June 19, 2020

Đường về nô lệ (8)



V.                Kế hoạch hoá và dân chủ

 

Quan chức nhà nước, những người có ý định hướng dẫn dân chúng cách sử dụng đồng vốn của họ, không chỉ khoác lên mình một sự chú ý không cần thiết mà còn chiếm được quyền lực không thể trao cho bất kỳ hội đồng hay nghị viện nào, chưa ở đâu quyền lực lại trở nên nguy hiểm như khi nó nằm trong tay một kẻ điên rồ và ngạo mạn đến mức nghĩ rằng mình đủ sức sử dụng quyền lực đó.

Adam Smith

Đặc điểm chung của tất cả các hệ thống tập thể có thể được mô tả bằng một câu thân thuộc nhất với những người xã hội chủ nghĩa thuộc mọi các trường phái: Tổ chức một cách có chủ ý lực lượng lao động của xã hội để thực hiện một nhiệm vụ xã hội cụ thể nào đó. Xã hội chúng ta không có lãnh đạo “tự giác” nhằm hướng tới một mục tiêu duy nhất, tất cả các hoạt động của xã hội bị điều khiển bởi tâm trạng thất thường và đỏng đảnh của các cá nhân thiếu trách nhiệm, là một trong những lời phàn nàn chính của những nhà phê bình theo trường phái xã hội chủ nghĩa. 


Như thế nghĩa là chúng ta đã xác định vấn đề cơ bản một cách cực kì rõ ràng rồi. Đồng thời, chúng ta cũng xác định được điểm xung đột giữa tự do cá nhân và chủ nghĩa tập thể. Các loại chủ nghĩa tập thể khác nhau như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít v..v.. chỉ khác nhau ở  bản chất của cái mục đích duy nhất mà toàn bộ nỗ lực của xã hội phải hướng tới mà thôi. Nhưng tất cả các loại chủ nghĩa tập thể đó đều khác với chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân ở chỗ chúng muốn tổ chức toàn bộ xã hội và tất cả các nguồn lực của nó nhằm thực hiện một mục đích đơn nhất, và không công nhận các lĩnh vực tự trị, trong đó mục tiêu của các cá nhân là tối thượng. Tóm lại, đấy là chủ nghĩa toàn trị theo đúng nghĩa của từ mới mà chúng ta sử dụng để miêu tả những biểu hiện bất ngờ nhưng nhất định sẽ xảy ra của cái lý thuyết mà chúng vẫn gọi là chủ nghĩa tập thể.

“Mục tiêu xã hội” hay “mục đích chung” mà xã hội được tổ chức để nhắm tới thường được mô tả một cách mù mờ là “lợi ích chung”, “phúc lợi chung”, “quyền lợi chung”. Không cần suy nghĩ nhiều cũng nhận ra rằng những thuật ngữ này không có ý nghĩa rõ ràng để có thể quyết định đường lối hành động cụ thể. Phúc lợi hay hạnh phúc của hàng triệu người không thể được đo bằng thang giá trị duy nhất. Phúc lợi của một dân tộc cũng như hạnh phúc của một con người phụ thuộc vào hàng loạt sự vật, những sự vật này lại có thể được cung cấp theo muôn vàn cách kết hợp khác nhau. Không thể nói rằng đấy là mục tiêu duy nhất, chỉ có thể coi đấy là một loạt mục tiêu, xếp theo thang bậc, bao trùm toàn bộ các loại giá trị, trong đó nhu cầu của mỗi cá nhân đều có chỗ đứng của nó. Việc đưa toàn bộ hoạt động của chúng ta vào một kế hoạch duy nhất ngầm định rằng mỗi nhu cầu của chúng ta đều có vị trí trong trật tự các giá trị,  một trật tự toàn diện đến mức trở thành cơ sở để cho cơ quan lập kế hoạch quyết định lựa chọn đường lối hành động. Điều đó cũng ngầm định rằng, phải có một bộ quy tắc đạo đức hoàn chỉnh, trong đó, tất cả các giá trị nhân bản khác nhau đều được chỉ rõ và đặt vào đúng nơi đúng chỗ.

Chúng ta chưa biết gì về khái niệm quy tắc đạo đức hoàn chỉnh này, cần phải huy động trí tưởng tượng thì mới có thể biết nó bao gồm những cái gì. Chúng ta không có thói quen đánh giá các bộ quy tắc đạo đức là đầy đủ hay chưa. Sự kiện là chúng ta thường xuyên lựa chọn các giá trị khác nhau mà không có bộ quy tắc đạo đức nào chỉ dẫn cho chúng ta cách thức lựa chọn không làm chúng ta ngạc nhiên và cũng không giả định rằng bộ quy tắc đạo đức của chúng ta là chưa đầy đủ. Trong xã hội chúng ta, không có lý do cũng không có hoàn cảnh nào buộc người ta phải đưa ra một quan niệm chung về việc phải làm gì trong những tình huống như vậy. Nhưng khi tất cả các phương tiện sản xuất là sở hữu của toàn xã hội và được sử dụng nhân danh xã hội theo một kế hoạch duy nhất thì quan điểm “xã hội” về việc phải làm cái gì phải trở thành kim chỉ nam cho mọi quyết định. Trong thế giới như thế, chúng ta sẽ phát hiện được ngay là bộ quy tắc đạo đức của chúng ta còn đầy khiếm khuyết.

