March 16, 2011

Foreign Policy (Số tháng 1-2/2011) - NĂM ĐIỀU HOANG ĐƯỜNG VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC


THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM - Tài liệu tham khảo đặc biệt
  
“Trung Quốc là chủ nghĩa cộng sản chỉ trên danh nghĩa”
Quan niệm trên là sai lầm. Nếu Vladimir Lenin tái sinh ở Bắc Kinh vào thế kỷ 21 và tìm cách quay mắt khỏi các toà nhà chọc trời tráng lệ và sự tiêu dùng xa hoa của thành phố này, ông sẽ nhận ngay ra trong đảng Cộng sản Trung Quốc đang cầm quyền một bản sao của hệ thống mà ông đã thiết kế gần một thế kỷ trước dành cho những người chiến thắng của cuộc Cách mạng Bônsêvích. Chỉ cần nhìn vào cơ cấu của đảng là thấy được hệ thống chính trị của Trung Quốc vẫn còn mang tính cộng sản – và theo chủ nghĩa Lênin như thế nào.


Đúng là từ trước đây rất lâu Trung Quốc đã vứt bỏ cốt lõi của hệ thống kinh tế cộng sản, thay thế chế độ kế hoạch tập trung cứng nhắc bằng các doanh nghiệp nhà nước có đầu óc kinh doanh cùng tồn tại với khu vực tư nhân đầy sức sống. Tuy nhiên, mặc dù việc tự do hoá nền kinh tế của họ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn thận trọng giữ quyền kiểm soát các đỉnh cao chỉ huy hoạt động chính trị thông qua sự nắm chắc “3 P” của đảng: nhân sự (personnel), tuyên truyền (propaganda) và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA). PLA là quân đội của đảng chứ không phải của đất nước. Không như ở phương Tây, nơi những sự tranh cãi thường nổi lên về việc chính trị hoá quân đội tiềm tàng, ở Trung Quốc, đảng không ngừng cảnh giác với hiện tượng ngược lại, hiện tượng phi chính trị hoá quân đội. Mối lo sợ của họ rất dễ thấy: sự mất quyền kiểm soát của đảng đối với các tướng lĩnh và binh lính của họ. Vào năm 1989, một vị tướng đã từ chối đưa các binh lính của ông đến Bắc Kinh để giải tán các sinh viên ra khỏi Quảng trường Thiên An Môn, một vụ việc hiện nay vẫn khắc sâu trong ký ức chung của tầng lớp cầm quyền. Xét cho cùng, việc quân đội đàn áp các cuộc biểu tình đã duy trì sự nắm giữ quyền lực của đảng vào năm 1989, và các nhà lãnh đạo của đảng kể từ đó đã ra sức giữ các tướng về phía mình, phòng trường hợp cần đến họ để lại đàn áp các cuộc phản kháng.

Giống như ở Liên Xô, đảng kiểm soát giới truyền thông thông qua Ban Tuyên truyền, đưa ra các chỉ dẫn hàng ngày, cả chính thức bằng văn bản và bằng thư điện tử và các tin nhắn, lẫn không chính thức thông qua điện thoại, cho các phương tiện truyền thông. Những chỉ dẫn này chỉ ra, thường là rất chi tiết, tin tức mà đảng cho là nhạy cảm – chẳng hạn việc trao giải thưởng Nobel Hoà bình cho Lưu Hiểu Ba – cần phải được xử lý như thế nào hay liệu cuối cùng có nên đăng tải hay không.

Có lẽ quan trọng nhất là đảng ra lệnh cho mọi sự bổ nhiệm nhân sự cấp cao ở các bộ và các công ty, các trường đại học và các phương tiện truyền thông, thông qua một thể chế mờ ám và ít được biết đến gọi là Ban Tổ chức. Thông qua ban này, đảng giám sát hầu như mọi vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực của đất nước này. Rõ ràng là người Trung Quốc nhớ mệnh lệnh của Stalin rằng các cán bộ quyết định mọi việc.

Quả thực, nếu người ta đánh giá Đảng Cộng sản Trung Quốc dựa trên bảng đối chiếu mang tính định nghĩa của Robert Service, nhà sử học kỳ cựu của Liên Xô, thì những điểm tương đồng là đáng kể. Giống như chủ nghĩa cộng sản trong thời hoàng kim ở bất cứ nơi nào khác, đảng Cộng sản ở Trung Quốc diệt trừ hay làm suy yếu các đối thủ chính trị, xoá bỏ quyền tự quyết của các toà án và giới truyền thông, hạn chế tôn giáo và xã hội dân sự, gièm pha các cách giải thích đối địch về dân tộc, tập trung sức mạnh chính trị, thiết lập mạng lưới cảnh sát an ninh rộng khắp, và đưa những kẻ chống đối đến các trại lao động. Đây là lý do thích hợp giải thích tại sao hệ thống Trung Quốc thường được miêu tả là “Chủ nghĩa Lênin-thị trường”.

