September 8, 2014

OSHO – Những cuốn sách tôi yêu (tiếp theo)

Nguyễn Đình Hách dịch
Chương 7

1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA

Được thôi. Tôi nghe thấy sổ ghi chép của bạn mở ra. Bây giờ là thời gian của tôi, và một giờ của tôi không bao gồm sáu mươi phút. Nó có thể là bất kỳ điều gì – sáu mươi, bảy mươi, chín mươi, một trăm… hoặc thậm chí vượt ra ngoài những con số. Nếu đó là một giờ của tôi thì tất nhiên nó phải phù hợp với tôi, không ngược lại.

Phần tái bút vẫn tiếp tục.

Tên đầu tiên hôm nay là người chưa từng được nghe ở phương Tây: Maluka. Ông ấy là một trong những nhà huyền môn quan trọng ở Ấn Độ. Tên đầy đủ của ông là Malukdas, nhưng ông chỉ gọi mình là Maluka cứ như ông là một đứa trẻ – và ông thực sự là một đứa trẻ, chứ không phải là ‘cứ như’.


Tôi đã nói về ông ấy bằng tiếng Hindi, nhưng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để dịch nó sang các ngôn ngữ khác vì lý do đơn giản là Maluka quá kỳ lạ, quá huyền bí. Bạn sẽ ngạc nhiên rằng ở đất nước như Ấn Độ, đầy rẫy các nhà bình luận, các học giả, các vị học giả Hindu, không ai đã bận tâm đến việc bình luận về Malukdas, bở vì đó là việc quá khó. Ông ấy đã phải chờ tôi. Tôi là nhà bình luận đầu tiên của ông, và ai biết, cũng có thể là cuối cùng.

Ví dụ: Ajgar karai na chakari panchhi karai na kam das maluka kahi gaye sab ke data ram.

Bây giờ tôi sẽ thử dịch nó. Nó sẽ không chính xác như vậy nhưng tôi không chịu trách nhiệm về chuyện đó. Tiếng Anh nghèo nàn không thể chứa được sự phong phú như vậy. Maluka nói: con rắn không bao giờ ra ngoài để làm việc, hoặc con chim cũng vậy. Và Maluka nói, thực tế là không cần thiết, bởi vì tồn tại cung cấp cho tất cả. Ông ấy là người đàn ông mà Zorba hẳn sẽ thích. Ông ấy là người có một chút điên khùng và nhiều thiền.

Ông ấy trong thiền sâu đến mức ông nói:

Mala japon na kar jibhya japon na ram, sumiran mera hari karain main paya bisram.
Ông ấy nói: tôi không tụng tên Thượng đế, hoặc tôi không sử dụng chuỗi tràng hạt để lễ bái. Tôi không bao giờ thờ cúng – ai mà quan tâm đến những thứ ngớ ngẩn như vậy! Ông ấy tiếp: thực tế, Thượng đế nhớ tên tôi, tôi không cần thiết nhớ tên ngài... Bạn biết không? Một chút điên khùng và nhiều thiền. Maluka là một trong những người mà tôi có thể nói không do dự rằng ông ấy đã vượt lên chứng ngộ. Ông ấy đã trở thành nhân vật thứ mười của Mười Người khổng lồ Zen.

Thứ hai, cuốn sách của những người Sikh: GURU GRANTHA SAHIB. Nó không được viết bởi bất kỳ người nào cho nên tôi không thể nói cho bạn tác giả là ai. Nó là bộ sưu tập từ thế hệ này tới thế hệ khác. Nó được sưu tập từ mọi nguồn, không như bất kỳ cuốn sách nào trên thế giới. KINH CỰU ƯỚC là của người Do Thái, KINH TÂN ƯỚC là của người Cơ đốc, BHAGAVADGITA là của người Hindu, DHAMMAPADA là của Phật giáo, KINH JIN là của người Jian; nhưng GURU GRANTHA SAHIB là cuốn sách duy nhất trên thế giới được lấy từ mọi nguồn có thể. Các nguồn của nó là từ Hindu, Hồi giáo, Jain giáo, Phật giáo, Cơ đốc giáo. Rất cởi mở, không cuồng tín.