Ở đây chúng ta không quan tâm đến việc là quy tắc đạo đức bao trùm lên tất cả như thế là đáng mong ước hay không. Chỉ xin nói rằng, cho đến hôm nay, sự phát triển của nền văn minh luôn luôn đi kèm với việc giảm thiểu những lĩnh vực hoạt động, trong đó, hành động của các cá nhân bị trói buộc bởi các luật lệ cố định. Số lượng các điều luật của quy tắc đạo đức ngày một giảm dần, còn nội dung của chúng thì ngày càng có tính tổng quát hơn. Từ người tiền sử, bị trói buộc bởi những nghi lễ cực kì phức tạp và những cấm đoán trong hầu như tất cả các hoạt động thường nhật, ít khi nghĩ rằng có thể làm một cái gì đó khác với đồng loại, đạo đức có xu hướng ngày càng trở thành những giới hạn bao quanh lĩnh vực, trong đó, cá nhân có thể hành xử theo ý mình. Chấp nhận một quy tắc đạo đức chung rộng lớn đến mức đủ sức ban hành một kế hoạch kinh tế duy nhất có nghĩa là lật ngược hoàn toàn xu hướng nói trên.

Cực kì quan trọng là chưa có quy tắc đạo đức nào như thế. Nỗ lực lãnh đạo toàn bộ hoạt  động kinh tế theo một kế hoạch duy nhất sẽ làm nảy sinh rất nhiều vấn đề, mà câu trả lời lại chỉ có thể tìm trong lĩnh vực đạo đức, nhưng các hệ thống đạo đức hiện hành không thể đưa ra câu trả lời và ngay cả nếu có hệ thống như thế, người ta cũng không thể nhất trí với nhau về việc phải làm cái gì. Người ta sẽ có hoặc là những quan điểm không rõ ràng hoặc là mâu thuẫn nhau, vì trong xã hội tự do mà chúng ta đã và đang sống, chúng ta không có cơ hội suy nghĩ và càng ít cơ hội thiết lập ý kiến thống nhất về những vấn đề như thế.
* * *
Chúng ta không những không có một thang giá trị bao trùm lên tất cả, mà không có một bộ óc nào có thể bao quát hết các nhu cầu cực kì đa dạng của những người khác nhau - những nhu cầu này lại phải cạnh tranh với nhau để giành những nguồn lực hiện có - và không thể xác định được vị trí của mỗi nhu cầu trên cái thang giá trị chung kia. Việc một người chỉ cố gắng đáp ứng nhu cầu cá nhân của anh ta hay đang đấu tranh vì hạnh phúc của người thân hay hạnh phúc của những người xa lạ - nghĩa là anh ta là người nhân ái hay ích kỉ theo nghĩa thông thường của những từ này - không phải là quan trọng đối với chúng ta. Quan trọng là, mỗi người chỉ có thể bao quát được lĩnh vực có giới hạn, chỉ có thể nhận thức được tính cấp bách của số lượng hạn chế các nhu cầu mà thôi. Dù quan tâm của một người chỉ quanh quẩn ở việc thoả mãn các nhu cầu vật chất của chính mình, hay anh ta nhiệt tình quan tâm tới phúc lợi của tất cả những người mà anh ta biết thì những mục tiêu thu hút toàn bộ tâm trí anh ta cũng chỉ là một phần rất nhỏ trong cái biển nhu cầu của tất cả mọi người mà thôi.

Đấy chính là nền tảng của triết học cá nhân chủ nghĩa. Nó không cho rằng, như người ta thường khẳng định, con người thực chất là ích kỉ hay vị kỉ hoặc phải là ích kỉ hay vị kỉ. Nó xuất phát từ sự kiện không thể chối cãi được là khả năng tưởng tượng của con người dĩ nhiên là có giới hạn, vì thế, thang giá trị của  mỗi người chỉ bao quát một phần trong muôn vàn nhu cầu của xã hội và vì, nói một cách nghiêm khắc, thang giá trị đó chỉ tồn tại trong đầu óc của từng cá nhân, cho nên, nó chỉ là một phần của những thang giá trị hiện có - thang giá trị của những cá nhân khác nhau là khác nhau và thường không tương thích với nhau. Từ đó, người theo chủ nghĩa cá nhân rút ra kết luận rằng, từng cá nhân phải được phép, trong những giới hạn nhất định, theo đuổi các giá trị và sở thích riêng của mình chứ không phải là theo đuổi giá trị và sở thích của người khác, và trong các lĩnh vực đó, hệ thống các mục tiêu của cá nhân là tối thượng, người khác không có quyền can thiệp. Việc công nhận cá nhân có toàn quyền định đoạt các mục tiêu của mình và niềm tin rằng trong những hoàn cảnh cho phép, các quan niệm của cá nhân sẽ điều khiển hoạt động của anh ta, chính là cốt tủy của lập trường cá nhân chủ nghĩa. 

