Nguyễn Đình Hách dịch
Chương 2
1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA
Tôi xin lỗi vì sáng nay tôi đã không nói đến một số cuốn
sách mà tôi nên nói đến. Tôi bị ngập
trong Zarathustra, Mirda, Trang Tử, Lão Tử, Jesus và Krishna đến mức tôi đã
quên một số cuốn thậm chí còn ý nghĩa hơn. Tôi không thể tin mình lại có thể
quên cuốn sách của Kahlil Gibran, NHÀ TIÊN TRI. Điều đó vẫn đang hành hạ tôi.
Tôi muốn dỡ bỏ gánh nặng đó – chính vì vậy mà tôi nói lời xin lỗi, nhưng không
cụ thể với ai.
Làm sao tôi có thể quên cuốn sách tối thượng: cuốn KINH
của các vị Sufi! Có lẽ tôi quên vì nó không chứa gì, chỉ là những trang giấy
trống rỗng. Trong một nghìn hai trăm năm, các vị Sufi đã mang cuốn KINH với
lòng tôn kính lớn lao, họ dở từng trang và nghiên cứu nó. Người ta tự hỏi họ
nghiên cứu gì. Khi bạn đối diện với một trang
sách trắng trong một khoảng thời gian dài, bạn buộc phải bị ảnh hưởng. Đó là sự
nghiên cứu thực sự – một tác phẩm.
Làm sao tôi lại có thể quên cuốn KINH? Bây giờ ai sẽ tha
thứ cho tôi? Cuốn KINH nên là cuốn đầu tiên được nói đến chứ không phải cuối
cùng. Nó không thể bị bỏ qua. Làm sao bạn có thể sáng tạo ra cuốn sách hay hơn
mà nó không chứa gì, và chỉ là thông điệp về cái không?
Devageet, cái ‘không’ nên được viết trong sổ ghi chép của
bạn là không-cái gì; ngược lại, cái ‘không’ lại có nghĩa tiêu cực – nghĩa của
sự trống rỗng, và nó không phải như vậy. Nghĩa là ‘tràn đầy’. Trống rỗng ở
phương Đông có nội dung hoàn toàn khác… SHUNYATA.
Tôi đã gọi một trong những sannyasin của tôi là Shunyo,
nhưng kẻ ngốc đó lại liên tục gọi mình là Tiến sĩ Eichling. Bây giờ, liệu còn có
gì ngu ngốc hơn không? ‘Tiến sĩ Eichling’ – cái tên mới xấu làm sao! Và anh ta
đã cạo râu chỉ để là Tiến sĩ Eichling… bởi vì để râu thì anh ta nhìn cũng hơi
đẹp.
Ở phương Đông, shunyata – trống rỗng – không có nghĩa
trống rỗng như tiếng Anh. Nó là tràn đầy, ngập tràn, quá tràn đầy đến mức không
cần gì thêm nữa. Đó là thông điệp của cuốn KINH. Xin hãy thêm nó vào danh sách.
Đầu tiên, cuốn KINH của các vị Sufi.
Thứ hai, NHÀ TIÊN TRI của Kahlil Gibran. Tôi có thể dễ
dàng bỏ rơi cuốn NHÀ TIÊN TRI vì lý do đơn giản rằng đó chỉ là tiếng vọng của
cuốn ZARATHUSTRA ĐÃ NÓI NHƯ THẾ của Friedrich Nietzsche. Trong thế giới của
chúng ta không có ai nói sự thật. Chúng ta là những người quá dối trá, quá hình
thức, quá xã giao… NHÀ TIÊN TRI chỉ đẹp bởi nó là tiếng vọng của Zarathustra.
Thứ ba, cuốn KINH CỦA LIỆT TỬ. Ý tôi nói Lão Tử, Trang
Tử; Liệt Tử tôi đã quên, và ông ấy chính là cực đỉnh của cả hai, Lão Tử và
Trang Tử. Liệt Tử là thế hệ thứ ba. Lão Tử là Bậc Thầy, Trang Tử là môn đệ, có
lẽ vì vậy mà tôi quên ông. Nhưng sách của ông lại vô cùng tuyệt và phải được
thêm vào danh sách.