“Đảng kiểm soát mọi lĩnh vực đời sống ở Trung Quốc”

Không còn nữa. Không nghi ngờ gì, Trung Quốc  đã là một nhà nước chuyên chế dưới sự cai trị của Mao Trạch Đông từ năm 1949 đến khi ông qua đời vào năm 1976. Trong thời kỳ tồi tệ đó, các công nhân bình thường không chỉ phải xin phép người giám sát họ mới được kết hôn, mà còn phải xin phép để được sông chung với vợ/chồng của họ thậm chí cả thời điểm chính xác để bắt đầu có con cũng phụ thuộc vào cái gật đầu từ cấp trên.

Kể từ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận ra rằng sự can thiệp quá mức như vậy vào cuộc sống riêng tư của người dân là cản trở cho việc xây dựng một nền kinh tế hiện đại. Dưới các cuộc cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi động vào cuối những năm 1970, đảng này đã dần loại bỏ mình khỏi cuộc sống riêng tư của mọi người dân trừ những kẻ cứng đầu cứng cổ nhất trong những người bất đồng quan điểm. Vào những năm 1980 và 1990 sự suy yếu của chế độ cũ đảm bảo nơi làm việc trong nhà nước chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội khác suốt đời cũng đã xóa bỏ hệ thống kiểm soát phức tạp tập trung vào các uỷ ban địa phương, mà trong số các mục tiêu khác được sử dụng để theo dõi những người dân thường.

Đảng được hưởng lợi lớn từ sự thay đổi này, cho dù nhiều thanh niên những ngày này hầu như không biết đảng làm gì và cho rằng đảng không liên quan đến cuộc sống của họ. Điều này hoàn toàn hợp với các nhà lãnh đạo của đảng. Dù sao thì người dân thường không được khuyến khích quan tâm đến các hoạt động nội bộ của đảng. Các cơ quan đầy quyền lực của đảng như Ban Tổ chức và Ban Tuyên truyền không có bảng hiệu ở bên ngoài văn phòng của họ. Họ không công khai số điện thoại. Cách ứng xử kín đáo của họ về mặt chiến lược là rất thông minh, giữ các hoạt động hàng ngày của họ nằm ngoài tầm mắt của quần chúng trong khi cho phép đảng hưởng mọi công lao vì sự phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước. Việc này cho thấy sự thoả thuận lớn của Trung Quốc có tác động như thế nào: đảng cho phép các công dân quyền tự do cải thiện cuộc sống của họ, miễn là họ tránh xa chính trị.

“Internet sẽ lật đổ đảng”

Không đúng. Một thập kỷ trước đây, Bill Clinton đã có một nhận xét nổi tiếng rằng những nỗ lực của các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhằm kiểm soát Internet đã bị thất bại, giống như “việc gắn miếng thạch lên tường”. Hoá ra vị cựu tổng thống này đã đúng, nhưng không phải theo cách mà ông đã nghĩ. Còn lâu mới là chiếc băng tải cho các giá trị dân chủ của phương Tây, Internet ở Trung Quốc phần lớn làm điều ngược lại. “Bức tường lửa vĩ đại” rất có nhiều hiệu quả trong việc ngăn cản hay ít nhất là lọc bớt những tư tưởng của phương Tây. Tuy nhiên, đằng sau bức tường lửa, các cư dân mạng theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan được tự do hơn rất nhiều.

Đảng Cộng sản Trung Quốc thường tự phủ lên mình chiếc áo choàng chủ nghĩa dân tộc nhằm đảm bảo sự ủng hộ của dân chúng và thổi phồng câu chuyện kể đầy sức mạnh về việc Trung Quốc bị phương Tây làm nhục trong lịch sử. Ngay cả các lời đề nghị đầu tư nước ngoài bình thường đôi khi cũng được so sánh với “8 quân đội đồng minh” đã xâm lược và chiếm đóng Bắc Kinh vào năm 1900. Nhưng khi các quan điểm như vậy nổi lên đầy trên Internet, chính quyền thường xoay xở một cách khéo léo để hướng chúng vào những mục đích của chính mình, như khi Bắc Kinh sử dụng sự bùng nổ quan điểm chống Nhật Bản trên mạng để gây áp lực với Tôkyô sau khi thuyền trường một tàu đánh cá của Trung Quốc bị bắt giữ trong lãnh hải của Nhật Bản. Các chiến thuật đe doạ như vậy có thể không có ích cho hình ảnh của Trung Quốc ở bên ngoài, nhưng chúng tăng cường sự ủng hộ đối với đảng ở trong nước, mà phương tiện truyền thông nhà nước hăng hái miêu tả là chống lại các thế lực nước ngoài.
 