Dĩ nhiên là, quan điểm đó không bác bỏ một số mục tiêu mang tính xã hội hay nói chính xác hơn là các cá nhân có một số nhu cầu giống nhau, buộc họ phải phối hợp nỗ lực nhằm theo đuổi mục tiêu chung. Nhưng, hành động chung chỉ được thực hiện khi quan niệm của các cá nhân trùng hợp với nhau; cái mà chúng ta gọi là “những mục đích xã hội” đơn giản chỉ là mục tiêu giống nhau của nhiều người – hoặc đấy là những mục tiêu mà các cá nhân muốn đóng góp để giành cho bằng được, nhằm đền đáp lại sự giúp đỡ mà họ nhận được trong khi tìm cách thỏa mãn ước muốn của mình. Như vậy là, hoạt động chung chỉ giới hạn trong lĩnh vực nơi người ta tìm được những mục đích chung. Thường thường, mục tiêu chung này lại không phải là mục tiêu tối thượng của cá nhân, mà là phương tiện để cho các cá nhân khác nhau sử dụng cho các mục tiêu khác nhau của mình. Trên thực tế, người ta dễ thoả thuận những hành động chung khi mục tiêu chung không phải là mục tiêu tối thượng của mình, mà chỉ là phương tiện để đạt được những mục đích vô cùng khác nhau. 

Khi các cá nhân phối hợp những nỗ lực cho mục tiêu chung thì các tổ chức mà họ thiết lập nên, ví dụ, nhà nước, sẽ được khoác cho một hệ thống các mục đích và phương tiện của mình. Nhưng bất kì tổ chức nào được thành lập theo kiểu đó cũng  chỉ là một “nhân vật” giữa hàng loạt nhân vật khác, nhà nước là “nhân vật” mạnh nhất trong số đó, nhưng nhà nước cũng có lĩnh vực hoạt động giới hạn và riêng rẽ, trong đó mục đích của nó là tối thượng. Việc xác lập các giới hạn trong từng lĩnh vực phụ thuộc vào việc khi thảo luận các mục đích cụ thể người ta đã đạt được đồng thuận đến mức nào; và đương nhiên là lĩnh vực hoạt động càng rộng thì khả năng đạt được đồng thuận sẽ càng thấp. Một số chức năng của nhà nước luôn luôn nhận được sự ủng hộ của toàn dân; một số khác được đa số ủng hộ..v..v.., lại có những lĩnh vực mà mỗi người một quan điểm, có bao nhiêu người thì có từng ấy quan niệm về cách hành xử của chính phủ.

Chúng ta có thể dựa vào sự thoả thuận tự nguyện làm kim chỉ nam cho hoạt động của nhà nước khi và chỉ khi nó được giới hạn trong lĩnh vực có sự đồng thuận. Nhưng nhà nước không chỉ đàn áp tự do cá nhân khi nó kiểm soát trực tiếp các lĩnh vực chưa có đồng thuận. Không may là, không thể mở rộng mãi lĩnh vực hoạt động chung mà vẫn để cho cá nhân được tự do trong lĩnh vực riêng của mình. Chỉ cần nhà nước kiểm soát các phương tiện trong một lĩnh vực công cộng vượt quá một tỉ lệ nào đó so với toàn thể thì kết quả của những hành động đó sẽ thống trị toàn bộ hệ thống. Dù nhà nước chỉ trực tiếp quản lý một phần, phần lớn hơn, các nguồn lực thì hậu quả của những quyết định của nó lên phần còn lại của hệ thống kinh tế sẽ lớn đến mức nó đã gián tiếp quản lý hầu như tất cả. Ví dụ, đúng là năm 1928, ở Đức, chính quyền trung ương và địa phương đã trực tiếp kiểm soát hơn một nửa thu nhập quốc dân (theo số liệu chính thức lúc đó là 53%), nhưng nó đã gián tiếp kiểm soát tất cả đời sống kinh tế quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, hầu như không có mục đích cá nhân nào là không phụ thuộc vào hành động của nhà nước, và cái “thang giá trị mang tính xã hội”, có trách nhiệm hướng dẫn hoạt động của nhà nước, sẽ phải “ôm” gần như tất cả các nhu cầu cá nhân.

* * *
Không khó tưởng tượng những hậu quả khi chế độ dân chủ bước lên con đường kế hoạch hoá, mà quá trình thực hiện sẽ đòi hỏi sự đồng thuận lớn hơn hiện nay. Dân chúng có thể chấp nhận áp dụng hệ thống kinh tế chỉ huy vì họ bị thuyết phục rằng nó sẽ dẫn đến phồn vinh hơn. Trong các cuộc thảo luận dẫn đến quyết định như thế, mục đích của kế hoạch hoá sẽ được mô tả bằng một từ rất mù mờ là “phúc lợi chung”, không chỉ che đậy sự thiếu đồng thuận, trên thực tế, về các mục tiêu của kế hoạch hóa. Trên thực tế, mới có đồng thuận về cơ chế được sử dụng mà thôi. Nhưng đấy là cơ chế để đạt mục tiêu chung, còn mục tiêu chính xác mà hoạt động nhắm tới là gì thì lại chỉ xuất hiện sau khi chính quyền hành pháp chuyển các yêu cầu của một kế hoạch duy nhất thành kế hoạch cụ thể. Lúc đó mới thấy rằng thoả thuận về mong muốn áp dụng kế hoạch hoá không được xây dựng trên cơ sở thoả thuận về mục tiêu mà kế hoạch nhắm tới. Nhưng việc đồng ý là cần phải kế hoạch hoá tập trung mà không có thoả thuận về các mục đích thì có khác gì một nhóm người thoả thuận đi với nhau mà chưa thoả thuận là họ muốn đi đâu: Kết quả là có thể tất cả đều phải tham gia một chuyến đi mà đa số hoàn toàn không muốn chút nào. Kế hoạch hoá tạo ra tình thế, trong đó, chúng ta buộc phải thoả thuận về rất nhiều vấn đề, hơn mức mà trước đây ta vẫn thường làm, và, trong hệ thống kế hoạch hoá, chúng ta không thể hạn chế hành động tập thể trong những lĩnh vực đã đạt được đồng thuận, mà, muốn thực hiện bất cứ hành động nào, chúng ta phải đồng thuận về tất cả mọi vấn đề, đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của kế hoạch hóa. 