Tựa đề GURU GRANTHA có nghĩa là ‘sách của các Bậc Thầy’, hoặc ‘sách Bậc Thầy’. Trong nó bạn có thể tìm ra Kabir, Nanak, Farid, và một danh sách dài các nhà huyền môn thuộc về các truyền thống, các trường phái khác nhau, tựa như hàng nghìn dòng sông cùng đổ ra đại dương. GURU GRANTHA giống như đại dương.

Tôi sẽ chỉ dịch một câu của Nanak. Ông ấy là người sáng lập, cho nên tất nhiên những lời nói của ông được biên tập trong GURU GRANTHA. Ông ấy là Bậc Thầy đầu tiên của những người Sikh; thế rồi một loạt chín Bậc Thầy khác theo sau. Chủ thuyết Sikh được sáng lập bởi mười Bậc Thầy. Đó là tôn giáo hiếm hoi, bởi vì mọi tôn giáo khác được tạo ra chỉ bởi một Bậc Thầy.

Nanak nói: sự thật, sự thật tối thượng không thể được nói, cho nên xin hãy tha thứ cho tôi, tôi sẽ không nói về nó mà chỉ ra nó. Nếu bạn có thể hiểu ngôn ngữ của âm nhạc thì có lẽ dây đàn trong trái tim bạn được chạm. Sự rọi sáng của cây đèn vượt lên những lời nói.

GURU GRANTHA SAHIB… Những người Sikh gọi nó là SAHIB, bởi vì họ quá tôn trọng cuốn sách, cứ như nó đang còn sống, dường như nó chính là linh hồn của Bậc Thầy. Nhưng sách là sách, và thời điểm mà các Bậc Thầy ra đi thì cuốn sách chết, từ ngữ là thứ chết. Cho nên chúng đang mang cái thây ma đẹp, giống như mọi tôn giáo khác đang làm. Nên nhớ, dù sao thì tôn giáo đó còn sống chỉ là sự tình cờ, nó còn sống chỉ bởi sự hiện diện của Bậc Thầy. Khi Bậc Thầy không còn sống nữa thì nó trở thành tín điều, và tín điều là cái thứ xấu. 

Quốc hội Hà Lan đã chỉ định hội đồng điều tra ‘Những sự sùng bái tôn giáo và các tín điều’. Rõ ràng tôi là người đầu tiên trong danh sách điều tra của họ. Tôi đã thông báo cho người của tôi ở Hà Lan để nói với hội đồng, “Chúng tôi sẽ không hợp tác với các ông bởi vì thực tế chúng tôi không sùng bái tôn giáo hoặc không phải là tín điều. Nếu các ông muốn tìm kiếm những sự sùng bái tôn giáo và các tín điều thì có rất nhiều: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, và vô số khác.”    

Hội đồng đã trở nên rất lo lắng. Họ viết thư cho những người mang trang phục da cam ở Hà Lan, “Xin hãy hợp tác cùng chúng tôi.” Những người của tôi đã hỏi phải làm gì. Tôi nói với họ, “Tôi đã nói với các bạn những gì phải làm rồi. Nếu không chỉ định hội đồng để điều tra chính tinh thần của tôn giáo thì đừng hợp tác.”

Hãy nhìn vào sự ngớ ngẩn: Quốc hội Hà Lan bị thống trị bởi đảng Dân chủ Cơ đốc, và những người được chỉ định phục vụ hội đồng đều là thành viên của đảng Dân chủ Cơ đốc. Bây giờ, họ là những người tín điều, họ là những người sùng bái tôn giáo. Người của tôi không sùng bái tôn giáo. Tôi vẫn còn sống và vẫn còn chơi! Tôn giáo tồn tại chỉ khi Bậc Thầy còn đang thở. Hơi thở của vị đó tạo nên tôn giáo.

