Phạm Nguyên Trường dịch
Nguyên nhân của hiện tượng ràng buộc ngân sách mềm (trong quan niệm của Kornai) là sở hữu nhà nước, chính vì vậy mà ngân sách nhà nước buộc phải bao cấp cho những khỏan chi phí của doanh nghiệp. Có thể giả định rằng việc hình thành và tồn tại của chế độ ràng buộc pháp lí mềm cũng có liên quan với những tính chất đặc thù của quan hệ sở hữu đã định hình cho đến nay.
Trong hệ thống này, sở hữu tư nhân chỉ có tính chất giới hạn: tồn tại về mặt pháp lí nhưng không được xã hội công nhận. Xã hội coi quyền sở hữu như là trường hợp cá biệt và là kết quả của việc sử dụng quyền vi phạm pháp luật, là sự hợp pháp hóa và tiền tệ hóa quyền nói trên. Vì vậy mà việc mất sở hữu vì mất quyền vi phạm pháp luật cũng được xã hội coi là hợp pháp. Kết quả là trong hệ thống đó, sở hữu, một mặt, được quản lí như tài sản tư nhân, theo nghĩa là người chủ sở hữu danh nghĩa có quyền thu và sử dụng lợi tức do tài sản mang lại; nhưng tài sản cũng có thể bị mất không chỉ là do những điều khỏan nào đó của hợp đồng mà vì người chủ đã mất quyền vi phạm pháp luật.
Rõ ràng là hệ thống, trong đó sở hữu được quản lí như sở hữu tư nhân nhưng lại có thể bị tước đọat, đòi hỏi phái có chế độ pháp lí hai mang. Một mặt, cần phải có luật pháp thành văn, bảo đảm cho việc thực hiện các hợp đồng trong khuôn khổ những mối quan hệ theo chiều ngang, liên quan đến việc sử dụng sở hữu (tín dụng, cung ứng, mua bán…), ở đây người chủ sở hữu hành động như người chủ hợp pháp trong quan hệ với đối tác (luật pháp chính thức ở chế độ bật [switch on]). Mặt khác, ở đây sở hữu là thành tố của hệ thống mặc cả theo chiều dọc về quyền vi phạm pháp luật, và trong khuôn khổ của hệ thống này, sở hữu có thể bị tước đọat và đưa vào quá trình phân phối lại quyền sử dụng (luật pháp chính thức ở chế độ tắt [switch off]).
Vấn đề chúng ta phải giải quyết và biện hộ cho việc sử dụng thuật ngữ của Kornai nằm ở câu hỏi sau đây: xí nghiệp sẽ gặp phải chuyện gì nếu ràng buộc ngân sách mềm đã không còn, nghĩa là việc “khởi động” chủ nghĩa tư bản đã được thực hiện, nhưng lại có những ràng buộc pháp lí mềm, nghĩa là về nguyên tắc có thể bỏ qua phần lớn các hạn chế được qui định trong luật thành văn? Ràng buộc ngân sách cứng nghĩa là doanh nghiệp không thể dùng những khỏan tài trợ từ bên ngòai để trang trải cho những chí phí của mình nữa (đúng hơn, về nguyên tắc là không vì trong chế độ ràng buộc pháp lí mềm vẫn có thể có những trường hợp ngọai lệ), nghĩa là doanh nghiệp buộc phải tham gia vào hệ thống quan hệ thị trường theo chiều dọc và tìm mọi cách nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Theo nghĩa này, nhiệm vụ căn bản của quá trình “khởi động” chủ nghĩa tư bản đã được giải quyết xong. Nhưng đồng thời xí nghiệp cũng có thể sử dụng quyền vi phạm pháp luật nhằm giảm bớt quản lí phí và các chi phí gián tiếp khác, tạo ra ưu thế trên thương trường và kết quả là gia tăng được lợi nhuận so với hiệu quả kinh tế thực sự của mình. Hòan tòan có lí khi giả định rằng quản lí phí và các chi phí gián tiếp của các xí nghiệp khác cao hơn xí nghiệp được nói tới bên trên. Nghĩa là lợi nhuận của các xí nghiệp nghiệp này thấp hơn, đấy là nói khi hiệu quả kinh tế của các xí nghiệp là như nhau. Kết quả là, thứ nhất, lợi nhuận được tái phân phối giữa các xí nghiệp vì quản lí phí và các chi phí gián tiếp được chia không đều; và thứ hai, lợi nhuận và sự thăng giáng của lợi nhuận không phản ánh một cách trực tiếp hiệu quả và sự thăng giáng hiệu quả kinh tế của xí nghiệp.