Dân chúng có thể nhất trí đòi quốc hội phải chuẩn bị một kế hoạch kinh tế toàn diện, nhưng cả dân chúng lẫn những người đại diện cho họ lại chẳng cần có khả năng thoả thuận về bất kì kế hoạch cụ thể nào. Việc các cơ quan đại diện không thể thực hiện được nhiệm vụ dường như là rõ ràng mà cử tri đã trao cho họ nhất định sẽ làm cho dân chúng bất bình về các thiết chế dân chủ. Quốc hội sẽ bị coi là “chỗ tán dóc” vô tích sự, không có khả năng hoặc không có kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Dân chúng ngày càng tin rằng muốn có một hệ thống kế hoạch hoá hữu hiệu thì lãnh đạo phải được “đưa ra khỏi chính trị” và giao nó cho các chuyên viên - tức là các quan chức chuyên nghiệp hay các cơ quan độc lập. 

Đây là khó khăn mà tất cả những người xã hội chủ nghĩa đều biết. Gần nửa thế kỉ trước ông bà Webb đã phàn nàn về “sự bất lực ngày càng gia tăng của Viện thứ dân trước các nhiệm vụ của nó[1]”. Gần đây Giáo sư Laski còn nói một cách rõ ràng hơn: 

“Tất cả mọi người đều biết rằng bộ máy của Nghị viện hiện này hoàn toàn không đủ sức thông qua một cách nhanh chóng một số lượng lớn dự luật phức tạp. Trên thực tế, Chính phủ đã phải thừa nhận điều đó bằng cách đem ra thực hiện một loạt biện pháp trong lĩnh vực kinh tế và thuế khoá bằng cách sử dụng hệ thống uỷ thác lập pháp cả gói, chứ không phải bằng cách thảo luận một cách kĩ lưỡng ở Viện thứ dân. Chính phủ Công đảng, như tôi dự đoán, sẽ áp dụng tiền lệ này một cách rộng rãi hơn. Chính phủ đó sẽ giới hạn hoạt động của Viện thứ dân vào hai chức năng mà Viện này có thể thực hiện được: xem xét các kiến nghị và thảo luận các nguyên tắc tổng quát. Các dự luật sẽ chỉ còn là các khung pháp luật chung chung, uỷ quyền hành động rộng rãi cho các bộ và các cơ quan của chính phủ, các quyền hành này sẽ được thực hiện bằng các Lệnh trong Hội đồng (Oreder in Council – Hình thức lập pháp ở nhiều nước. Ở Anh biện pháp này được thực hiện nhân danh Nữ hoàng, có tham khảo Cơ mật Viện và được Cơ mật Viện thông qua – ND) và Viện thứ dân, nếu muốn, có thể phản đối bằng cách đặt vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Nhu cầu và lợi ích của việc uỷ quyền lập pháp gần đây đã được Uỷ ban Donoughmore khẳng định; việc mở rộng cách làm như thế là tất yếu, nếu chúng ta không muốn làm hỏng quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng những chướng ngại và trở lực mà các thủ tục nghị trường hiện tại cho phép”. 

Và để khẳng định một cách rõ ràng quan điểm là chính phủ xã hội chủ nghĩa sẽ không để các thủ tục pháp lý trói buộc, Giáo sư Laski đặt câu hỏi sau đây: “Trong giai đoạn quá độ sang chủ nghĩa xã hội, Chính phủ Công đảng có thể bỏ mặc cho những cuộc bầu cử tiếp theo xoá bỏ tất cả những việc họ đã làm hay không?” – và ông đã bỏ lửng, không trả lời một cách đầy ý nghĩa[2].  

Điều quan trọng là phải thấy các nguyên nhân làm cho hoạt động của nghị viện thành ra không có hiệu quả khi nó trực tiếp quản lý một cách chi tiết nền kinh tế quốc gia. Từng vị đại biểu cũng như cả quốc hội đều không có lỗi – chính nhiệm vụ mà họ được giao đã chứa đựng mâu thuẫn nội tại, không thể giải quyết được. Nhiệm vụ của họ không phải là hành động ở trong những lĩnh vực mà họ có thể đạt được đồng thuận mà là tìm đồng thuận về mọi vấn đề, là lãnh đạo toàn diện mọi nguồn lực quốc gia. Nhưng nhiệm vụ này không thể giải quyết được bằng cách biểu quyết lấy đa số. Nếu chỉ có một vài phương án để lựa chọn thì có thể tìm được đa số; nhưng sẽ sai lầm khi nghĩ rằng vấn đề nào cũng phải giải quyết bằng cách bỏ phiếu. Nếu có rất nhiều đường lối hành động tích cực thì khó tin là đa số sẽ ủng hộ một trong các đường lối đó. Mỗi thành viên của cơ quan lập pháp có thể thích một kế hoạch quản lý kinh tế cụ thể nào đó hơn là không có kế hoạch, nhưng đa số có thể thích thà không có kế hoạch nào còn hơn là kế hoạch mà người ta đưa cho họ biểu quyết.