GURU GRANTHA được biên soạn bởi những câu nói của mười Bậc Thầy còn sống, mười người chứng ngộ. Tôi nói rằng không cuốn sách nào có thể so sánh với nó. Nó là cuốn sách không thể so sánh. Nanak nói, “Ek omkar satnam – chỉ một điều là đúng, tên của cái không thể biểu đạt.” Ở phương Đông chúng tôi gọi nó là omkar, om – chỉ có điều đó là đúng. Âm thanh của vô thanh… sự tĩnh lặng lan tỏa sau khi âm thanh rời đi… ek omkar satnam.

Thứ ba: Cuốn sách được viết bởi Mabel Collins, LIGHT ON THE PATH (ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG). Bất kỳ ai muốn du hành tới những đỉnh cao thì phải hiểu ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG. Đó là một cuốn sách mỏng, chỉ ít trang, nhưng về phẩm chất thì nó là một trong những cuốn sách tuyệt vời nhất, tầm cỡ nhất. Và, từ ngạc nhiên tới ngạc nhiên, nó được viết trong thời hiện đại. Không ai biết tác giả Mabel Collins là ai. Tác giả không bao giờ viết tên đầy đủ Mabel Collins, mà chỉ viết M.C. Chỉ tình cờ mà tôi biết tên đầy đủ thông qua một vài người bạn của M.C.

Tại sao lại là M.C? Tôi có thể hiểu lý do. Người viết chỉ là phương tiện, và còn cụ thể hơn trong trường hợp của ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG. Có lẽ vị Sufi, Khird – tôi đã nói với bạn về vị đó: linh hồn dẫn dắt, hướng dẫn, giúp sức mọi người – phía sau công việc của M.C.

M.C là một người theo thuyết Thần trí. Ông ấy hoặc bà ấy – tôi không biết tác giả là đàn ông hay đàn bà, dù sao điều đó cũng không thành vấn đề – hoặc có thể không muốn được hướng dẫn bởi Khird, ý tưởng Sufi về sự hướng dẫn tối thượng. Nhưng M.C hẳn vô cùng hạnh phúc nếu tôi dùng song song tên thuyết Thần trí: Họ gọi nó là K.H. bất kỳ tên nào cũng sẽ được. Bạn gọi nó là gì không thành vấn đề… Bậc Thầy K.H hoặc nhà huyền môn Khirja, tất cả điều đó đều như nhau. Nhưng cuốn sách vô cùng bổ ích. Dù ai đã viết nó, dù ai đã hướng dẫn người viết, điều đó không quan trọng; chính cuốn sách đứng sừng sững như một tòa tháp vàng. 

Thứ tư: Tôi hoàn toàn ổn, đừng lo lắng chỉ bởi tôi đang đếm đúng. Tình cờ điều đó xảy ra do tai nạn. Cuốn thứ tư là của người phụ nữ Kashmir, Lalla. Người Kashmir rất yêu Lalla, họ nói họ kính trọng bà và họ chỉ có hai từ: một là Alla và hai là Lalla. Chín mươi chín phần trăm người Kashmir là Hồi giáo, cho nên khi họ nói họ chỉ biết hai từ, Allah và Lalla, điều đó rất quan trọng.

Lalla không bao giờ viết sách. Bà ấy là người thất học, nhưng rất can đảm... Bà ấy giữ trần trụi suốt cuộc đời mình – và nên nhớ điều này một trăm năm trước ở phương Đông – và bà là một người phụ nữ đẹp. Người Kashmir rất đẹp; ở Ấn Độ, họ là những người thực sự đẹp. Họ là bộ tộc bị thất lạc mà Moses đã tìm kiếm. Về cơ bản, về nguồn gốc thì họ là người Do Thái.

Khi Moses dẫn đoàn người của mình tới Israel... và người ta tự hỏi người điên đó đang làm gì: tại sao lại tới Israel? Nhưng người điên nhất trong những người điên không đưa ra sự giải thích nào. Moses đang tìm kiếm nơi chốn cho người của mình. Ông ấy đã lang thang suốt bốn mươi năm trong sa mạc, và sau đó tìm ra Israel. Trong khi đó ông ấy đã lạc mất một trong những bộ tộc của mình. Bộ tộc đó đã tới Kashmir. 

Đôi khi, ít nhất thì bị lạc cũng là điều may mắn. Moses đã không thể tìm ra họ. Bạn có biết là vì đi tìm bộ tộc bị lạc mà cuối cùng ông ấy đã tới Kashmir... và ông ấy đã qua đời tại đó. Ngôi mộ của ông không ở Israel mà ở Kashmir.

Thật kỳ lạ, Moses chết ở Kashmir, Jesus chết ở Kashmir. Tôi cũng đã ở Kashmir rất nhiều lần, và tôi biết đó là nơi mà có người nói, “..ahhh, ta có thể chết tại thời điểm này, ở đây và bây giờ...!” Nó quá đẹp đến mức sau đó nếu có sống thì cũng không đáng giá gì.

Người Kashmir rất đẹp – nghèo, nhưng vô cùng đẹp. Lalla là một phụ nữ Kashmir, thất học, nhưng bà vẫn có thể hát ca và nhảy múa. Cho nên một số ít bài ca của bà đã được lưu giữ. Bà, tất nhiên, không thể được lưu giữ, nhưng những bài ca của bà thì lại được lưu giữ. Tôi tính chúng trong phần tái bút của tôi.

Thứ năm: Nhà huyền môn khác, Gorakh, một nhà Mật tông, một người đàn ông rất thông thạo, rất hiệu quả về các phương pháp Mật tông đến mức bất kỳ ai ở Ấn Độ, nếu biết nhiều công việc thì cũng được biết đến như là công việc gorakh-dhandha. Gorakh-dhandhan có nghĩa là ‘với công việc của Gorakh’. Mọi người nghĩ người ta nên bám vào công việc của mình. Gorakh hoạt động theo mọi hướng, trong mọi khía cạnh.

Tên đầy đủ của Gorakh là Gorakh-nath. Chắc nó được đặt bởi những môn đệ của ông, bởi vì nath có nghĩa là chúa tể. Gorakh đã đưa ra mọi chìa khóa có thể để đi vào những điều huyền bí nội tại. Ông ấy đã nói mọi điều có thể được nói. Theo cách đó, ông ấy là một dấu chấm.

Nhưng thế giới vẫn tiếp diễn, cho nên tôi cũng vậy. Thế giới biết không có dấu chấm, tôi cũng vậy. Tôi sẽ chết ở giữa câu; thế rồi mọi người mãi tự hỏi tôi sẽ nói gì, tôi sẽ hoàn thiện câu nói như thế nào. Tôi kính trọng Gorakh-nath. Tôi đã nói nhiều về ông. Vào một ngày nó sẽ được dịch, cho nên tôi không cần lãng phí thêm thì giờ về người đồng nghiệp này nữa.

Thứ sáu: Đó là một người đàn ông hiếm hoi, một người độc thân, cho ra đời hai tác phẩm lớn, đó là trường hợp của Hubert Benoit. Tôi không biết người Pháp phát âm nó như thế nào… và họ cũng quá hợm hĩnh về cách phát âm của họ, và tôi cũng quá tùy tiện! Nhưng tôi không quan tâm – có vấn đề gì đâu nếu một từ bị phát âm sai chỗ này chỗ kia? Toàn bộ cuộc đời tôi đã bị phát âm sai rồi.

Người đàn ông này là Hubert Benoit – tôi đã nói đến cuốn sách đầu tiên của ông, LET GO. Thực tế đó là cuốn thứ hai của ông. Trước khi viết cuốn LET GO, ông đã viết cuốn  THE SUPREME DOCTRINE (SIÊU HỌC THUYẾT). Tôi cũng muốn tính cuốn sách đó; nếu không tôi sẽ cảm thấy rất buồn vì không nói đến nó. Đó là cuốn sách vô cùng tuyệt nhưng cũng rất khó đọc, và rất khó hiểu. Nhưng Benoit đã cố để làm cho nó thành đơn giản nhất có thể.

Thứ bảy. Con số bí truyền tuyệt vời, bảy. Tôi muốn nó được trao cho người đồng nghiệp thực sự bí truyền, Shiva, khái niệm Hindu về lòng tốt tối thượng. Nhiều cuốn sách mang tên Shiva; nhiều trong chúng không thật, chúng đang sử dụng tên chỉ để trở nên được tôn trọng. Nhưng cuốn sách này là một trong những cuốn đích thực nhất, SHIVA SUTRA (KINH SHIVA). Tôi đã nói về nó bằng tiếng Hindi; tôi cũng đang nghĩ đến việc nói về nó bằng tiếng Anh. Tôi đã quyết định thời điểm, nhưng bạn biết tôi đấy…

Cuốn KINH SHIVA này chứa mọi kỹ thuật của tất cả thiền. Không thể có bất kỳ kỹ thuật nào khác mà lại không được tính trong cuốn sách này. KINH SHIVA chính là kinh thánh của các thiền nhân.

Ashu, tôi biết tại sao họ đang cười. Cứ để họ cười. Tôi biết tôi đang nói rất, rất chậm, chính vì vậy mà họ đang cười. Nhưng tôi thích thú điều đó và họ đang cười cái cười của họ. Quá hay, Ashu… chỉ tình cờ người ta mới có thể nhận ra một người phụ nữ quá tuyệt như vậy. Có rất nhiều phụ nữ đẹp trên thế gian, nhưng những người phụ nữ tuyệt, lạy Chúa, lại rất khó tìm. Hãy để cho những kẻ ngốc cười. Tôi sẽ nói chậm như tôi muốn.

Tôi đã nói về KINH SHIVA. Cuốn sách này không giống những cuốn khác, nó là duy nhất, là không thể so sánh. 

Thứ tám: Tác phẩm tuyệt vời nhất của nhà huyền môn Ấn Độ, Gaurang. Từ gaurang có nghĩa là ‘người da trắng’. Ông ấy quá tuyệt đẹp… tôi có thể nhìn thấy ông đang đứng ngay bên tôi, chỉ là màu trắng, hoặc đúng hơn là tuyết-trắng. Ông ấy quá đẹp đến mức mọi cô gái trong làng đều yêu ông. Và ông ấy vẫn là người đàn ông độc thân. Người ta không thể kết hôn với hàng triệu cô gái. Chỉ một trong họ là quá đủ rồi; hàng triệu, lạy Chúa! – điều đó sẽ kết liễu bất kỳ người nào! Bây giờ bạn biết bí mật tại sao tôi lại độc thân.

Gaurang thường nhảy múa và hát ca thông điệp của mình. Thông điệp của ông không bằng lời nói, mà còn hơn thế – bài ca. Gaurang đã không viết cuốn sách nào; những người yêu của ông – và có rất nhiều, thực tế quá nhiều – họ tuyển tập những bài ca của ông. Những bài ca đó là một trong những tuyển tập đẹp nhất; tôi chưa bao giờ tình cờ thấy điều gì giống như vậy, trước đây và sau này. Nói gì về chúng… chỉ có thể là tôi yêu chúng.

Thứ chín: Lại một nhà huyền môn khác, có thể bạn đã không nghe về ông ấy. Ông ấy được gọi là Dadu, có nghĩa là người anh em. Ông ấy quá dễ thương đến mức mọi người đã quên tên thực của ông và chỉ nhớ ông là Dadu, người anh em. Có hàng nghìn bài ca mà Dadu đã ca hát, nhưng chúng không được viết bởi ông, chúng được tuyển chọn bởi những người khác, giống như người làm vườn thu lượm những bông hoa đã rụng từ lâu.  

Những gì tôi nó về Dadu cũng đúng đối với mọi vị thánh hiền. Họ chống lại việc viết. Họ ca hát, họ nói, họ nhảy múa, họ chỉ ra, nhưng họ không viết. Viết một cái gì đó là làm cho nó thành rất giới hạn. Từ ngữ là giới hạn; vì thế mà nó mới có thể là từ ngữ. Nếu nó là vô hạn thì nó sẽ là bầu trời đầy sao. Đó chính là trải nghiệm của vị thánh hiền.

Bản thân tôi cũng đã không viết bất kỳ thứ gì… chỉ một vài lá thư cho những người rất thân với tôi, nghĩ hoặc có lẽ tin rằng họ sẽ hiểu. Tôi không biết họ có hiểu hay không. Cho nên, cuốn VỊ TRÀ (A CUP OF TEA) là cuốn sách duy nhất có thể nói là đã được viết bởi tôi. Nó là tuyện tập những thư của tôi. Ngược lại, tôi đã không viết bất kỳ thứ gì. 

Những bài ca của Dadu đã được tuyển tập. Tôi đã nói về ông. Ông đạt tới những đỉnh cao mà con người có thể khao khát.

Thứ mười, người cuối cùng. Người cuối cùng ngày hôm nay là một trong những người kỳ lạ nhất từng bước đi trên trái đất, Sarmad. Ông ấy là vị Sufi, và ông đã bị sát hại trong nhà thờ Hồi giáo theo lệnh của vị vua Hồi giáo. Ông ấy bị sát hại chỉ vì câu kinh Hồi giáo nào đó, một trong những lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện là: “Allah la il allah – Allah, Thượng đế, là Thượng đế duy nhất.” Và điều đó không đủ với họ; họ muốn một cái gì đó hơn. Họ muốn tuyên bố với thế giới rằng Mohammed là nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế: “Allah la il allah; mohammed bismillah. Thượng đế là Thượng đế duy nhất, và Mohammed là nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế.”

Các vị Sufi từ chối phần hai, rằng Mohammed là nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế. Đó là tội của Sarmad. Rõ ràng không ai có thể là nhà tiên tri duy nhất; không ai có thể là tuyệt đối duy nhất – Mohammed, hay Jesus, hay Mosee, hay Phật. Sarmad đã bị trừng trị, bị giết hại, bị mạt sát bởi vị vua Hồi giáo Ấn Độ, cùng âm mưu với các vị tu sĩ Hồi giáo. Nhưng ông đã cười vang và nói, “Thậm chí sau cái chết của mình tôi vẫn nói như vậy: Alla la il allah – Thượng đế là Thượng đế duy nhất.”

Nhà thờ Hồi giáo lớn ở Delhi, tên Jama Masjid, nơi Sarmad bị giết hại, vẫn còn đứng đó, như một đài kỷ niệm đối với con người vĩ đại này. Ông ấy bị giết hại theo cách rất bất nhân: đầu ông bị chém. Đầu ông lăn xuống các bậc đi của nhà thờ Jama. Hàng nghìn người đứng đó đều nghe thấy cái đầu lăn xuống các bậc đá cùng tiếng thét, “Allah la il allah – Thượng đế là Thượng đế duy nhất...”

Tôi không biết câu chuyện có thật hay không, nhưng nó chắc chắn như vậy. Nó phải như vậy. Thậm chí sự thật cũng phải bao gồm con người như Sarmad. Tôi yêu Sarmad. Ông ấy không viết bất kỳ cuốn sách nào, những lời nói của ông đã được tuyển tập và điều ý nghĩa nhất là: Thượng đế là duy nhất Thượng đế, và không có nhà tiên tri, không có ai giữa bạn và Thượng đế. Không có người môi giới, Thượng đế sẵn sàng ngay lập tức. Tất cả điều cần đến là một chút điên khùng và nhiều thiền.

Tôi sẽ nói về một cái gì đó, nhưng tôi sẽ không nói… điều đó là không thể nói. Nó chưa bao giờ được nói trước đó, và tôi cũng không nên nói nó.

Nó rất đẹp
như hoàn hôn…
những chú chim bay về tổ,
những vì sao đầu tiên đang mọc,
bầu trời muôn sắc màu.
Bạn có thể nhìn thấy
nụ cười trên gương mặt tôi?








No comments:

Post a Comment