Thứ tư – điều này thực sự kỳ lạ – tôi đã không nói đến
NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI CỦA SOCRATES của Plato. Có lẽ tôi quên vì Plato. Plato
không đáng để nói đến, ông ấy chỉ là nhà triết học, nhưng cuốn sách của ông,
NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI CỦA SOCRATES VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG, lại không thể không được
ca ngợi và nên được tính đến.
Thứ năm… Tôi cũng quên cuốn NHỮNG GHI CHÉP CỦA CÁC MÔN ĐỆ
VỀ BỒ ĐỀ ĐẠT MA. Khi tôi nói về Phật Gautam, tôi hay quên Bồ Đề Đạt Ma, có lẽ
tôi cảm thấy dường như ông đã bao gồm mình trong Bậc Thầy của mình, Đức Phật.
Nhưng không, điều đó không đúng; Bồ Đề Đạt Ma đứng bởi chính mình. Ông ấy là
môn đệ vĩ đại, quá vĩ đại đến mức Bậc Thầy có thể ghen tị với ông. Chính ông ấy
đã không viết một từ nào, nhưng một vài môn đệ vô danh của ông, bởi vì họ đã
không nhắc đến tên mình, đã ghi chép về những câu nói của Bồ Đề Đạt Ma. Những
ghi chép đó, mặc dù rất ít, lại rất quý giá như viên kim cương Kohinoor. Bạn
biết đấy, từ Kohinoor có nghĩa là ánh sáng của thế gian. Noor có nghĩa là ánh
sáng, kohi có nghĩa là thế gian. Nếu tôi phải mô tả bất kỳ điều gì như là
Kohinoor, đúng, tôi muốn nói tới một số ghi chép của các môn đệ ẩn danh của Bồ
Đề Đạt Ma.
Thứ sáu: Tôi cũng quên RUBAIYAT. Những giọt lệ lăn từ
khóe mắt tôi. Tôi có thể xin lỗi vì quên mọi thứ khác chứ không phải quên
RUBAIYAT. Omar Khayyam… Tôi chỉ có thể khóc, rơi lệ. Tôi chỉ có thể xin lỗi
bằng những giọt lệ của mình, lời nói sẽ không ích gì. RUBAIYAT là một trong
những sự hiểu lầm nhất và cũng là một trong những cuốn sách được đọc rộng rãi
nhất trên thế giới. Nó được hiểu bởi bản dịch, nó bị hiểu sai về tinh thần của
nó. Người dịch không thể mang tinh thần đến cho nó. RUBAIYAT là biểu tượng, và
người dịch lại là người Anh thẳng tuột, và điều đó ở Mỹ họ gọi là sự lỗi thời,
không bao giờ là tân thời cả. Để hiểu RUBAIYAT, bạn cần một chút tân thời trong
bạn.
RUBAIYAT nói về rượu và đàn bà và không còn gì nữa; nó ca
bài ca về rượu và đàn bà. Các dịch giả – và có nhiều – tất cả đều sai. Họ buộc
phải sai bởi vì Omar Khayyam là vị Sufi, là người đàn ông của tasawuf, người
đàn ông biết. Khi ông ấy nói về đàn bà, ông nói về Thượng đế. Đó là cách mà các
vị Sufi nói về Thượng đế: “Người yêu dấu, người yêu dấu của tôi.” Và họ luôn sử
dụng giống cái cho Thượng đế, điều này nên chú ý. Không có ai khác trên thế
giới, trong toàn bộ lịch sử con người và ý thức, lại đã gọi Thượng đế như là
một người đàn bà. Chỉ có các vị Sufi mới gọi Thượng đế như là người yêu dấu. Và
‘rượu’, cái thứ xuất hiện giữa người yêu và người được yêu, điều đó không có gì
liên quan tới những chùm nho cả. Thuật giả kim, thứ xuất hiện giữa người yêu và
người được yêu, giữa môn đệ và bậc thầy, giữa người tìm kiếm và đối tượng tìm
kiếm, giữa người tôn thờ và Thượng đế của người đó... thuật giả kim. Sự chuyển
hóa – đó là rượu. RUBAIYAT bị hiểu sai quá nhiều, có lẽ chính vì vậy mà tôi đã
quên nó.