Mặt khác, chia kế hoạch thành từng phần và bỏ phiếu theo từng mục thì không thể nào lập được một kế hoạch chặt chẽ. Quốc hội dân chủ bỏ phiếu và sửa đổi từng điều khoản của kế hoạch kinh tế như thảo luận một bộ luật bình thường là việc làm vô nghĩa. Kế hoạch kinh tế, muốn xứng với tên gọi của nó, phải xuất phát từ một quan điểm nhất quán. Nếu quốc hội, bằng cách bỏ phiếu theo từng điều khoản, có đưa ra được một sơ đồ nào đó thì nó cũng chẳng làm ai hài lòng. Bằng cách thỏa hiệp các quan điểm trái ngược nhau không thể nào tạo ra được một tổng thể phức tạp mà từng phần của nó phải được gắn một cách thật cẩn thận vào với nhau. Lập kế hoạch kinh tế kiểu đó còn khó hơn việc chuẩn bị một chiến dịch quân sự bằng các thủ tục dân chủ. Cũng như trong việc soạn thảo chiến lược, nhất định việc lập kế hoạch cũng phải được giao cho các chuyên gia.

Khác nhau là ở chỗ viên tướng chỉ huy chiến dịch hiểu rõ mục tiêu và để đạt mục tiêu ông ta có thể sử dụng tòan bộ phương tiện mà ông ta có trong tay. Người lập kế hoạch kinh tế không có một mục tiêu duy nhất như thế, cũng không được giao một số lượng giới hạn nào về phương tiện cả. Viên tướng không phải đánh giá và cân nhắc các mục tiêu đối chọi nhau, ông ta chỉ theo đuổi một mục tiêu tối cao duy nhất. Nhưng các mục tiêu của kế họach kinh tế hay của mỗi thành phần của nó lại không thể được xác định một cách tách biệt với kế họach cụ thể này. Bản chất của việc lập kế họach kinh tế là lựa chọn giữa các nhu cầu cạnh tranh với nhau hoặc đối chọi nhau – nhu cầu khác nhau của những người khác nhau. Nhưng mục tiêu nào mâu thuẫn với mục tiêu nào, phải hi sinh mục tiêu nào, tóm lại, ta có những giải pháp nào để lựa chọn - chỉ có những người biết tuốt mới có thể nói được, và chỉ có họ, chỉ có các chuyên gia mới có quyền quyết định nên ưu tiên các mục tiêu nào. Vì vậy, khi lập kế họach phát triển cho xã hội nhất định họ sẽ bắt đầu áp đặt cho xã hội thang giá trị riêng của mình.
Vấn đề này không phải lúc nào cũng được nhận thức một cách rõ ràng và người ta thường lấy lý do là tính chất kĩ thuật để biện hộ cho việc ủy thác trách nhiệm. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta chỉ ủy thác việc làm rõ các chi tiết kĩ thuật hay gốc rễ của khó khăn là do quốc hội không có khả năng hiểu các chi tiết kĩ thuật[3]. Sửa đổi đạo luật dân sự cũng là một việc không kém rắc rối về kĩ thuật và cũng không kém khó khăn khi đánh giá hậu quả của nó, nhưng không thấy ai đề nghị ủy quyền lập pháp cho các hội đồng chuyên gia. Lý do ở đây có thể là họat động lập pháp trong lĩnh vực này không vượt ra ngòai các quy tắc chung, có thể đạt được thoả thuận của đa số; trong khi trong lĩnh vực quản lý kinh tế, các lợi ích cần phải điều hòa khác nhau đến nỗi dường như trong quốc hội dân chủ không thể nào đạt được đồng thuận.

Cần phải công nhận rằng bất bình chủ yếu không phải là do sự ủy quyền trong lĩnh vực lập pháp. Chống lại chuyện này thì có khác gì chống lại một triệu chứng bệnh tật, do những nguyên nhân khác nhau gây ra và bỏ qua chính cái nguyên nhân gây bệnh đó. Khi người ta chỉ ủy quyền xác định các quy tắc chung thì không ai phản đối cả; nhưng dễ hiểu là các chính quyền địa phương xác định các nguyên tắc này thì sẽ tốt hơn là chính quyền trung ương. Việc phản đối chỉ xảy ra khi không thể xem xét vấn đề trong khuôn khổ các quy tắc chung, mà là khi phải xem xét vấn đề một cách tỉ mỉ và phải đưa ra quyết định cho từng trường hợp cá biệt. Trong những trường hợp như thế, uỷ quyền cũng chẳng khác gì một cấp nào đó sẽ có tòan quyền sử dụng sức mạnh của pháp luật để đưa ra những quyết định độc đoán (thường được gọi là “phán xử vụ việc theo bản chất của nó”)