Về mặt lí thuyết, có thể giả định rằng người chủ doanh nghiệp sẽ cố gắng tìm cách gia tăng lợi nhuận bằng cả hai cách: thứ nhất, giảm quản lí phí và các chi phí gián tiếp và thứ hai, tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng những đặc điểm của chế độ mà ta bàn tới bên trên lại làm cho người ta thích cách thứ nhất hơn. Vấn đề là, quyền sở hữu ở đây được định nghĩa như là quyền sử dụng lợi nhuận, còn chính sở hữu thì có thể bị tước đọat. Đầu tư cho việc mua quyền vi phạm pháp luật là đầu tư làm gia tăng ngay lập tức lợi nhuận, còn đầu tư cho việc gia tăng hiệu quả sản xuất lại là đầu tư vào tài sản mà đặc trưng chủ yếu của nó là có thể bị tước đọat bất cứ lúc nào. Đầu tư như thế là quá mạo hiểm vì bạn đang đầu tư cho lợi nhuận trong tương lai mà lúc đó bạn có thể không còn quyền sở hữu khối tài sản đó nữa. Tạo ra doanh nghiệp với hiệu suất quay vòng vốn cao là bạn đang gia tăng nguy cơ bị tước quyền sở hữu và bạn phải đầu tư thêm nhằm bảo vệ quyền sử dụng khối tài sản đó. Trong khi đó, đầu tư cho quyền vi phạm pháp luật là đầu tư không chỉ làm gia tăng lợi nhuận tức thời mà về nguyên tắc khi tài sản bị tước đọat thì nó cũng không tự động chuyển giao cho người chủ mới, như vậy nghĩa là khỏan đầu tư này làm giảm đi nguy cơ bị tước đọat sở hữu của chính bạn. Lợi nhuận của doanh nghiệp càng phụ thuộc vào những điều khỏan đặc biệt trong hợp đồng giữa người chủ và người quản lí thì việc chuyển quyền quản lí càng khó khăn hơn, và ngược lại. Điều đó quyết định cách thức lựa chọn giữa hai biện pháp nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã thấy, mối liên hệ giữa chế độ ràng buộc pháp lí mềm và đặc thù của sở hữu mang tính hai mặt. Đặc thù của sở hữu thúc đẩy người ta đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận tức thời và giảm bớt những khỏan đầu tư cho lợi nhuận trong tương lai. Nhưng, trong khi tìm cách bảo đảm và gia tăng lợi nhuận bằng những biện pháp phi kinh tế (bằng cách vi phạm pháp luật), người chủ sở hữu danh nghĩa cũng đồng thời củng cố chế độ mà quyền sở hữu của anh ta bị hạn chế.
Chuyện đó xảy ra như thế nào? Một mặt, tiến hành mặc cả quyền vi phạm pháp luật là anh ta đang đánh mất sự ủng hộ của xã hội đối với quyền sở hữu của mình. Mặt khác, trong tình hình khi mà lợi nhuận không phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh tế thì người sở hữu không có khái niệm rõ ràng về hiệu quả kinh tế của công việc kinh doanh của mình. Thí dụ, doanh nghiệp họat động có hiệu quả nếu lợi nhuận tăng 15-20% một năm mà chi phí tăng 5-7%. Nhưng nếu giả sử rằng ba phần tư khỏan gia tăng lợi nhuận là do những tác nhân ngòai kinh tế (ràng buộc pháp lí mềm) thì hóa ra trên thực tế hiệu quả của doanh nghiệp đã giảm. Kết quả là người chủ sở hữu phụ thuộc vào hệ thống phân phối quyền vi phạm pháp luật: anh ta không biết nếu không có hệ thống này thì anh ta có đủ sức cạnh tranh hay không và có thể bù đắp được chi phí hay không. Thời gian càng kéo dài và doanh nghiệp càng thành công trong chế độ ràng buộc pháp lí mềm thì sắc xuất là anh ta không làm được càng tăng, và chính anh ta cũng tin như thế. Đấy gọi là hiệu ứng “cái lồng vàng”.
Nhưng ta sẽ thấy rõ hậu quả quan trọng nhất của chế độ ràng buộc ngân sách mềm khi xem xét vấn đề không phải từ quan điểm hậu quả đối với doanh nghiệp mà từ quan điểm hậu quả đối với thị trường nói chung. Như chúng ta đã thấy, sự tồn tại và vị trí của doanh nghiệp được quyết định không phải chỉ bởi cân bằng cung - cầu (quan hệ thị trường theo chiều ngang) mà còn bởi những điều kiện của “cuộc mặc cả theo chiều dọc” về quyền vi phạm pháp luật nữa. Việc mua quyền này chỉ có ý nghĩa nếu những người tham gia thương trường khác bị luật thành văn ràng buộc. Nghĩa là hệ thống “mặc cả theo chiều dọc” họat động như một bộ lọc, chỉ cho một số doanh nghiệp nào đó tiếp cận với một số lĩnh vực nào đó của thị trường mà thôi. Trong trường hợp này, đầu tư của danh nghiệp để mua quyền vi phạm pháp luật không còn là chi phí phụ trội nữa vì người tiêu dùng sẽ phải trả.
Trong chế độ ràng buộc ngân sách cứng thì chỉ có người mua mới có thể hòan trả cho doanh nghiệp những chi phí mà họ đã bỏ ra để mua quyền vi phạm pháp luật. Vì vậy giá bán trong chế độ ràng buộc pháp lí mềm sẽ cao hơn là khi nó được quyết định bởi cung cầu trên thị trường (quyết định bởi những điều kiện “mặc cả theo chiều ngang”). Người tiêu dùng phải trả chi phí mua quyền vi phạm pháp luật của doanh nghiệp cũng như phải trả giá cho hiệu quả ngày càng thấp của doanh nghiệp. Điều đó phần nào giải thích vì sao doanh nhân họat động trong khuôn khổ của hệ thống này không coi chế độ ràng buộc pháp lí mềm là trở ngại đối với quá trình kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp: chi phí cho việc mua quyền vi phạm pháp luật được chuyển sang cho người tiêu thụ. Kết quả là doanh nhân mua được quyền vi phạm pháp luật cảm thấy điều kiện cạnh tranh có vẻ dễ dàng hơn, chỉ cần tập trung vào lợi nhuận tức thời và nếu chấp nhận khả năng bị tước mất quyền sở hữu trong tương lai thì ông ta sẽ là người hòan tòan hạnh phúc. Nếu các cá nhân tham gia vào hệ thống mặc cả để mua quyền vi phạm pháp luật không còn quan tâm đến hệ thống trong đó mọi qui định đều đơn giản và được tuân thủ thì người nắm quyền sở hữu cũng không quan tâm đến việc bảo đảm quyền sở hữu một cách lâu dài, nhưng bù lại, người ta lại thu được lợi nhuận tức thời cao hơn.
***
Trong quan niệm của những nhà cải cách xã hội cách đây hai mươi năm thì việc “khởi động” chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là thông qua cơ chế ràng buộc ngân sách cứng nhất định sẽ biến daonh nghiệp thành chủ thể độc lập trong các quan hệ thị trường (đưa doanh nghiệp ra khỏi hệ thống mặc cả theo chiều dọc). Đến lượt mình, các quan hệ mới sẽ dẫn đến việc hình thành những định chế nhằm duy trì và bảo vệ cạnh tranh vì chỉ có như thế doanh nghiệp mới có thể thu được lợi nhuận tối đa. Trên cái nền như thế, chế độ ràng buộc pháp lí mềm trông sẽ chẳng khác gì cơ chế bù trừ: nó có tác dụng làm giảm hiệu quả của chế độ ràng buộc ngân sách cứng.
