Phạm
Nguyên Trường dịch
Dịch theo bản tiếng Anh The
Law do Dean Russell dịch, Foundation for Economic Education,
Irvington-on-Hudson, New York; tham khảo bản dịch tiếng Nga của S. A. Nikolaev.
Richard
Ebeling*
Bảo vệ tự do kinh tế chưa bao giờ là
nhiệm vụ dễ dàng. Adam Smith bày tỏ sự thất vọng của ông về vấn đề này trong
tác phẩm The Wealth of Nations (Của
cải của các quốc gia). Sau khi chỉ trích mạnh mẽ chủ nghĩa trọng thương
- hệ thống quản lí và kế hoạch hóa của chính phủ hồi thế kỉ XVIII - ông đã chán
nản cho rằng thương mại tự do ở Anh khó như xây dựng xã hội không tưởng vậy.
Ông cho rằng có hai nhân tố làm cho
người ta không thể hi vọng vào thành công của tự do kinh tế. “Không chỉ định kiến
của xã hội”, Smith nói, “mà những quyền lợi không thể tranh cãi của nhiều người
có sức chống đối không thể cưỡng lại được”[1].
Sử dụng cụm từ “định kiến của xã hội”, Smith ám chỉ việc nhiều người bình
thường khó mà hiểu được những luận cứ thường là trừu tượng và phức tạp của các
nhà kinh tế học khi họ chứng minh tính ưu việt của thị trường tự do so với
những hình thức can thiệp và kiểm soát khác nhau của chính phủ. Còn cụm từ
“những quyền lợi không thể tranh cãi của nhiều người” ám chỉ những nhóm lợi ích
đặc biệt được lợi từ những biện pháp quản lí của chính phủ nhằm hạn chế hoặc
ngăn chặn cạnh tranh công khai, và vì vậy sẽ luôn tích cực vận động nhằm giữ những
biện pháp quản lí đó. Kết hợp lại, Smith lo sợ rằng, hai tác nhân đó sẽ mãi mãi
ngăn chặn không bao giờ để cho logic của tự do kinh tế giành chiến thắng trên
vũ đài của tư tưởng và chính trị.
Tuy nhiên, trong thế kỉ XIX, đã có một
người ủng hộ tự do, ông đã làm chủ được nghệ thuật biến sự phức tạp của kinh tế
học thành dễ hiểu đối với những người dân bình thường: đấy là nhà kinh tế theo
trường phái tự do cổ điển người Pháp, Frederic Bastiat (1801-1850). Nhiều nhà
sử học chuyên về tư tưởng kinh tế đã nhấn mạnh khả năng đặc biệt của Bastiat
trong việc làm xói mòn cơ sở của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa xã hội, và chủ
nghĩa can thiệp.
Ví dụ, Alexander
Gray viết: “Chưa từng có người nào khéo léo đến như thế trong việc làm cho quan
điểm của đối thủ trở nên có vẻ ngu ngốc đến như thế. Ngay cả bây giờ, tác phẩm
phù du nhất của ông đọc vẫn thú, vì sự hóm hỉnh, sự châm biếm sâu cay và cả sự
trang nhã mà ông dùng để châm chích đối thủ của mình”[2].
Lewis Haney cho rằng: “văn phong của Bastiat thú vị và trong sáng” và có sức
“lôi cuốn quần chúng bằng truyền thuyết và châm biếm”[3].
Eduard Heimann, một người phê phán nền kinh tế thị trường, mô tả ông là: “Một
cây bút có tài, nổi tiếng thế giới với câu chuyện ngụ ngôn của ông về những
người làm nến, đã thỉnh cầu bảo hộ nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh
của mặt trời để cộng đồng có thể trở nên giàu có bằng cách làm giàu cho ngành
của họ”[4]. Charles
Gide và Charles Rist chỉ ra rằng: “Nếu những người ủng hộ bảo hộ hiện đại không
còn nói về ‘ngập lụt hàng hóa’ hay ‘sự xâm lược của hàng hóa nước ngoài’ ... chúng
ta thường quên rằng tất cả đều là do những cuốn sách mỏng nhưng tuyệt vời do
Bastiat viết... Không ai có thể chỉ ra với thái độ miệt thị hơn cái mâu thuẫn
nực cười của việc xẻ những trái núi chia cắt đất nước nhằm tạo thuận lợi cho
những vụ trao đổi, nhưng ở mỗi đầu lại lập một hàng rào hải quan”[5]. Và mặc dù
luận cứ phản bác tư tưởng bảo hộ và tư tưởng tập thể của Bastiat trong thời
gian đó là rất sắc bén, William Scott nhấn mạnh rằng: “thái độ của con người
theo phái tự do này ở Pháp là bình tĩnh và cao quý và mặc dù chỉ trích rất
mạnh, ông cũng đánh giá cao các động cơ của đối thủ. Ông tin vào ước muốn thúc
đẩy sự thịnh vượng xã hội của họ, nhưng ông muốn nói rằng họ đã lầm lạc và tìm
cách đưa họ vào đường ngay lối thẳng, nếu có thể”[6].