Việc chuyển giao một số nhiệm vụ mang tính chuyên môn hẹp cho các cơ quan chuyên trách là hiện tượng thường xảy ra, nhưng cũng là bước đầu tiên dẫn chế độ dân chủ - phục vụ kế họach hóa - tiến dần đến việc từ bỏ các quyền lực của mình. Nó cũng không lọai bỏ được các nguyên nhân làm cho những người ủng hộ kế họach hóa tòan diện sốt ruột khi chứng kiến sự bất lực của chế độ dân chủ. Việc giao những quyền lực cụ thể cho các cơ quan riêng biệt tạo ra những trở ngại mới cho việc sọan thảo một kế họach có phối hợp duy nhất. Ngay cả nếu chế độ dân chủ có thể lập được kế họach cho từng khu vực kinh tế bằng cách đó thì cũng sẽ xuất hiện ngay lập tức nhiệm vụ kết hợp các kế họach riêng biệt đó vào một kế hoạch duy nhất. Nhiều kế họach riêng biệt không thể tạo ra một tổng thể được lập kế hoạch; lúc đó chính các nhà lập kế họach sẽ buộc phải công nhận rằng thà hòan tòan không có kế họach nào lại hơn. Nhưng các cơ quan lập pháp dân chủ sẽ còn do dự rất lâu trước khi họ từ bỏ quyền quyết định những vấn đề quan trọng sống còn, và khi họ chưa làm như thế thì không ai có thể lập được một kế họach tổng thể. Một mặt, việc thừa nhận nhu cầu kế họach hóa và mặt khác, các thiết chế dân chủ không thể lập được kế họach nhất định sẽ dẫn đến đòi hỏi phải trao cho chính phủ hay một cá nhân cụ thể nào đó quyền lực và tự chịu trách nhiệm về hành động của mình. Càng ngày người ta càng tin rằng muốn làm được một cái gì đó thì phải gỡ bỏ gánh nặng của các thủ tục dân chủ cho hành pháp được rảnh tay hành động. 

Kêu gọi độc tài kinh tế sẽ trở thành giai đoạn đặc thù trong quá trình phát triển theo hướng kế họach hóa. Cách đây mấy năm, Élie Halévy, một trong những nhà nghiên cứu mẫn tiệp nhất của Anh đã gợi ý: “Nếu làm được một bức ảnh ghép của Lord Eustace Percy, Sir Oswald Mosley và Sir Stafford Cripps thì tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy một đặc điểm chung của cả ba vị, đấy là họ cùng đồng thanh tuyên bố: ‘Chúng ta đang sống trong sự hỗn lọan về kinh tế, một hình thức độc tài nào đó chính là lối thóat duy nhất[4]’”. Số lượng các nhân vật họat động xã hội nhiều ảnh hưởng - những người nếu được đưa vào “bức ảnh ghép” cũng không làm thay đổi chút nào ý nghĩa của nó - kể từ đó đã tăng lên rất nhiều.

Ở Đức, thậm chí ngay cả trước khi Hitler nắm được quyền lực, xu hướng đó đã tiến xa hơn nhiều. Điều quan trọng là phải nhớ rằng trước năm 1933, nước Đức đã ở trong tình trạng mà chế độ chuyên chế đã là một tất yếu chính trị rồi. Lúc đó, đã chẳng còn ai nghi ngờ rằng chế độ dân chủ đang bước vào giai đoạn tan rã hoàn toàn và những nhà dân chủ chân thành như Brüning cũng chẳng hơn gì Schleicher hay von Papen trong việc cai trị đất nước một cách dân chủ. Hitler không cần hành quyết chế độ dân chủ, hắn chỉ lợi dụng sự tan rã của nó và nhận được, trong thời khắc quyết định, sự ủng hộ của những người, dù ghê tởm hắn nhưng lại coi hắn là người duy nhất có đủ sức mạnh vãn hồi trật tự ở trong nước.
* * *
Luận cứ mà những người ủng hộ kế hoạch hoá thường dùng để thuyết phục chúng ta chấp nhận hoàn cảnh là khi dân chủ còn giữ được quyền kiểm soát tối hậu thì cốt lõi của dân chủ sẽ không bị ảnh hưởng. Karl Mannheim viết: 

“Xã hội kế hoạch hoá chỉ khác xã hội thế kỉ XIX ở chỗ (sic!) duy nhất này: ngày càng có nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và cuối cùng là tất cả mọi lĩnh vực, toàn bộ cũng như riêng lẻ, đều nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Nhưng nếu chủ quyền của nghị viện còn ngăn chặn được quyền kiểm soát một ít lĩnh vực thì cũng có thể làm được điều đó trong nhiều lĩnh vực khác… Trong nhà nước dân chủ, chủ quyền có thể được tăng cường một cách vô giới hạn bằng quyền lực tuyệt đối và toàn diện mà vẫn không từ bỏ việc kiểm soát theo lối dân chủ[5]”. 