Tính cứng rắn của ràng buộc ngân sách đã khởi động cơ chế trách nhiệm của doanh nghiệp và khuyến khích họ tìm kiếm lợi nhuận; đồng thời cơ chế ràng buộc pháp lí mềm lại tạo điều kiện cho người ta phân bố lại lợi nhuận giữa các doanh nghiệp bất chấp hiệu quả kinh tế của chúng và như vậy cũng có nghĩa là đã giữ lại nguyên tắc mặc cả theo chiều dọc, nhưng lần này không phải là mặc cả về chi phí mà là mặc cả về lợi nhuận. Kết quả là cơ chế đó cản trở quá trình hình thành quyền sở hữu một cách đầy đủ, làm giảm động cơ đầu tư nhằm nâng cao hiệu suất họat động sản xuất kinh doanh (đặc biệt là làm giảm những khỏan đầu tư dài hạn), giảm hiệu quả của doanh nghiệp trong dài hạn và làm gia tăng giá cả trên thị trường.
Vì cơ chế ràng buộc ngân sách cứng vẫn họat động cho nên doanh nghiệp không thể họat động với hiệu suất âm - doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Kết quả là “cái chủ nghĩa tư bản nửa vời” này có nhiều khả năng sẽ sống sót và tự tái tạo lại mình mặc dù không có điều kiện phát triển. Từ quan điểm hiệu suất kinh tế, có thể nói rằng doanh nghiệp sẽ tiến đến tình trạng cân bằng “bên trên số không một chút”. Điều này tạo ra nguy cơ là tình trạng “mập mờ” cùng với tiềm lực phát triển thấp sẽ được duy trì trong thời gian dài. Dĩ nhiên là đến một lúc nào đó sự kém hiệu quả của những doanh nghiệp được ưu tiên ưu đãi sẽ biến chúng thành những kẻ “ăn” vào lợi nhuận do nền kinh tế tạo ra. Nhưng hệ thống có thể hi sinh các doanh nghiệp đó. Vì không phải những “ông trùm” (quán quân về quyền vi phạm pháp luật) mà là bộ máy quan liêu có quyền bán quyền vi phạm pháp luật mới là những kẻ được lợi nhất trong hệ thống này. Sức mạnh của nó không chỉ được thể hiện ở sự tồn tại của những “ông trùm” cụ thể, mà trước hết được thể hiện ở quá trình “tạo ra những ông trùm” đang diễn ra liên tục. Tiềm lực của chế độ ràng buộc pháp lí mềm thể hiện đầy đủ nhất trong quá trình “tạo ra các ông trùm” và vì vậy mà một số “ông” sẽ phải biến khỏi vũ đài.
Như vậy là, nói chung, có thể nói rằng chế độ ràng buộc pháp lí mềm tạo điều kiện cho việc hình thành hệ thống, trong đó có hai kiểu kí lẽ cùng song song tồn tại: lí lẽ của những quan hệ thị trường theo chiều ngang và lí lẽ của “mặc cả theo chiều dọc”, giữ vai trò tái phân phối, bên ngòai quan hệ thị trường, các nguồn lực và lợi nhuận giữ các xí nghiệp. Chế độ ràng buộc pháp lí mềm là cái công tắc cho phép người ta chuyển từ lí lẽ này sang lí lẽ kia. Lí lẽ thứ nhất, mà cụ thể là nguyên tắc ràng buộc ngân sách cứng tạo điều kiện cho nền kinh tế tạo ra lợi nhuận, lí lẽ thứ hai giúp người ta tái phân phối lợi nhuận thu được.
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga, Nguồn: http://www.inliberty.ru/blog/krogov/2471/
No comments:
Post a Comment