Thứ bảy, cuốn MASNAVI của Jalaluddin Rumi. Đó là cuốn
sách gồm những câu truyện ngụ ngôn ngắn. Cái vĩ đại có thể được biểu cảm bởi
những câu chuyện ngụ ngôn. Jesus nói bằng những câu chuyện ngụ ngôn: MASNAVI
cũng vậy. Tại sao tôi lại quên nó? Tôi yêu những câu chuyện ngụ ngôn; tôi không
nên quên nó. Tôi đã sử dụng hàng trăm câu chuyện ngụ ngôn từ nó. Có lẽ nó đã
trở thành gần như của tôi đến mức tôi đã quên nói về nó một cách riêng biệt.
Nhưng đó không phải là nguyên cớ, vẫn phải yêu cầu sự xin lỗi.
Thứ tám: Cuốn thứ tám là ISA UPANISHAD. Thật dễ hiểu tại
sao tôi quên nó. Tôi đã uống nó, nó đã trở thành một phần của máu và xương tôi;
nó là tôi. Tôi đã nói về nó hàng trăm lần. Nó là cuốn Upanishad rất ngắn. Có
một trăm lẻ tám Upanishad và ISA là cuốn ngắn nhất. Nó có thể được in trên bưu
thiếp, trên một mặt, nhưng nó chứa đựng tất cả một trăm linh bảy cuốn còn lại,
cho nên chúng không cần được nhắc đến. Hạt mầm ở trong ISA.
Từ isa có nghĩa là linh thiêng. Có thể bạn ngạc nhiên
rằng ở Ấn Độ chúng tôi không gọi Christ là ‘Christ’, chúng tôi gọi ông ấy là
‘Isa’ – Isa còn gần với tên gốc Arab Yeshua, tên tiếng Anh Joshua. Chắc cha mẹ
ông ấy đã gọi ông là Yeshu. Yeshu quá dài. Cái tên đã du hành tới Ấn Độ, và từ
Yeshu trở thành Isu. Ngay lập tức Ấn Độ nhận ra Isu rất gần với Isa, có nghĩa
là Thượng đế, tốt hơn là gọi ông ấy là Isa.
ISA UPANISHAD là một trong những sự sáng tạo vĩ đại nhất
của những người đã thiền.
Thứ chín… Tôi quên không nói một cái gì đó về Gurdjieff
và cuốn sách của ông, TẤT CẢ VÀ MỌI THỨ – có lẽ vì nó là cuốn sách rất kỳ lạ,
thậm chí không dễ đọc. Tôi không nghĩ lại có bất kỳ cá nhân đang còn sống ngoài
tôi lại đã đọc cuốn sách từ trang đầu tới trang cuối. Tôi đã tình cờ gặp nhiều
người theo Gurdjieff, nhưng không ai trong họ có khả năng đọc TẤT CẢ VÀ MỌI THỨ một cách trọn vẹn.
Đó là cuốn sách dày – ngược lại với cuốn ISA UPANISHAD –
một nghìn trang. Và Gurdjieff là vị thánh quá tinh quái – xin hãy cho phép tôi
biểu đạt như vậy, vị thánh tinh quái – ông ấy viết theo cách mà nó trở thành
không thể đọc. Một câu có thể dài đến mấy trang. Lúc bạn đọc đến cuối câu, bạn
đã quên mất đầu câu. Và ông ấy đã sử dụng những từ tự hình thành, giống như
tôi. Những từ kỳ lạ…ví dụ khi ông ấy viết về kundalini, ông ấy gọi là
kundabuffer; đó là từ của ông ấy đối với kundalini. Cuốn sách này vô cùng giá
trị, những viên kim cương ẩn giấu giữa những viên đá. Con người phải tìm kiếm
và truy tìm.
Tôi đọc cuốn sách này không chỉ một lần mà nhiều lần. Tôi
càng vào nó tôi càng yêu thích nó, bởi vì tôi càng có thể nhìn thấy sự tinh
quái; tôi càng có thể nhìn thấy nó là gì, điều mà ông ấy giấu những người không
nên biết. Kiến thức không dành cho những
người không có khả năng hấp thụ nó. Kiến thức phải bị giấu khỏi những người cẩu
thả, và chỉ dành cho những người có thể phân loại, sắp xếp nó. Nó phải được
trao cho chỉ những người sẵn sàng. Đó là toàn bộ mục đích của lối viết kỳ lạ.