Ở đây người ta đã bỏ qua một sự khác biệt then chốt. Nghị viện chỉ có thể kiểm soát được việc thực hiện nhiệm vụ khi nó có thể đưa ra được hướng đi cụ thể, khi nó đã tìm được sự đồng thuận về mục tiêu và chỉ giao [cho cơ quan hành pháp – ND] việc cụ thể hoá mà thôi. Nhưng khi lý do uỷ quyền lại là sự thiếu đồng thuận về mục tiêu, khi cơ quan lập kế hoạch phải tiến hành lựa chọn giữa các mục tiêu xung đột với nhau mà quốc hội thậm chí là không biết và khi điều duy nhất có thể làm là đệ trình một kế hoạch mà quốc hội chỉ có thể hoặc sẽ chấp nhận hoặc sẽ bác bỏ hoàn toàn thì tình hình sẽ khác hẳn. Kế hoạch như thế có thể sẽ bị phản đối, nhưng vì đa số không thoả thuận được một kế hoạch thay thế khác và vì những phần bị phản đối gay gắt nhất lại có thể là những phần quan trọng nhất của bản kế hoạch tổng thể, cho nên phản đối sẽ chẳng có giá trị gì. Thảo luận ở nghị trường sẽ được giữ như một cái van an toàn và như một kênh để đưa ra những câu trả lời chính thức cho các khiếu nại và chất vấn. Nghị viện có thể ngăn chặn một số vụ lạm dụng trắng trợn và buộc phải sửa chữa một vài sai sót cá biệt. Nhưng nó không thể hướng dẫn được nữa. Nhiều nhất thì nó cũng chỉ còn mỗi một việc là chọn ra những người sẽ có quyền lực gần như tuyệt đối. Cả hệ thống sẽ tiến đến hình thức độc tài dân cử, trong đó, người đứng đầu chính phủ được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu, nhưng hắn có toàn quyền buộc cuộc bầu cử phải đi theo hướng mà hắn muốn.

Chế độ dân chủ đòi hỏi rằng việc kiểm sóat một cách có chủ ý phải được giới hạn trong những lĩnh vực đã đạt được đồng thuận thật sự; trong những lĩnh vực còn lại chúng ta đành phó mặc cho may rủi, đấy chính là cái giá của dân chủ. Nhưng, trong xã hội được vận hành trên cơ sở kế họach hóa tập trung, việc kiểm sóat như thế sẽ không còn phụ thuộc vào việc có tìm được đa số ủng hộ nữa hay không; thường là cần phải áp đặt ý chí của một nhóm thiểu số nhỏ lên tòan thể nhân dân vì nhóm thiểu số này hóa ra lại là nhóm có đông thành viên nhất có khả năng tìm được sự đồng thuận về vấn đề đang tranh cãi. Các chính phủ dân chủ đã và đang thực thi chức năng của mình một cách thành công ở những nơi và chỉ ở những nơi mà họat động của nó được giới hạn - dựa trên quan điểm được nhiều người chấp nhận - trong những lĩnh vực của đời sống xã hội mà đa số có thể đạt được đồng thuận thông qua thảo luận tự do. Thành tựu vĩ đại của thế giới quan tự do là nó đã đưa một lọat vấn đề cần phải có giải pháp thống nhất thành chỉ còn một vấn đề mà trong xã hội của các công dân tự do chắc chắn có thể đạt được đồng thuận. Hiện nay chúng ta thường nghe nói rằng dân chủ không đội trời chung với “chủ nghĩa tư bản”. Nếu “chủ nghĩa tư bản” nghĩa là hệ thống cạnh tranh tự do, dựa trên sở hữu tư nhân, thì phải hiểu rằng dân chủ chỉ có thể tồn tại trong hệ thống như thế mà thôi. Nếu tư tưởng tập thể trở thành tư tưởng áp đảo thì chế độ dân chủ sẽ cáo chung.
* * *
Chúng tôi không có ý thần thánh hóa dân chủ. Dường như thế hệ của chúng ta nói và nghĩ nhiều về dân chủ mà lại nói quá ít về những giá trị mà nó phụng sự. Không thể nói về dân chủ như Lord Acton đã nói về tự do: “Nó không phải là phương tiện để đạt mục tiêu chính trị cao hơn. Tự bản thân nó đã là mục tiêu chính trị cao nhất rồi. Người ta đòi hỏi tự do không phải là để có được cơ quan quản lý xã hội tốt mà có được sự bảo đảm cho chúng ta quyền theo đuổi các mục tiêu cao cả nhất, cả trong đời sống riêng tư lẫn trong đời sống xã hội”. Dân chủ thực chất là phương tiện, là một công cụ thiết thực để bảo vệ hòa bình trong xã hội và tự do cá nhân. Tự bản thân nó, dân chủ không phải là hòan hảo, cũng chẳng phải là chắc chắn. Cũng không được quên rằng, trong chế độ độc tài lại thường có nhiều tự do về tinh thần và văn hóa hơn là một số chế độ dân chủ - và ít nhất, có thể tưởng tượng được rằng sự cai trị của một đa số giáo điều và thuần nhất có thể làm cho dân chủ trở thành khủng khiếp chẳng khác gì chế độ độc tài tồi tệ nhất. Nhưng, quan điểm của chúng tôi không phải là chế độ độc tài chắc chắn sẽ tiêu diệt tự do mà là kế hoạch hoá sẽ dẫn đến chế độ độc tài, vì độc tài là công cụ cưỡng bức và thực thi lí tưởng hữu hiệu nhất, và là thành tố quan trọng nhất nếu muốn kế hoạch hoá tập trung trên quy mô lớn trở thành khả thi. Xung đột giữa dân chủ và kế họach hóa xảy ra vì dân chủ chống lại đàn áp tự do, mà muốn lãnh đạo hoạt động kinh tế thì phải bãi bỏ tự do. Nhưng, khi dân chủ từ bỏ vai trò người bảo vệ tự do cá nhân thì nó vẫn có thể tồn tại dưới một hình thức nào đó trong chế độ toàn trị. “Chuyên chính vô sản”, ngay cả nếu nó có dân chủ về hình thức, một khi đã thực hiện việc quản lý tập trung nền kinh tế, nó sẽ đàn áp và tiêu diệt hoàn toàn quyền tự do cá nhân như những chế độ chuyên quyền đã từng làm. 