Những phẩm chất
này làm cho Joseph A. Schumpeter gọi Bastiat là “Nhà báo viết về kinh tế nổi
bật nhất cho đến nay”[7]. Ludwig
von Mises ca ngợi ông là “người có bút pháp rất độc đáo, đọc ông là cả một niềm
vui. … những lời phê phán của ông đối với tất cả những biện pháp bảo hộ và
những xu hướng liên quan đến nó thì vẫn chưa ai vượt qua được. Những người theo
chính sách bảo hộ và can thiệp không thể phủ nhận được. Họ đành phải lặp đi lặp
lại: Bastiat rất “hời hợt””[8].
Một số người cầm
bút đã bắt chước ông. Đầu thế kỉ XX, nhà kinh tế học ủng hộ thị trường tự do
người Pháp, Yves Guyot, nói rằng cuốn sách mỏng của ông, Economic Prejudices
(Những định kiến về kinh tế),
được viết theo phong cách của Frederic Bastiat, với mục đích “[đặt ra] chân lí
dưới hình thức đơn giản, thuận tiện, dễ nhớ, nhằm phê phán những sai lầm bằng
những chứng minh mà người nào cũng có thể áp dụng”, như Bastiat đã làm cách đó
nửa thế kỉ[9]. Và chắc
chắn là trong thế kỉ XX, thành công nhất và có ảnh hưởng nhất trong việc áp
dụng phương pháp và cách tiếp cận của Bastiat là tác phẩm Economics in One
Lesson (Kinh tế học trong một bài
học) của Henry Hazlitt, trong đó tác giả cho biết: “Tác phẩm này có thể,
trên thực tế, được coi là sự hiện đại hóa, mở rộng và khái quát hóa phương pháp
được trình bày trong cuốn sách mỏng của Bastiat, với nhan đề What Is Seen
and What Is Not Seen (Cái nhìn
thấy và cái không nhìn thấy)[10].
*
* *
Claude Frederic Bastiat sinh ngày 30
tháng 6 năm 1801, ở Bayonne, nước Pháp, trong gia đình thương nhân có tiếng[11].
Mẹ ông qua đời khi ông mới lên bảy, chỉ hai năm sau bố ông cũng qua đời, lúc đó
Frederic mới vừa tròn chín tuổi. Ông đã được người cô nuôi nấng, bà cũng là
người tìm cách cho ông vào học ở trường Cao đẳng Sorèze khi ông vừa tròn 14 tuổi.
Nhưng năm 17 tuổi, ông bỏ học giữa chừng và vào làm cho công ty thương mại của
ông chú ở Bayonne .
Chẳng bao lâu sau ông đã đọc hết các tác phẩm của nhà kinh tế học theo trường
phái tự do cổ điển của Pháp là Jean-Baptiste
Say, và những tác phẩm này đã thay
đổi cuộc đời và tư duy của ông[12].
Ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị học một cách nghiêm túc và chẳng bao
lâu sau đã tìm được rất nhiều tác phẩm của những người cầm bút theo trường phái
tự do cổ điển khác ở Pháp và ở Anh.
Năm 1825, ông được thừa hưởng một điền
trang nho nhỏ ở Mugron, do ông nội để lại và ở đó cho đến năm 1846 thì chuyển
hẳn về Paris .
Trong những năm 1820, Bastiat dành phần lớn thời gian để đọc sách báo viết về
nhiều đề tài khác nhau, ngoài ra, ông còn chia sẻ sách vở và tư tưởng với người
bạn tên là Félix Coudroy. Dường như Coudroy là người có khuynh hướng xã hội chủ
nghĩa, và Bastiat bắt đầu hoàn thiện kĩ năng tư duy và viết một cách mạch lạc
bằng cách đưa ra những lập luận mà cuối cùng đã thuyết phục được người bạn ngả sang
triết lí tự do.
Cuối những năm 1820 và trong những năm
1830, ông bắt đầu viết những cuốn chuyên khảo và những bài tiểu luận về những
chủ đề kinh tế khác nhau. Nhưng phải đến năm 1844, ông mới có danh tiếng thực
sự, đấy là khi ông xuất bản một bài báo dài nhằm ủng hộ thương mại tự do và sau
đó là một chuyên khảo về Cobden và tác phẩm the League: The English Movement
for Free Trade (tạm dịch: Liên
đoàn: Phong trào ủng hộ thương mại tự do ở Anh). Trong quá trình viết
những tác phẩm này, Bastiat bắt đầu trao đổi thư từ với Richard Cobden, một
trong những nhà lãnh đạo chính của Liên đoàn chống Luật ngũ cốc, tức là hiệp
hội đòi bãi bỏ tất cả các rào cản đối với thương mại tự do. Hai người ủng hộ tự
do kinh tế nhanh chóng trở thành bạn bè và hỗ trợ nhau trong sự nghiệp vì tự
do.
Thành công của những tác phẩm này và
cảm hứng từ thành công của những hoạt động ủng hộ thương mại tự do của Cobden
trong việc chấm dứt chính sách bảo hộ nông nghiệp ở Anh vào năm 1846 đã dẫn đến
kết quả là Bastiat chuyển hẳn về Paris để thành lập Hiệp hội thương mại tự do ở
Pháp và xuất bản tờ Le Libre Échange,
ủng hộ sự nghiệp của Hiệp hội[13].
Bastiat làm việc nhằm tổ chức và tuyên truyền cho tự do thương mại liên tục
trong hai năm. Ban đầu ông đã lôi kéo được khá nhiều người làm trong lĩnh vực
thương mại và công nghiệp hỗ trợ các hoạt động của mình, trong đó có đóng góp
những bài phát biểu, xây dựng pháp luật cho việc bãi bỏ chủ nghĩa bảo hộ của
Pháp và viết sách báo nhằm chuyển hóa tư tưởng của công luận. Nhưng không có
kết quả. Có quá nhiều nhóm lợi ích đặc biệt được hưởng lợi từ những ưu đãi của
chính phủ và ông không thể làm cho quần chúng thường xuyên quan tâm tới những
hoạt động của mình. Dường như Adam Smith đã đúng khi phàn nàn về những định
kiến của công chúng và sức mạnh của các nhóm
lợi ích, ít nhất là ở Pháp.
Sau cuộc cách mạng Tháng 2 năm 1848,
Bastiat bắt đầu sự nghiệp trong lĩnh vực chính trị, ban đầu là trong Quốc hội
lập hiến và sau đó trong Quốc hội. Sau khi đã dành hầu hết các tác phẩm trước
đây của mình nhằm chứng minh những sai lầm trong những luận cứ của chủ nghĩa
bảo hộ, Bastiat chuyển sự chú ý của mình tới kẻ thù mới của tự do kinh tế: chủ
nghĩa xã hội. Ông đã tung ra những bài phát biểu mạnh mẽ nhằm chống lại những
chương trình về lao động xã hội, tức là những chương trình bảo đảm công ăn việc
làm trên toàn quốc, những đề xuất về tái phân phối của cải, về quốc hữu hóa
lĩnh vực công nghiệp và những luận cứ nhằm mở rộng việc kiểm soát của bộ máy
hành chính quan liêu đối với đời sống xã hội và đời sống kinh tế. Nhưng vì bệnh
lao nặng làm cho giọng nói của ông ngày càng yếu đi, ông lại quay sang lĩnh vực
viết lách và đã viết được nhiều bài tiểu luận thể hiện rõ những điều vô lí
trong luận cứ của những người xã hội chủ nghĩa.
Lần cuối cùng Bastiat xuất hiện ở Quốc
hội là vào tháng 2 năm 1850. Mùa xuân năm đó sức khỏe của ông xấu đi trông
thấy, buộc ông phải từ bỏ trách nhiệm trong Quốc hội và sống cả mùa hè ở vùng
núi Pyrénées, miền Nam
nước Pháp. Ông trở về Paris vào tháng 9 và đi thăm những người cùng ủng hộ sự
nghiệp thương mại tự do, trước khi qua Italy để tìm thuốc điều trị bệnh lao.
Ông qua đời ở Rome
vào ngày 24 tháng 12 năm 1850, ở tuổi 49.
Di sản trí tuệ của Frederic Bastiat
trong cuộc đấu tranh cho nền kinh tế tự do được in thành ba tập. Hai cuốn là bộ
sưu tập những bài tiểu luận và những bài báo dí dỏm, sâu cay và thấu triệt nhất
của ông và đã được dịch sang tiếng Anh với nhan đề Economic Sophisms[14]
(tạm dịch: Những ngụy biện trong kinh
tế học), và Selected Essays on Political Economy[15]
(tạm dịch: Những bài tiểu luận chọn
lọc về kinh tế chính trị học). Trong những năm cuối đời, Bastiat dành
một phần thời gian cho công trình bàn về triết học xã hội và những nguyên tắc
của kinh tế học, được xuất bản dưới nhan đề Economic Harmonies[16]
(tạm dịch: Hài hòa về kinh tế).
Henry Hazlitt đã đúng khi nhấn mạnh
rằng những ý tưởng quan trọng nhất trong nhiều tác phẩm của Bastiat được thể
hiện trong bài tiểu luận nhan đề “What Is Seen and What Is Not Seen” (Cái nhìn
thấy và cái không nhìn thấy), đấy là tác phẩm cuối cùng ông viết trước khi qua
đời[17].
Ông chỉ ra rằng ảnh hưởng trong ngắn hạn của bất kì hành động hay chính sách
nào thường khác hẳn với hậu quả mà nó gây ra trong dài hạn, và rằng, những hậu
quả trong tương lai xa xôi đó, trên thực tế, có thể trái ngược với những điều
người ta từng hi vọng hay lập kế hoạch lúc ban đầu.
Bastiat có thể áp
dụng nguyên tắc của cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy vào thuế khóa và công
việc của chính phủ. Khi chính phủ đánh thuế, cái nhìn thấy là những công nhân
có việc làm và kết quả của sức lao động của họ: một con đường, một cây cầu hay
một con kênh được xây dựng. Cái không nhìn thấy là tất cả những thứ có thể được
sản xuất nếu người ta không thu thuế của những người làm trong lĩnh vực tư nhân
và nếu những nguồn tài nguyên và lao động làm việc cho chính phủ được tự do
phục vụ nhu cầu của những công dân kia. Bastiat giải thích rằng chính phủ chẳng
làm được gì nếu không lấy các nguồn lực và lao động mà lĩnh vực tư đang sử
dụng.
Quan điểm thấu triệt, đơn giản và cực kì
quan trọng đó là vũ khí mang tính lí thuyết, nhờ đó Bastiat có thể chỉ ra những
sai lầm và mâu thuẫn trong những tư tưởng của cả phái bảo hộ lẫn phái xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy, trong những bài tiểu luận như “Phong phú và khan hiếm”, “Trở
ngại vật và nguyên nhân”, và “Nỗ lực và kết quả”, ông chỉ ra rằng các rào cản
và những biện pháp cấm đoán thương mại tự do chỉ dẫn tới đói nghèo mà thôi[18].
Ông nhấn mạnh rằng mỗi người trong chúng ta vừa là người tiêu dùng vừa là người
sản xuất.
Muốn tiêu thụ một món đồ, chúng ta phải
tự làm hoặc làm ra một món hàng khác mà chúng ta nghĩ rằng một người nào đó sẽ
trao đổi với món hàng mà chúng ta muốn. Là người tiêu dùng, chúng ta muốn càng
có nhiều hàng và giá càng rẻ thì càng tốt. Nói cách khác, chúng ta muốn dư dật.
Nhưng, là người sản xuất, chúng ta lại muốn món hàng mà chúng ta đưa ra thị
trường ở trong tình trạng khan hiếm. Trong thị trường cạnh tranh công khai, nơi
mà tất cả các cuộc trao đổi đều là tự nguyện, cách duy nhất để “tóm được” khách
hàng và kiếm được thu nhập tạo điều kiện cho mỗi người chúng ta, đến lượt mình,
trở thành người tiêu dùng, là cung cấp nhiều hàng hóa hơn, tốt hơn, rẻ hơn đối
thủ cạnh tranh của mình. Bastiat cảnh báo rằng thay thế cho phương pháp này là
mỗi người chúng ta, như người sản xuất, quay sang đề nghị chính phủ cho chúng
ta những thứ thuộc quyền sở hữu của những người hàng xóm của chúng ta, tức là
những thứ mà chúng ta không thể nhận được thông qua trao đổi hòa bình, bất bạo
động, trên thị trường.
Đây là đường ranh giới nổi tiếng mà
Bastiat vạch ra giữa cướp bóc bất hợp pháp và cướp bóc hợp pháp, cũng là trọng
tâm của tác phẩm Luật Pháp[19].
Mục đích của chính phủ, ông nói, chính là bảo đảm quyền sống, quyền tự do và
tài sản của các cá nhân. Nếu không có sự bảo đảm như vậy thì đời sống của con
người chỉ còn là cuộc sống nguyên thủy, đầy sợ hãi và lúc nào cũng chỉ lo tự vệ
mà thôi, người hàng xóm nào cũng là kẻ thù tiềm tàng, sẵn sàng cướp bóc tất cả
những thứ do người khác làm ra. Nếu chính phủ chỉ làm một việc là bảo vệ các
quyền của con người thì hòa bình sẽ thắng thế và người ta sẽ làm việc nhằm cải
thiện đời sống của mình, họ sẽ liên kết với những người hàng xóm trong việc
phân công lao động và trao đổi.
Nhưng chính phủ cũng có thể quay sang
chống lại những người mà nó có nhiệm vụ bảo vệ tài sản cho họ. Đây là lúc có
thể xảy ra cướp bóc hợp pháp, trong đó quyền lực của chính phủ được nhiều cá
nhân và các nhóm người sử dụng nhằm ngăn chặn các đối thủ, không cho họ tham
gia cạnh tranh, cản trở cơ hội kinh doanh của những người khác ở trong và ngoài
nước, và do đó ăn cắp tài sản của dân chúng. Điều này, Bastiat khẳng định, là
nguồn gốc và cơ sở của chủ nghĩa bảo hộ, của những biện pháp quản lí và thuế khóa
có tính chất tái phân phối tài sản.
Nhưng hậu quả của cướp bóc hợp pháp
không chỉ là hợp pháp hóa về mặt chính trị hành vi trộm cắp và phá hoại đạo đức
do xóa nhòa sự phân biệt giữa đúng và sai - mà những hậu quả này có thể còn có
tác động cực kì quan trọng và nguy hiểm đối với sự ổn định và thịnh vượng trong
dài hạn của xã hội. Những chính sách như thế chắc chắn sẽ làm giảm sự thịnh
vượng của xã hội. Bastiat khẳng định rằng bảo hộ thương mại, cản trở về mặt
pháp lí trong lĩnh vực đối nội, thuế khóa có tính chất tái phân phối của cải
cao hơn thuế suất tối thiểu cần cho việc bảo vệ một cách bình đẳng quyền của
mỗi cá nhân đều làm suy giảm sản xuất và cạnh tranh trong xã hội. Khan hiếm thế
chỗ cho phong phú. Hạn chế cạnh tranh làm cho hàng hóa cung cấp cho tất cả các
thành viên trong xã hội giảm đi. Áp đặt hàng rào bảo hộ đối với ngoại thương
hay quản lí sản xuất ở trong nước làm giảm số lượng hàng hóa nói chung và làm
cho chúng trở nên đắt đỏ hơn. Cuối cùng, mọi người đều bị thiệt hại. Và bằng
cách đó, Bastiat đi đến kết luận nổi tiếng rằng nhà nước là câu chuyện tuyệt
vời mà ở đó mỗi người đều tìm cách sống bằng chi phí do tất cả những người khác
trả.
Tại sao lại xảy ra cướp bóc hợp pháp?
Bastiat tìm thấy hai nguồn gốc. Thứ nhất, như chúng ta đã thấy, một số người
coi nó là phương tiện tìm kiếm của cải dễ dàng hơn là lao động và sản xuất. Họ
sử dụng quyền lực chính trị để tái phân phối những thứ mà họ không muốn hoặc
không có khả năng nhận được từ những người bên cạnh thông qua trao đổi tự
nguyện trên thị trường. Nói cách khác, một trong những cơ sở của cướp bóc hợp
pháp là tư tưởng ăn cắp bị hiểu sai.
Nguồn gốc thứ hai của cướp bóc hợp pháp
và nguy hiểm hơn nhiều là não trạng kiêu căng của những người nhận lãnh vai trò
thiết kế xã hội. Thông qua những giai đoạn khác nhau, Bastiat chỉ ra rằng các
nhà triết học trong lĩnh vực xã hội và chính trị coi nhân dân như là vật chất
thụ động, tương tự cục đất sét, đợi người ta nhào nặn và tạo thành hình dáng,
sắp xếp và di chuyển theo thiết kế của giới tinh hoa tri thức. Bastiat chỉ ra
rằng giới tinh hoa chính trị luôn luôn ca ngợi lí tưởng dân chủ, theo đó “nhân
dân” chọn những người sẽ nắm quyền. Nhưng ngay khi quá trình bầu cử vừa chấm
dứt, những người được bầu vào những chức vụ cao liền giành lấy quyền lập kế
hoạch, chỉ đạo và kiểm soát tất cả các mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Rõ
ràng, nhiệm vụ của xã hội dân chủ hiện đại là định kì bổ nhiệm những người sẽ
trở thành những kẻ cai trị độc tài của chúng ta.
Đây có phải là cách sống của con người
hay không? Cướp bóc bất hợp pháp và hợp pháp có phải là hình thức tổ chức xã
hội duy nhất hay không? Bastiat trả lời: Không. Trong tác phẩm Hài hòa về
kinh tế ông đã cố gắng giải thích bản chất và logic của hệ thống các hiệp
hội nhân bản, hòa bình, dựa vào sản xuất và buôn bán. Các nhà sử học trong lĩnh
vực tư tưởng kinh tế và những người phê bình Bastiat chỉ ra rằng tác phẩm này
cho thấy mặc dù có tài năng sáng chói trong lĩnh vực báo chí, ông không phải là
lí thuyết gia kinh tế nặng kí. Họ chỉ ra cách ông sử dụng hình thức của học
thuyết lao động về giá trị hoặc lí thuyết sai về tiết kiệm, vốn và lãi suất[20].
Nhưng ngoài những sai sót và hạn chế
vừa nói, Hài hòa về kinh tế vẫn là tác phẩm chứa đựng kiến thức thấu
triệt. Tác phẩm này cố gắng đưa ra một tầm nhìn rộng lớn về các mối quan hệ
nhân quả giữa việc làm, phân công lao động, trao đổi tự nguyện và người dân
cùng giúp nhau cải thiện điều kiện sống của mình, cũng như tầm quan trọng của
tài sản tư nhân, tự do cá nhân, và tự do thương mại, cả nội thương lẫn ngoại
thương. Có tự do thì sẽ có hài hòa xã hội, vì mỗi người không còn coi hàng xóm
là kẻ thù mà là đối tác trong quá trình cải thiện liên tục điều kiện sống của mình[M1] . Khi các mối quan hệ dựa trên sự chấp
thuận và thỏa thuận giữa các bên thì không thể có cướp bóc, mà chỉ có củng cố
sự thịnh vượng, vì mỗi người đều làm việc để trao đổi với những người láng
giềng của mình và có được những vật phẩm làm cho đời sống của mỗi người và mọi
người đều được cải thiện.
Nhìn vào giai đoạn khi mà Bastiat tập
trung toàn bộ sức lực của mình cho cuộc tranh đấu vì tự do và thương mại tự do,
có thể rút ra kết luận rằng cuộc đời ông đã thất bại. Cả khi ông còn sống cũng
như sau khi ông mất, ở nước Pháp, cả tự do lẫn thương mại tự do vẫn nằm trong
gọng kìm của chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa can thiệp, và chưa bao giờ đạt được
mức độ tự do kinh tế như Vương quốc Anh trong suốt nửa sau của thế kỉ XIX.
Nhưng cuộc đời của Bastiat phải được
coi là thành công rực rỡ. Trong suốt 150 năm sau khi ông qua đời, mỗi thế hệ
mới những người ủng hộ tự do kinh tế đều được các trước tác của ông truyền cảm
hứng. Những câu chuyện ngụ ngôn và những bài tiểu luận vẫn tươi mới như thể
chúng mới được viết trong ngày hôm qua, vì chúng nói về bản chất của sự hợp tác
của con người và những nguy hiểm của việc xâm phạm của chính trị vào trật tự xã
hội và trật tự của thị trường.
[1] Adam Smith, An Inquiry into the Nature and Causes of the
Wealth of Nations, Book Four, chapter two (New York: Modern Library, 1937
[1776]), pp. 437-38.
[2] Sir Alexander
Gray, The Development of Economic
Doctrine: An Introductory Survey (London: Longmans, Green, 1931), pp. 244-45.
[3] Lewis H. Haney, History of Economic Thought (New York:
Macmillan, 1936), pp. 331-32.
[4] Eduard Heimann, History of Economic Doctrines: An
Introduction to Economic Theory (London: Oxford University Press, 1945), p.
124.
[5] Charles Gide and
Charles Rist, A History of Economic
Doctrines, From the Time of the Physiocrats to the Present Day (Boston:
D.C. Heath, 1915), pp. 329-30.
[6] William A. Scott, The Development of Economics (New York:
The Century Co., 1933), p. 244.
[7] Joseph A.
Schumpeter, History of Economic Analysis (New
York: Oxford University Press, 1954), p. 500.
[8] Ludwig von Mises,
Liberalism: The Classical Tradition (Irvington-on-Hudson,
N.Y.: Foundation for Economic Education, 1996 [1927]), p. 197.
[10] Henry Hazlitt, Economics in One Lesson (New York:
Harper & Brothers, 1946).
[11] Đoạn nói về cuộc
đời và sự nghiệp của Bastiat dưới đây chủ yếu được viết theo Dean Russell,
Frédéric Bastiat: Ideas and Influence (Irvington-on-Hudson, N.Y.: Foundation
for Economic Education, 1965); và Dean Russell, Frédéric Bastiat and the Free Trade Movement in France and England,
1840–1850 (Geneva: Imprimarie Albert Kundig, 1959); cũng như George C. Roche,
Frederic Bastiat: A Man Alone (Hillsdale, Mich.: Hillsdale College Press,
1977).
[12] Jean-Baptiste Say,
A Treatise on Political Economy, or the
Production, Distribution and Consumption of Wealth [1921] (N.Y.: Augustus
M. Kelley, 1971); Say, Thư gửi Mr. Malthus on Several Subjects of Political
Economy [1821] (N.Y.: Augustus M. Kelley, 1967); and R. R. Palmer, ed., J.-B.
Say: An Economist in Troubled Times (Princeton, N.J.: Princeton University
Press, 1997).
[13] Về phong trào ủng
hộ thương mại tự do ở Anh và thành công của phong trào này hồi giữa thế kỉ XIX,
xin đọc tác phẩm Austrian Economics and
the Political Economy of Freedom của Richard M. Ebeling (Northampton,
Mass.: Edward Elgar, 2005), ch. 10: “The Global Economy and Classical
Liberalism: Past, Present and Future” pp. 247-281, đặc biệt là các trang 248-252.
[14] Economic Sophisms, trans. and ed. Arthur
Goddard, with introduction by Henry Hazlitt (Irvington-on-Hudson, N.Y.:
Foundation for Economic Education, 1996 [1845]).
[15] Selected Essays on Political Economy,
trans. Seymour Cain, ed. George B. de Huszar, with introduction by F. A. Hayek
(Irvington-on-Hudson, N.Y.: Foundation for Economic Education, 1995 [1964]).
[16] Economic Harmonies, trans. W. Hayden
Boyers, ed. George B. de Huszar, with introduction by Dean Russell
(Irvington-on-Hudson, N.Y.: Foundation for Economic Education, 1996 [1850]).
[17] Trong Selected Essays, pp. 1-50.
[18] Economic Sophisms, pp. 7-27.
[19] “The Law”, in Selected Essays, pp. 51-96; and, “The
Physiology of Plunder”, in Economic
Sophisms, pp. 129-46.
[20] Xem, ví dụ, Eugen
von Böhm-Bawerk, Capital and Interest,
vol. 1: History and Critique of Interest
Theories (South Holland, Ill.: Libertarian Press, 1959), pp. 191-94.
No comments:
Post a Comment