Không có sách nào kỳ lạ hơn cuốn TẤT CẢ VÀ MỌI THỨ của Gurdjieff, và chắc chắn
đó là tất cả và mọi thứ.
Thứ mười: Tôi đã nhớ ra cuốn sách này nhưng tôi đã không
nhắc đến nó bởi vì nó được viết bởi P.D. Ouspensky, môn đệ của Gurdjieff, là
người đã phản bội ông. Tôi không muốn tính đến nó bởi sự phản bội này, nhưng
cuốn sách được viết trước khi ông ấy phản bội bậc thầy của mình, cho nên cuối
cùng tôi quyết định bổ sung nó vào. Tên của cuốn sách là TÌM KIẾM ĐIỀU HUYỀN
BÍ. Nó tuyệt hay, bởi vì nó được viết bởi con người chỉ là môn đệ, chính người
đó không biết. Người đó không chỉ là môn đệ mà sau đó còn là Judas, là người đã
phản bội Gurdjieff. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng thế gian tràn ngập những điều kỳ
lạ.
Sách của Ouspensky thể hiện Gurdjieff còn rõ ràng hơn
chính sách của Gurdjieff. Có thể trong trạng thái nào đó bản thể Gurdjieff đã
chiếm lĩnh Ouspensky và đã sử dụng ông ấy như là phương tiện, giống như tôi
đang sử dụng Devageet như là phương tiện của mình. Ngay bây giờ anh ấy đang ghi
chép, và khi tôi nhắm hờ, tôi đang quan sát mọi thứ. Thậm chí tôi có thể quan
sát bằng mắt nhắm. Tôi chỉ là một người quan sát, một người quan sát trên đỉnh
đồi. Tôi không có công việc nào khác ngoài quan sát.
Thứ mười một: Đây là cuốn sách được viết bởi một người
chưa chứng ngộ, không là bậc thầy hoặc không là môn đệ: NHỮNG NGỌN CỎ bởi Walt
Whitman. Nhưng một cái gì đó đã thấm vào ông ấy thông qua thơ ca. Thơ ca đã
hoạt động như cây sáo trúc, và những ghi chép không phải cho cây sáo trúc;
chúng không thuộc về cây sáo trúc. Walt Whitman chỉ là cây trúc Mỹ. Nhưng NHỮNG
NGỌN CỎ lại đẹp tuyệt vời. Một cái gì đó tuôn chảy từ Thượng đế đã được nắm bắt
bởi những vần thơ này. Như tôi biết, không người Mỹ nào ngoài Walt Whitman đã
chạm vào nó – họ quá hời hợt; ngược lại, không người Mỹ nào lại quá trí huệ.
Đừng ngắt lời! – ít nhất bạn chỉ tình cờ ghi chép. Sau đó
bạn sẽ hối tiếc rằng bạn đã lỡ điều này, điều kia. Chỉ cần viết ra những ghi
chép của bạn. Khi thời gian chín muồi tôi sẽ nói dừng.
Thời gian của tôi hết rồi phải không? Thời gian của tôi
kéo dài từ rất lâu rồi; không phải hôm nay, mà từ hai mươi năm trước. Tôi đang
sống cuộc đời sau khi chết, giống như P.S (tái bút) của bức thư. Nhưng đôi khi
P.S lại còn quan trọng hơn toàn bộ bức thư.
Thế giới mới kỳ diệu làm sao. Thậm chí từ những đỉnh cao
này con người có thể nghe được tiếng rúc rích dưới thung lũng. Điều đó là tốt,
chúng tham gia cùng nhau. Than ôi, điều đó sẽ nhanh chóng trôi qua.
Chúng ta không thể làm cho nó kéo dài mãi sao?
Con người chỉ là kẻ hèn nhát.
Các môn đệ không thể tránh trở thành những Juda sao?
Khi điều đó qua đi, bạn có thể dừng.
Rất tốt… Alleluia (bài hát ca ngợi Chúa)!
(Còn
nữa)
Trích
từ cuốn Books I have loved by Osho
No comments:
Post a Comment