độ coi thường tự do trí tuệ, không phải
chỉ xuất hiện sau khi chế độ tòan trị đã được thiết lập mà là thái độ của nhiều
nhà trí thức ôm ấp tư tưởng chủ nghĩa tập thể, cũng như những người tự coi mình
là đầu lĩnh trí tuệ ngay trong các nước có chế độ tự do. Nhưng, người đang làm như
thay mặt các nhà khoa học trong các nước tự do công khai biện hộ không chỉ cho
những vụ đàn áp tồi tệ nhất nhân danh chủ nghĩa xã hội và thiết lập hệ thống tòan
trị mà còn công khai kêu gọi thái độ bất dung. Chẳng phải là gần đây chúng ta
đã thấy một nhà khoa học Anh bảo vệ Tòa án dị giáo (Inquisition) vì theo ông ta
“nó có lợi cho khoa học khi bảo vệ giai cấp đang lên[6]” hay sao? Quan
điểm đó thật chẳng khác gì thái độ của bọn quốc xã, những kẻ đã từng bức hại các
nhà khoa học, đốt sách và đào tận gốc một cách có hệ thống tầng lớp trí thức của
các dân tộc nằm dưới quyền cai trị của chúng.
* * *
Ước muốn áp đặt cho dân chúng một tín điều được coi là bổ ích đối với họ dĩ nhiên là không phải là điều mới lạ hay đặc biệt mà chỉ thời chúng ta mới có. Cái mới là lý lẽ mà các nhà trí thức của chúng ta dùng để biện hộ cho nó. Họ bảo rằng không làm gì có tự do tư tưởng trong xã hội hiện nay, vì rằng ý kiến và thị hiếu của dân chúng được định hình bởi tuyên truyền, quảng cáo và cách sống của tầng lớp trên, cũng như những điều kiện khác là những thứ nhất định sẽ định hướng tư duy của dân chúng vào những lối mòn có sẵn. Từ đó họ rút ra kết luận rằng nếu lý
tưởng và thị hiếu của đa phần dân chúng được nhào nặn bởi hòan cảnh mà ta có thể kiểm sóat được thì ta phải sử dụng cái quyền lực này một cách chủ động để lái tư duy của dân chúng vào hướng có lợi nhất.
Có lẽ đúng là phần lớn dân chúng không có khả năng tư duy độc lập, người ta sẵn sàng chấp nhận các quan điểm có sẵn về hàng lọat vấn đề và người ta cảm thấy hài lòng với những đức tin hình thành từ thời thơ ấu hay được lôi kéo vào. Trong bất
cứ xã hội
nào, tự do tư tưởng
có thể cũng chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với một thiểu số không đáng kể. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng một người nào đó có quyền quyết định rằng ai mới là người được phép tự do tư tưởng. Cũng không có nghĩa là một nhóm người nào đó được quyền tuyên bố rằng người dân phải nghĩ thế này hay phải tin thế kia. Đấy
là sai lầm của
tư tưởng cho rằng hệ thống nào thì đa số dân chúng cũng đi theo sự lãnh đạo của một ngưới nào đó, cho nên nếu tất cả mọi người cùng đi theo ông ta thì cũng thế mà thôi. Phủ nhận quyền tự do trí
tuệ vì không phải ai cũng có khả năng tư duy độc lập như nhau là hòan tòan bỏ qua những lý lẽ biện minh cho tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng là động cơ chủ yếu thúc đẩy sự tiến bộ về mặt tri thức không phải là vì ai cũng có thể nói hay viết bất kì cái gì mà là bất cứ động
cơ hay tư tưởng nào cũng có thể được đem ra thảo luận. Khi bất đồng quan điểm không bị đàn áp thì bao giờ cũng có người tỏ ra nghi ngờ những tư tưởng dẫn đạo đương thời và đưa ra những tư tưởng mới cho mọi người thảo luận và tuyên truyền.
Quá trình tương tác như
thế giữa các cá nhân có những hiểu biết và đứng trên các quan điểm khác nhau tạo ra đời sống tinh thần. Sự phát triển của lý tính là tiến trình xã hội đặt căn bản trên sự khác biệt như thế. Bản chất của vấn đề là ta không thể tiên đóan được kết quả, ta không thể biết quan điểm nào sẽ thúc đẩy cho sự phát triển còn quan điểm nào thì không
- tóm lại, không có quan điểm nào hiện nay lại có thể định hướng được sự phát triển mà đồng thời lại không ngăn chặn chính sự phát triển đó. “Lập kế hoạch" hay “tổ chức” sự phát triển của tâm trí cũng như sự phát triển nói chung là vô nghĩa, là mâu thuẫn ngay trong thuật ngữ. Ý tưởng cho rằng tâm trí của con người phải “tự giác” kiểm sóat sự phát triển của chính nó xuất phát từ nhận thức sai lầm về lý tính
của con người; sự
thực là, chỉ có lí tính
mới có thể “chủ động kiểm soát” một cái gì đó khác và sự phát triển của lý tính
là kết quả của quá trình tương tác giữa
các cá nhân với nhau. Cố tình kiểm sóat nó là chúng ta đã đặt giới hạn cho sự phát triển của nó và không chóng thì chày sẽ dẫn đến sự trì trệ về tư tưởng và sự suy thóai của lý trí.
Bi kịch của tư tưởng tập thể là ở chỗ nó bắt đầu bằng việc coi lý
tính là tối thượng, nhưng lại kết thúc bằng việc tiêu diệt lý
tính vì đã hiểu sai tiến trình đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của lý trí. Có thể nói rằng đấy chính là nghịch lý của tất cả các học thuyết theo đường lối tập thể và cái yêu cầu kiểm soát một cách “tự giác” hay “chủ động” lập kế hoạch nhất định sẽ dẫn đến nhu cầu phải có một trí tuệ tối cao điều khiển tất cả, trong khi cách tiếp cận của chủ nghĩa cá nhân cho phép chúng ta nhận chân rằng các lực lượng siêu-cá-nhân mới là lực lượng dẫn dắt sự phát triển của lý
tính. Chủ nghĩa cá nhân chính là thái độ khiêm nhường trước các tiến trình xã hội và thái độ khoan dung đối với những ý kiến khác biệt, trái ngược hẳn với thói tự phụ nằm sẵn trong cội nguồn của yêu cầu lãnh đạo tòan diện đời sống xã hội.
[1] Nhan
đề một tác phẩm mới của nhà sử học Carl Becker
[2] Man and Society in an Age of Reconstruction.
P. 377
[3] Peter
Drucker đã nhận xét rất đúng rằng “trên thực tế càng có ít tự do thì càng có
nhiều lời nói suông về “tự do mới”. Nhưng đây chỉ là ngôn từ che đậy cách hiểu trái ngược hoàn toàn với
cách hiểu về tự do từng thịnh hành ở châu Âu…. Tự do mới mà người ta đang tuyên
truyền ở châu Âu chính là đa số có quyền áp đặt ý chí của mình lên cá nhân con
người”(The End of Economic Man). P. 74).
[6]
Crowther J.G. The Social Relations of
Science, 1941. P. 333
tập thể sẽ sáng suốt hơn cá nhân chứ
ReplyDelete