Thông qua Ban Tuyên truyền của mình, đảng sử dụng một loạt chiến thuật thường là sáng tạo nhằm đảm bảo rằng tiếng nói của họ chi phối mạng Internet. Không chỉ mỗi địa phương có các cảnh sát Internet được đào tạo đặc biệt của chính mình để ngăn chặn những vụ gây rối trong công chúng, ban này còn giám sát một hệ thống trả những khoản tiền mặt nho nhỏ cho các cư dân mạng, những người đăng tải các lời bình luận ủng hộ chính quyền lên các trang thông tin và các nhóm thảo luận trên Internet. Hơn nữa, các cổng Internet quốc gia chi phối hiểu rằng các mô hình kinh doanh sinh lợi của họ phụ thuộc vào việc loại bỏ nội dung chống đối ra khỏi trang web của họ. Nếu họ nhất quyết coi thường luật lệ, thì đơn giản là họ có thể bị đóng cửa.

“Các nước khác muốn đi theo mô hình của Trung Quốc”

Chúc may mắn. Dĩ nhiên là nhiều nước đang phát triển ganh tỵ với sự nổi lên của Trung Quốc. Đất nước nghèo nào lại không muốn có một tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 10% và một sự đảm bảo rằng ông hay bà ta trong khi đó sẽ tiếp tục nắm quyền trong một thời gian dài? Không còn nghi ngờ gì nữa là Trung Quốc có các bài học quan trọng dạy cho các nước khác về làm thế nào để quản lý sự phát triển, từ việc điều chỉnh các cuộc cải cách bằng cách thử nghiệm chúng ở các khu vực khác nhau của đất nước đến việc quản lý sự đô thị hoá để các thành phố lớn không bị tràn ngập bởi các khu ổ chuột và các khu nhà ở nghèo nàn xập xệ.

Hơn nữa, Trung Quốc thực hiện việc này trong khi rõ ràng là coi thường lời khuyên của phương Tây, sử dụng cơ chế thị trường mà không bị cám dỗ bởi mỗi sự mê hoặc nhỏ bé của nó. Trong nhiều năm, các chủ ngân hàng nước ngoài lặn lội đến Bắc Kinh để rao giảng về tự do hoá về tài chính, kêu gọi các quan chức của Trung Quốc thả nổi đồng nội tệ của họ và mở tài khoản vốn của họ. Ai có thể khiển trách các nhà lãnh đạo Trung Quốc vì đã nhận thấy tính tư lợi rành rành trong một lời khuyên như vậy và từ chối nó? Sự thành công của Trung Quốc dẫn đến khái niệm hợp thời về một “Sự đồng thuận Bắc Kinh” mới tránh sự áp đặt các thị trường tự do và chế độ dân chủ đã là các dấu hiệu của “Sự đồng thuận Oasinhtơn” cũ hơn. Trong hoàn cảnh của nó, Sự đồng thuận Bắc Kinh được cho là đưa ra nguyên lý kinh tế thực dụng và chính trị độc đoán theo mệnh lệnh.

Nhưng nhìn cận cảnh hơn vào mô hình Trung Quốc, và rõ ràng là nó không dễ để bắt chước. Hầu hết các nước đang phát triển không có bề dày và truyền thống quan liêu như của Trung Quốc, họ cũng không có khả năng huy động các nguồn lực và kiểm soát nhân lực theo cách mà cơ cấu đảng của Trung Quốc cho phép. Liệu Cộng hoà Dân chủ Cônggô có thể thiết lập và quản lý hay không một Ban Tổ chức? Chủ nghĩa độc đoán của Trung Quốc có hiệu quả bởi vì nó có các nguồn lực của đảng hậu thuẫn.

“Đảng không thể cầm quyền mãi mãi”

Có, đảng có thể. Hay ít nhất là trong một tương lai có thể dự đoán được. Không như ở Đài Loan và Hàn Quốc, tầng lớp trung lưu của Trung Quốc không nổi lên với bất cứ một đòi hỏi rõ ràng về một chế độ dân chủ theo kiểu phương Tây. Có một số lý do hiển nhiên giải thích tại sao. Cả ba láng giềng châu Á của Trung Quốc, kể cả Nhật Bản, đã trở thành các chế độ dân chủ tại các thời điểm khác nhau và trong những bối cảnh khác nhau. Nhưng tất cả họ đều được sự bảo trợ một cách hiệu quả của Mỹ, và Oasinhtơn đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy thông qua sự thay đổi dân chủ hay thể chế hoá nó. Chẳng hạn, quyết định của Hàn Quốc tuyên bố tiến hành bầu cử trước Thế vận hội Ôlympích Xơun năm 1988 là do áp lực trực tiếp của Mỹ. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng là những xã hội nhỏ hơn và đồng nhất hơn, không có tầm với lục địa rộng lớn như Trung Quốc với vô số dân tộc và nhóm sắc tộc xung đột. Và không cần phải nói rằng không một quốc gia nào trong số họ trải qua một cuộc cách mạng cộng sản mà nguyên tắc sáng lập của nó là đánh đuổi quân đế quốc ngoại bang ra khỏi đất nước.

Tầng lớp trung lưu thành thị của Trung Quốc có thể mong muốn được hưởng nhiều quyền tự do chính trị hơn, nhưng họ không dám đồng loạt đứng lên chống lại nhà nước bởi vì họ sẽ mất quá nhiều thứ. Trong 3 thập kỷ qua, đảng đã ban hành hàng loạt cuộc cải cách kinh tế, ngay cả khi nó đàn áp sự chống đối. Quyền tự do tiêu dùng – dưới hình thái những chiếc xe ôtô, bất động sản, hay những siêu thị đầy ắp hàng hoá – hấp dẫn hơn rất nhiều những khái niệm mơ hồ về chế độ dân chủ, đặc biệt là khi các cá nhân thúc bách đòi cải cách chính trị có thể mất đi kế sinh nhai và thậm chí là cả quyền tự do của mình. Cái giá của việc chống lại đảng thì quá cao. Do đó, các ổ gây náo động trong những năm gần đây phần lớn là ở các khu vực nông thôn, nơi sinh sống của những người nghèo nhất của Trung Quốc được đầu tư ít nhất trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của đất nước. “Người lao động toàn thế giới hãy đoàn kết! Các bạn chẳng có gì để mất ngoài những văn tự cầm cố của các bạn” không còn là một khẩu hiệu cách mạng.

Tất cả những điều này là lý do giải thích tại sao một số nhà phân tích nhìn nhận những sự chia rẽ trong nội bộ đảng là một phương tiện có khả năng hơn cho sự thay đổi về mặt chính trị. Giống như bất cứ tổ chức chính trị lớn nào, Đảng Cộng sản Trung Quốc bị chia bè phái theo nhiều thành phần, từ các lãnh địa địa phương (tiêu biểu trên sân khấu quốc gia là phe nhóm Thượng Hải dưới thời nguyên Chủ tịch Giang Trạch Dân) đến các mạng lưới nội bộ đảng (như các cán bộ cấp cao có mối quan hệ chặt chẽ với Đoàn Thanh niên Cộng sản thông qua người kế thừa Giang Trạch Dân – Hồ Cẩm Đào). Cũng có những tranh cãi chính sách rõ rệt về mọi phương diện từ nhịp độ thích đáng của tự do hoá chính trị đến việc mở rộng vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế.

Nhưng việc làm nổi bật những điểm khác biệt này có thể che khuất một thực trạng lớn hơn. Kể từ năm 1989, khi đảng bị chia rẽ ở thành phần lãnh đạo tối cao và gần như bị tan vỡ, nguyên tắc cơ bản là không có sự chia rẽ công khai trong Bộ Chính trị. Ngày nay, sự hợp tác cấp cao nhất đã trở thành một tiêu chuẩn cũng như việc làm suy yếu sự cạnh tranh phe phái. Tập Cận Bình, người thừa kế tương lai, đang chuẩn bị lên nắm quyền tại đại hội đảng sắp tới vào năm 2012. Giả sử người có khả năng sẽ đóng vai phó của ông, Lý Khắc Cường, sẽ tiếp theo ông với nhiệm kỳ thông thường 5 năm, giới lãnh đạo tối cao của Trung Quốc dường như được sắp đặt cho tới năm 2022. Người Trung Quốc, ngày càng có vẻ coi thường Mỹ.

Ý tưởng rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ trở thành một chế độ dân chủ luôn là một quan điểm của phương Tây, nảy sinh từ các luận thuyết của chúng ta về các hệ thống chính trị tiến triển như thế nào. Tuy nhiên, cho đến nay mọi bằng chứng cho thấy rằng các luận thuyết này là sai lầm. Đảng có ý như những gì họ nói: họ không muốn Trung Quốc trở thành một chế độ dân chủ phương Tây – và dường như họ có mọi công cụ cần thiết để đảm bảo rằng Trung Quốc không trở thành như vậy./.

Đã đăng trên basam.info

No comments:

Post a Comment