Nói quá nhiều, như một cái mốt, rằng dân chủ, một giá trị chính, đang bị đe dọa không phải là không nguy hiểm. Từ đó sẽ xuất hiện quan điểm sai lầm và thiếu căn cứ rằng, khi quyền lực cao nhất còn được hình thành từ ý chí của đa số thì quyền lực không thể là độc đóan được. Đấy là một sự lầm lẫn và đấy cũng là lý do vì sao nhiều người vẫn chưa nhận thức được những nguy hiểm mà chúng ta đang gặp. Không có lý do gì để tin rằng chừng nào mà quyền lực còn được trao bằng các thủ tục dân chủ thì nó không thể là độc đoán; điều khẳng định ngược lại cũng sai lầm không kém: Không phải nguồn gốc của quyền lực mà chính các hạn chế mới là biện pháp ngăn chặn độc đóan. Sự kiểm soát mang tính dân chủ có thể cản trở quyền lực trở thành độc đoán, nhưng bản thân sự tồn tại của dân chủ là chưa đủ. Nếu dân chủ giải quyết các nhiệm vụ của mình bằng một quyền lực không bị giới hạn bởi các quy tắc đã được ấn định, thì nó nhất định sẽ trở thành quyền lực độc đoán.


[1] Sidney and Beatrice Webb. Industrial Democracy (1897), p. 800 n.
[2] Laski H.J. “Labour and the Constitution”. The New Statesman and Nation, No 81 (New Series). September 10, 1932. P. 277. Sau này giáo sư Laski còn phát triển các ý tưởng của mình một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm Democracy in Crisis, [1933]; cụ thể là trang 87, trong đó trong đó Giáo sư trau chuốt những tư tưởng nói rằng rằng chế độ dân chủ đại nghị không được trở thành cản trở trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội còn được thể hiện trực tiếp hơn: chính phủ xã hội chủ nghĩa không chỉ sẽ “nắm trong tay quyền lực rộng lớn hơn và sẽ cai trị bằng sắc luật và nghị định, có giá trị như là đạo luật”, và sẽ “đình chỉ các hình thức đối lập cổ điển”, mà ngay cả “sự tồn tại của chính thể đại nghị sẽ phụ thuộc vào việc nó (tức chính phủ Công đảng) có được đảng Bảo thủ bảo đảm rằng kết quả công cuộc cải cách của nó sẽ không bị xoá bỏ nếu thất cử”!
[3] Nhân đây cũng nên xem xét một tài liệu của chính phủ có thảo luận những vấn đề này trong mấy năm gần đây. Mười ba năm trước, tức là trước khi nước Anh từ bỏ hòan tòan chủ nghĩa tự do kinh tế, quá trình ủy thác trách nhiệm lập pháp đã đi xa đến nỗi người ta cảm thấy rằng phải lập ra một ủy ban nhằm khảo sát “những biện pháp bảo vệ cần thiết và nên làm nhằm bảo đảm quyền lực tuyệt đối của Pháp luật”. Báo cáo của Ủy ban Donoughmore (Report of the [Lord Chancellor's] Committee on Ministers’ Powers, cmd. 4060, [1932]) chỉ rõ rằng ngay từ lúc đó Nghị viện đã dùng biện pháp “ủy thác quyền lực một các bừa bãi, theo lối bán buôn” nhưng lại cho rằng (đúng là lúc đó chúng ta chưa nhìn được vào vực thẳm của chế độ tòan trị) đấy là hiện tượng tất yếu và vô hại. Và đúng là bản thân việc chuyển giao quyền lực như thế không nhất thiết là mối nguy hiểm đối với tự do. Chỉ không hiểu là tại sao nó lại trở thành tất yếu ở quy mô lớn đến như thế. Nguyên nhân đầu tiên được liệt kê trong báo cáo là “Hiện nay, mỗi năm Nghị viện phải thông qua quá nhiều luật” và “nhiều chi tiết mang tính kĩ thuật chuyên ngành, không thích hợp cho việc thảo luận tại nghị trường”. Nhưng nếu vấn đề chỉ có như thế thì tại sao lại không làm rõ các chi tiết trước chứ không phải là sau khi quốc hội đã thông qua dự luật. Nhưng có một lý do quan trọng hơn nhiều đấy là trong nhiều trường hợp “Nếu Nghị viện không ủy quyền lập pháp thì sẽ không thể thông qua đúng các lọai dự luật và không thể thông qua đúng số lượng mà dư luận xã hội đòi hỏi”, lý do đó đã vô tình thể hiện trong câu sau đây: “Nhiều đạo luật có ảnh hưởng mạnh đến đời sống nhân dân cho nên chủ yếu ở đây là phải mềm dẻo!”. Điều này có nghĩa là gì, nếu không phải là được tòan quyền quyết định theo ý mình, nghĩa là quyền lực không bị bất cứ nguyên tắc pháp lí nào, cái quyền mà theo ý kiến của Nghị viện là không bị giới hạn bởi các quy tắc cố định và phân minh?
[4] “Socialism and the Problems of Democratic Parlamentarism”, International Affairs, XIII, p. 501
[5] Man and Society in the Age of Reconstruction, (1940), p. 340.    

1 comment: