December 6, 2025

Chủ nghĩa tư bản nhập môn (10 - Bài cuối)

 

Eamonn Butler

Phạm Nguyên Trường dịch

Đinh Tuấn Minh hiệu đính

Chương 11 

Tương lai của chủ nghĩa tư bản 

Chủ nghĩa tư bản có nhiều điểm mạnh và có nhiều cơ hội để nó lan tỏa hòa bình và thịnh vượng trên toàn thế giới. Nhưng nó cũng có những điểm yếu và phải đối mặt với những mối đe dọa có thể làm cho nó suy yếu thêm như phá vỡ các cấu trúc mong manh của nó, bóp méo tác dụng của nó và làm suy yếu sự ủng hộ của công chúng. 

Những điểm mạnh 

Thịnh vượng. Luận cứ quan trọng nhất của những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản - ngay cả khi nó bị quản lý chặt chẽ như trong giai đoạn hiện nay - là nó nhanh chóng thúc đẩy thịnh vượng, đặc biệt là đối với những người nghèo nhất. Toàn cầu hóa các thị trường và vốn trên thế giới trong giai đoạn gần đây đã giúp cho hàng tỷ người thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực, gia tăng thu nhập và của cải, dịch vụ chăm sóc sức khỏe được cải thiện, tuổi thọ gia tăng, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm, khả năng đọc viết và tính toán (đặc biệt là ở phụ nữ) cũng gia tăng và nhiều lợi ích khác nữa. 

Ngoài ra, việc tiếp cận với nguồn vốn toàn cầu làm cho hoạt động kinh doanh của các nền kinh tế mới nổi trở nên hiệu quả hơn. Tạo điều kiện cho người dân địa phương được hưởng các sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn và phong phú hơn, đồng thời thu nhập của họ cũng tăng lên. Năng suất gia tăng cũng giúp các doanh nghiệp mới thu được thành công dễ dàng hơn, giảm thiểu rủi ro trong quá trình thành lập doanh nghiệp mới và khuyến khích đổi mới và tiến bộ. 

Giải phóng tâm trí. Bằng cách làm cho sản xuất trở thành dễ dàng hơn và có năng suất hơn, cung cấp những món hàng hóa giúp giải phóng con người khỏi những công việc cực nhọc và tạo ra của cải giúp con người không phải lo lắng về cuộc sống hàng ngày, chủ nghĩa tư bản giải phóng con người để họ tập trung trí óc vào những công việc mà họ đánh giá cao và sử dụng trí thông minh của mình nhằm giải quyết những vấn đề khác. Tất nhiên là việc giải phóng nhiều bộ óc khác nhau để họ cùng suy nghĩ về cách sống của chúng ta cũng thúc đẩy tiến bộ. Những người khác nhau đưa ra những kế hoạch khác nhau và những kế hoạch này có thể được kiểm nghiệm trên thị trường hàng hóa – và cả thị trường tư tưởng nữa. Lúc đó, chúng ta có thể dùng những ý tưởng mang lại hiệu quả và loại bỏ những ý tưởng vô ích, nhanh hơn hẳn so với việc chúng ta cam kết thực hiện một kế hoạch quốc gia duy nhất nào đó. 

Nhiều thế giới không tưởng (utopia) mang tính cá nhân. Chủ nghĩa tư bản là đa nguyên. Như Brennan nói, chủ nghĩa tư bản không thúc đẩy một thế giới không tưởng – nó thúc đẩy nhiều thế giới không tưởng. Những người khác nhau có thể theo đuổi những tham vọng và sứ mệnh khác nhau, đúng như họ lựa chọn. Họ không cần phải đợi chính phủ giao cho mình vai trò mà mình phải đảm nhận trong dự án tập thể. Họ có thể xây dựng thế giới không tưởng của riêng mình mà không ngăn cản bất kỳ người nào khác xây dựng thế giới không tưởng của người đó. Tất cả những việc mà họ phải làm là hòa đồng với những người khác – không cần đàn áp người khác như Marx nói về giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản tạo điều kiện cho nhiều loài hoa khác nhau cùng khoe sắc. 

Bản chất con người. Chủ nghĩa tư bản còn bắt nguồn từ bản chất của con người. Mọi người đều gắn bó chặt chẽ với tài sản của chính mình: những tài sản mà họ sở hữu là thành tố rất quan trọng và có ý nghĩa đối với họ không chỉ trên phương diện giá trị vật chất. Ý tưởng của chúng ta về công lý cũng sâu sắc như thế, chúng ta cũng gắn bó với những người tôn trọng lời hứa mà họ đã đưa ra. Trong khi chung sống hòa bình với những người khác, thì mọi người đều muốn được tự do sống và hành động theo lựa chọn của chính mình. Ngoài ra, mọi người đều muốn cải thiện tình trạng của chính mình và của gia đình mình. Đây là nền tảng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi, ngay cả ở những nước theo chủ nghĩa tập thể tàn bạo nhất, người ta vẫn cố gắng xây dựng và bảo vệ tài sản của chính mình, và các thị trường xuất hiện ngay khi có cơ hội. 

Những điểm yếu 

Dựa vào nhà nước và chủ nghĩa thân hữu. Thật khó mà biện hộ được cái mà hiện nay người ta thường gọi là “chủ nghĩa tư bản”. Trên thực tế, cái được gọi là “chủ nghĩa tư bản” ở hầu hết các nước trên thế giới là các nền kinh tế hỗn hợp, các doanh nghiệp tư nhân bị đánh thuế rất cao và bị quản lý chặt chẽ, một nửa hoặc hơn một nửa thu nhập quốc gia nằm trong tay chính phủ, và các doanh nghiệp nhà nước nắm độc quyền hoặc gần như độc quyền trong các lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, dịch vụ công, vận tải đường sắt và bưu chính. Thường thì đấy là các nền kinh tế thân hữu, các doanh nghiệp lớn gia tăng sức mạnh kinh tế của mình bằng cách tìm kiếm ân huệ mà các chính trị gia có thể ban phát, đôi khi để đổi lấy những khoản hỗ trợ về mặt tài chính. 

Tuy nhiên, biện hộ cho “chủ nghĩa xã hội” ở các nước như Liên Xô, Trung Quốc dưới thời Mao, Bắc Triều Tiên hay Cuba cũng là công việc thiên nan vạn nan bởi chúng thiếu vắng trách nhiệm giải trình và dân chủ, gắn với chế độ chuyên chính, đảng quyền, các cuộc thanh trừng và nạn đói đã cướp đi mạng sống của có lẽ hàng trăm triệu người. 

Khác biệt là chủ nghĩa thân hữu không phải là thành phần tất yếu của chủ nghĩa tư bản, trong khi những tệ nạn kia lại là thành phần tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Đấy là vì chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên nguyên tắc tự do cá nhân và trao đổi tự nguyện. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội cần quyền lực chính trị chỉ đạo mọi hoạt động kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản, người ta không cần phải đồng ý với nhau: họ có thể tiến hành công việc kinh doanh của riêng mình và tiêu thụ những món hàng hóa mà họ ưa thích mà không cần những người khác đồng ý với lựa chọn của mình. Nhưng, chủ nghĩa xã hội cho là có mục tiêu chung và các phương tiện tập thể để thực hiện mục tiêu đó, đấy là cái mà mọi người phải đồng ý. Những người không đồng ý cũng bị buộc phải tham gia vào doanh nghiệp tập thể. 

Do đó, trong khi chủ nghĩa tư bản dựa trên sự đa dạng và lựa chọn, thì chủ nghĩa xã hội dựa trên tuân thủ và quyền lực. Nhưng tuân thủ không phải là trợ thủ của tiến bộ, trong khi quyền lực làm tha hóa ngay cả những người chí công vô tư nhất – và lôi cuốn được những kẻ lợi dụng nó một cách tàn nhẫn nhất. Có thể tưởng tượng ra chủ nghĩa tư bản “thuần khiết”, trong đó các doanh nghiệp chỉ có thể phát triển thịnh vượng bằng cách phục vụ khách hàng trong quá trình cạnh tranh công khai, và không nhận được các đặc quyền đặc lợi theo lối ô dù của nhà nước. Nhưng không thể hình dung nổi chủ nghĩa xã hội “thuần khiết”, trong đó mọi người đều vui vẻ đồng ý tham gia vào doanh nghiệp tập thể mà không có bộ máy quyền lực nhà nước ép nào buộc họ tham gia. 

Đạo đức giả trong kinh doanh. Nhưng quyền lực tạo điều kiện cho các chính trị gia dành ưu ái cho những doanh nghiệp được họ bảo trợ là lý do giải thích vì sao những người hoạt đông kinh doanh lại là những người bảo vệ yếu kém nhất, hay thậm chí là kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Các tập đoàn kinh doanh ít khi ủng hộ cạnh tranh trong lĩnh vực của mình. Ngược lại, họ kêu gọi ban hành các quy định nhằm hạn chế cạnh tranh – những người này thường tuyên bố rằng đang cứu công chúng khỏi những kẻ điều hành “cao bồi” nguy hiểm. Mặc dù tuyên bố ủng hộ “chủ nghĩa tư bản”, nhưng họ lại rất khéo léo trong việc thuyết phục các chính trị gia ban phát các khoản trợ cấp, hỗ trợ, cứu trợ và những khoản ưu đãi khác. 

Việc các doanh nhân không có khả năng (hoặc không sẵn sàng) giải thích cho người khác biết những lợi ích chung của hoạt động khởi lập nghiệp và thị trường tự do chắc chắn là khiếm khuyết to lớn của chủ nghĩa tư bản và là đe dọa to lớn đối với nó. Bằng cách trộn lẫn chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa thân hữu, những doanh nghiệp được cho là thành công ấy không mang lại lợi ích gì cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ý tưởng về chủ nghĩa tư bản đã khá khó hiểu rồi: dễ dàng hiểu được những lợi ích trước mắt của các biện pháp can thiệp, nhưng lợi ích lâu dài của việc để cho thị trường và cạnh tranh hoạt động thì khó hiểu hơn; và ít người nhận thức được rằng trật tự thị trường mong manh đến mức nào, và những biện pháp can thiệp chính trị nho nhỏ cũng có thể làm cho nó trở thành hỗn loạn tới mức nào. 

Giải thích sai. Hơn nữa, vì trong hầu hết các nền kinh tế đã phát triển là kinh tế hỗn hợp, cho nên khó có thể phân biệt được sự kiện nào là do chủ nghĩa tư bản gây ra và sự kiện nào là do các can thiệp chính trị làm cho nó biến dạng. Ví dụ, gần như tất cả các chính trị gia và hầu hết người dân bình thường đều tưởng tượng rằng vụ sụp đổ tài chính năm 2007/8 là do chủ nghĩa tư bản và “các chủ ngân hàng tham lam” tạo ra. Nhưng những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản phản bác rằng cuộc khủng hoảng thực sự là do người ta đã giữ lãi suất thấp và có chính sách tiền tệ lỏng lẻo suốt hàng thập kỷ, và các quy định (có mục đích tốt nhưng sai lầm) của chính phủ Hoa Kỳ, đã buộc các ngân hàng phải cho những gia đình nghèo vay vốn mà họ biết là có rủi ro tín dụng – châm ngòi cho thảm họa cho vay thế chấp dưới chuẩn đã làm sụp đổ một số định chế tài chính. Họ cũng cảnh báo rằng phản ứng của các chính phủ đối với cuộc khủng hoảng - bảo lãnh các ngân hàng, tạo ra nhiều tiền hơn và giảm chi phí vay hơn nữa - chỉ kéo dài cơn đau, làm cho kinh tế đình trệ thêm. Họ cho rằng giải pháp đúng đắn là ổn định các ngân hàng bằng cách đưa họ vào cạnh tranh, áp dụng các chính sách tiền tệ và tín dụng bền vững, và để các thị trường hoạt động nhằm khôi phục lại nền kinh tế lành mạnh. 

Do đó, những giải thích mà chúng ta thường gặp về sụp đổ tài chính là không đúng. Nhưng các sự kiện của giai đoạn năm 2007/8, các biện pháp khắc phục sai lầm được áp dụng và thời gian tăng trưởng thấp kéo dài diễn ra sau đó, đã làm cho nhiều người vỡ mộng đối với với chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do – kéo theo những lời kêu gọi cần có thêm nhiều biện pháp kiểm soát, quy định và các biện pháp can thiệp khác của chính phủ. Không nghi ngờ gì rằng, tất cả những sự kiện này làm cho ý tưởng về chủ nghĩa tư bản bị suy yếu nghiêm trọng.

 Cơ hội 

Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục lan tỏa. Mặc dù trước đây người ta tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản cuối cùng sẽ thống lĩnh trên phạm vi toàn cầu, nhưng hiện nay có rất ít khu vực trên thế giới mà các ý tưởng và thực tiễn tư bản chủ nghĩa chưa thâm nhập được vào. Đầu những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, phần lớn châu Á, Đông Âu và châu Phi đã tham gia vào mạng lưới thương mại thế giới và tiến hành các cuộc cải cách tạo điều kiện cho người dân xây dựng các doanh nghiệp của riêng mình và buôn bán tự do hơn. Đến lượt mình, sự kiện này đã tạo ra tầng lớp trung lưu mới, đấy là những người điều hành hoặc làm việc trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, và những người khao khát được hưởng nhiều hơn tự do và sự thịnh vượng hơn. Có nhiều thị trường mở cửa hơn, cộng với những tiến bộ trong lĩnh vực truyền thông và vận tải trên toàn thế giới, chắc chắn là thay đổi sẽ gia tăng mạnh mẽ. Các chính trị gia có thể lo lắng về rằng thương mại tự do sẽ làm giảm công ăn việc làm ở trong nước, nhưng tất cả các nhà kinh tế hộ chủ nghĩa tư bản đều nhận ra lợi ích của nó: hiện nay đại đa số người dân trên thế giới sống dựa vào chủ nghĩa tư bản và thương mại để có thể nhận được những món hàng hóa rẻ và chất lượng cao. 

Trao quyền cho người nghèo. Việc đảm bảo rằng những người nghèo nhất cũng có thể tham gia một cách trọn vẹn vào quá trình phát triển này là thách thức, nhưng cũng là cơ hội. Ví dụ, mặc dù người dân ở những nước nghèo hơn có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn, nhưng tài sản của họ không phải là vốn: thực tế là, những khoản tiết kiệm của họ thường nằm dưới dạng tiền mặt mà không mang lại hiệu quả. Như nhà kinh tế học người Peru, Hernando de Soto Polar (1941–), đã nhận xét, một số người nghèo nhất thế giới xây nhà ở ở những nơi họ có thể xây, nhưng không có chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp, và họ điều hành các doanh nghiệp và cửa hàng mà không xin được giấy phép hành nghề theo yêu cầu của nhà nước. Vì nhà cửa và cơ sở kinh doanh của họ không có các chứng nhận hợp pháp nên họ không thể sử dụng làm tài sản thế chấp cho các khoản vay và hợp đồng, do đó, họ không bao giờ có thể phát triển doanh nghiệp hoặc có được mức độ an toàn tài chính thực sự. Tuy nhiên, nhà nước có thể giúp những người này phát triển thịnh vượng bằng cách cấp cho họ giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai và làm cho các quy định trở thành đơn giản và thực tế hơn – biến tiền tiết kiệm của họ thành vốn sản xuất và trao cho họ cổ phần thực sự trong nền kinh tế quốc gia. 

Không có giới hạn địa lý hoặc đạo đức. Không có giới hạn tự nhiên nào đối với việc mở rộng chủ nghĩa tư bản và các thị trường mới. Đổi mới sáng tạo vẫn tiếp tục dựa trên đổi mới sáng tạo trước đó, nó tạo ra những cơ hội mới cho các nhà khởi lập nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu của người dân một cách tốt hơn, rẻ hơn, nhanh hơn và thậm chí được đưa đến những địa điểm xa xôi hơn, trên những khoảng cách thậm chí còn lớn hơn. Không ai biết tự do và tiến bộ sẽ đưa chúng ta đến đâu – chắc chắn là nó sẽ làm nản lòng những người bi quan và những người nhà hoạch định, nhưng lại kích thích những người theo chủ nghĩa cá nhân và những người lạc quan, họ là những người chiếm đa số trong nhân loại của chúng ta hiện nay. 

Cơ hội cũng không chỉ dừng lại ở lợi ích vật chất. Giá trị của quyền sở hữu, độc lập, tự do, hòa bình và bác bỏ vũ lực là thành phần của chủ nghĩa tư bản cũng được củng cố bằng sự mở rộng của thị trường và thương mại tự do. Đấy chính là lợi ích mang tính đạo đức, góp phần nâng cao đời sống tinh thần con người. 

Những mối đe doạ 

Các nhà trí thức. Có lẽ đe dọa lớn nhất đối với chủ nghĩa tư bản xuất phát từ giới trí thức. Động cơ của họ có thể là lo lắng hoặc không lo lắng đến lợi ích chung: có lẽ họ cảm thấy là bị thị trường đánh giá thấp, hoặc tưởng tượng rằng mình là người điều hành trật tự kinh tế mới, hoặc không tin tưởng rằng người khác có thể đưa ra những lựa chọn hợp lý. Dù sao mặc lòng, công chúng và các chính trị gia nhìn chung vẫn coi giới trí thức là những người có hiểu biết và khôn ngoan, người ta chấp nhận những lời phê phán chủ nghĩa tư bản của giới trí thức và rút ra kết luận là nó cần phải được sửa chữa một cách nghiêm túc. 

Nhưng ít trí thức hiểu được bản chất và cơ chế hoạt động phức tạp của chủ nghĩa tư bản, và thường là có rất ít trải nghiệm mang tính cá nhân về hoạt động của nó. Do đó, họ thường tưởng tượng ra những vấn đề, họ chẩn đoán sai nguyên nhân và các biện pháp khắc phục mà họ đưa ra cũng sai nốt. 

Sai lầm của sách giáo khoa. Ví dụ, nhiều nhà trí thức vẫn chìm đắm trong mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong sách giáo khoa, với giả định rằng có rất nhiều người bán các món hàng hóa giống hệt nhau với giá như nhau. Vì vậy, họ cho rằng bất kỳ sự thay đổi nào về giá cả hoặc thị phần đều chắc chắn là sai. Ví dụ, họ coi sự tăng trưởng nhanh chóng của một chuỗi siêu thị là dấu hiệu cho thấy thị trường “không hoàn hảo” – chứ không phải là chỉ dấu cho thấy người tiêu dùng chỉ đơn giản là thích những hàng hóa mà siêu thị cung cấp. Họ coi việc siêu thị giảm giá là “hành vi săn mồi” chứ không phải là nỗ lực giành khách hàng trong thị trường đang có những thay đổi nhanh chóng. Kết quả là, họ đề xuất khôi phục tình trạng “cạnh tranh hoàn hảo” huyền thoại bằng cách hạn chế, không cho các công ty phát triển hoặc kiểm soát giá cả – tức là giết chết chính những động lực làm cho thị trường trở nên năng động. Họ không nhận ra rằng cạnh tranh chỉ diễn ra vì đời sống kinh tế là không hoàn hảo, các công ty cố gắng lấp đầy những khoảng trống mới phát sinh và chen lấn nhau nhằm cung cấp một thứ gì đó khác biệt, tốt hơn và rẻ hơn – chứ không phải những sản phẩm giống hệt như của những người khác. 

Chủ nghĩa dân túy. Tất nhiên là hiện nay chủ nghĩa tư bản không bị chủ nghĩa xã hội nhà nước đe dọa lấn át như hồi trước những năm 1990 nữa. Chủ nghĩa xã hội không còn là một bản thiết kế hoành tráng; chỉ còn lại một loạt những lời phàn nàn về hoạt động và kết quả của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như hiện tượng bất bình đẳng. Nhưng chủ nghĩa tư bản không bao giờ hứa hẹn sẽ giải quyết tất cả các tệ nạn xã hội; nó cũng không thể giải quyết được: giá trị của nó nằm ở việc sản xuất và phân phối hiệu quả các hàng hóa kinh tế. Và nhiều kết quả bị người ta chỉ trích thực sự là kết quả của sự can thiệp của chính phủ, chứ không phải của chủ nghĩa tư bản. Chính trị dân túy, với những chẩn đoán và biện pháp sửa chữa quá đơn giản, đã dẫn đến kết quả là có quá nhiều vụ can thiệp vào lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã chuyển từ ý tưởng về sở hữu nhà nước đối với các tư liệu sản xuất sang kiểm soát của nhà nước đối với những tư liệu này. Chẳng có gì ngạc nhiên nếu sự can thiệp chính trị như thế sẽ tạo ra những hậu quả tai hại. 

Kiểm soát từng bước một. Mặc dù vậy, các quy định vẫn ngày càng nhiều thêm. Có nhiều lý do: ví dụ, những quy định cần các cơ quan chính phủ thực hiện và những cơ quan đó đương nhiên là có lợi trong việc bành trướng vai trò của mình, và họ thường trở thành nguồn gốc của những quy định mới và thậm chí còn phức tạp hơn nữa. Khi chính phủ trở thành một bên tham gia kinh tế ngày càng lớn hơn và quan trọng hơn, người ta sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm đặc lợi, chủ nghĩa thân hữu và tham nhũng; và lợi ích tiềm tàng từ vận động hành lang sẽ càng lớn. Các chính trị gia giành được quyền lực, địa vị và đặc quyền, đồng thời rất thích áp đặt các giá trị của riêng mình lên đời sống kinh tế và xã hội – thể hiện ưu điểm của chính mình trước các cử tri với hy vọng là họ sẽ tái đắc cử. 

Thật đáng tiếc, và thậm chí còn tồi tệ hơn khi các quy định hầu như luôn phản tác dụng, chính xác là vì người ta chưa hiểu rõ và cũng ít khi xem xét tác động lâu dài của những biện pháp can thiệp như thế. Ví dụ, luật tiền lương tối thiểu có thể là biện pháp tích cực trong việc chống đói nghèo; nhưng trên thực tế, chúng có tác dụng hoàn toàn ngược lại, với cái giá là những người có nguy cơ nghèo, người trẻ và không có kỹ năng sẽ mất việc. Hoặc các quy định yêu cầu thử nghiệm lâu dài các loại thuốc mới có thể giúp công chúng tránh được việc sử dụng các loại thuốc chưa được thử nghiệm; nhưng đồng thời, lại không cho những người mắc bệnh nan y dùng những loại thuốc mới, có thể cứu được họ. Và việc kiểm soát tiền thuê nhà dường như có thể giúp người dân có nơi ở; nhưng với việc làm cho hoạt động cho thuê bất động sản trở nên kém lợi nhuận, chủ nhà sẽ đưa nhà và văn phòng ra khỏi thị trường cho thuê hay sẽ không bảo dưỡng như trước nữa. 

Đáng buồn là, người ta lên án chủ nghĩa tư bản, chứ không lên án các chính trị gia, vì đã để xảy ra những hậu quả như thế – thực tế này luôn luôn dẫn đến những lời kêu gọi rằng cần ban hành nhiều quy định hơn nữa. Tuy nhiên, bỏ những quy định đã có là công việc thiên nan vạn nan, vì những quy định này đã tạo ra các nhóm lợi ích thâm căn cố đế sống dựa vào chúng – chẳng hạn như những người được hưởng giá thuê nhà rẻ do nhà nước kiểm soát, đấy là chưa nói đến các cơ quan ban hành quy định. Quy định ngày càng phình ra, lan tràn vào mọi lĩnh vực tạo ra đe dọa nghiêm trọng đối với tương lai của chủ nghĩa tư bản. 

Mức độ dẻo dai của chủ nghĩa tư bản 

Đáng chú ý là, chủ nghĩa tư bản có khả năng phục hồi và rất dẻo dai. Dưới hình thức này hay hình thức khác, nó đã tồn tại cùng với chúng ta suốt hàng ngàn năm qua. Nó là trật tự xã hội theo chủ nghĩa cá nhân chứ không theo chủ nghĩa tập thể, nó tạo điều kiện cho các cá nhân phát hiện được những biện pháp riêng của mình nhằm đối phó với tất cả những hiện tượng xã hội, chính trị hoặc công nghệ mà đời sống đặt ra trước mặt họ. Bằng cách khai thác năng lực sáng tạo của từng cá nhân, chủ nghĩa tư bản có thể tồn tại ngay cả khi người ta áp dụng những biện pháp can thiệp chính trị tai hại nhất: từ các quy định kém hiệu quả, đến các chính sách kinh tế sai lầm, và thậm chí cả việc hoạch định và kiểm soát toàn diện của nhà nước. 

Không nghi ngờ gì nữa, phiên bản chủ nghĩa tư bản bị chính trị hóa đang giữ thế thượng phong trong giai đoạn hiện nay có thể được cải thiện, đó là loại bỏ chính trị và sự can thiệp của nhà nước, để cho mọi người được tự do làm việc, một cách có hệ thống và bao trùm trong mọi lĩnh vực của nó, vì lợi ích của tất cả mọi người. Nếu không có chủ nghĩa tư bản đích thực, thì khó có thể hình dung được tương lai thịnh vượng và tự do cho nhân loại. 

 

Chương 12 

Tài liệu đọc thêm 

Những cuốn sách nhập môn đầy thù địch 

Đáng chú ý là rất nhiều tác phẩm gọi là khai tâm về chủ nghĩa tư bản nhưng thực ra lại là những cuốn sách phê phán, lấy cảm hứng từ những tác phẩm phân tích lịch sử của Karl Marx. 

Ví dụ như cuốn Chủ nghĩa tư bản: dẫn nhập cực ngắn (Capitalism: A Very Short Introduction 2004), của James Fulcher, chia sẻ quan điểm của Marx về lợi nhuận, hệ thống tiền công, bóc lột, nạn nghèo đói ở đô thị và những xu hướng lớn trong lịch sử, và áp dụng những suy nghĩ như thế nhằm giải quyết bất ổn tài chính và toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay. Nhưng tác phẩm này không giải thích được chủ nghĩa tư bản là gì, nó thực sự hoạt động như thế nào hoặc những ý tưởng làm điểm tựa cho nó. 

Mục Wikipedia về chủ nghĩa tư bản (https://en.wikiped ia.org/wiki/Capitalism) là một bài viết lộn xộn được nhiều tác giả chấp bút, chủ yếu chấp nhận quan điểm của chủ nghĩa Marx. Mục này đi từ các định nghĩa về chủ nghĩa tư bản của Marx sang quan điểm của họ về lịch sử, tới các hình thái và các đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, tới thị trường, tài sản và lợi nhuận, vốn tài chính, độc quyền, các thị trường, chủ nghĩa tư bản và chiến tranh, rồi một lần nữa tới các hình thức tư bản chủ nghĩa, vai trò của chính phủ và nhiều chỉ trích hơn nữa, những quan điểm này chỉ bị phản đối bằng những đoạn ngắn – làm cho độc giả hoàn toàn hoang mang. 

Cuốn sách của Ha-Joon Chang, 23 điều họ không nói với bạn về chủ nghĩa tư bản (23 Things They Don’t Tell You About Capitalism - 2011), là một tập các bài tiểu luận, gợi ý rằng chủ nghĩa tư bản là hệ thống tốt nhất trong số những hệ thống tồi tệ, và cần phải được kiểm soát và điều chỉnh. Tác phẩm này gợi ý rằng kinh doanh nhắm vào lợi ích ngắn hạn, rằng toàn cầu hóa thu được rất ít thành công, của cải gắn liền với người giàu, chủ nghĩa tư bản đang ngày càng ít hiệu quả và dù nói thế nào thì thị trường tự do cũng là hiện tượng không có thật. 

Cuốn sách của Chang nên được đọc song hành, đối sánh cùng với cuốn 23 điều chúng tôi đang nói với bạn về chủ nghĩa tư bản (23 Things We Are Telling You About Capitalism) của Tim Worstall (2014, http:// tinyurl.com/y8fxth82), phản bác lại rằng các chính trị gia mới là những người theo đuổi lợi ích ngắn hạn, chủ nghĩa bảo hộ không có tác dụng và dựa vào quyền lực, các quy định thúc đẩy chủ nghĩa thân hữu và các chính phủ cồng kềnh không thúc đẩy tiến bộ và thiếu linh hoạt hơn hẳn thị trường tự do. 

Những cuốn sách nhập môn có thái độ đồng cảm 

Có nhiều tác phẩm nhập môn hữu ích do những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản chấp bút, đấy là những người có cơ hội hiểu và giải thích nó một cách rõ ràng. Có lẽ nên bắt đầu từ một chuỗi băng video và cuốn sách Tự do lựa chọn (Free to Choose – 1980) của Milton và Rose Friedman, bảo vệ mạnh mẽ và có sức hấp dẫn chính sách tự do kinh tế về không can thiệp, thể hiện quan hệ giữa tự do và tiến bộ kinh tế và bàn về nhiều vấn đề chính sách như thuế cao, tiêu chuẩn thấp trong giáo dục công lập và các dịch vụ khác, chính sách tiền tệ và phúc lợi (trong đó Friedmans đề xuất thuế thu nhập âm). 

Hai ông bà cũng là đồng tác giả cuốn Chủ nghĩa tư bản và Tự do (Capitalism and Freedom - 1962) xuất bản trước đó nhiều năm. Mặc dù những đoạn viết về chính sách, tập trung nhiều vào chính sách tiền tệ (lúc đó lạm phát là vấn đề lớn) đã lỗi thời, thì vẫn còn có nhiều nội dung hữu ích bàn về vai trò của chính phủ trong việc tạo ra những công ty độc quyền, biện pháp mà chủ nghĩa tư bản dùng để làm giảm phân biệt đối xử, các quy định có lợi cho các nhà cung cấp chứ không làm lợi cho công chúng, và vai trò quan trọng của tự do kinh tế. 

Robert Hessen có bài giới thiệu ngắn gọn về chủ nghĩa tư bản trên Online Library of Economics and Liberty (http://www.econlib.org/library/Enc/Capitalism.html), chỉ ra rằng cụm từ “chủ nghĩa tư bản” đã được người ta phát minh ra như một thuật ngữ thù địch và cho đến tận ngày nay vẫn còn những người nghĩ rằng các nhà tư bản muốn đưa chúng ta trở lại các thị trấn công nghiệp đầy khói bụi của nước Anh hồi thế kỷ XIX. Biện pháp sửa chữa được người ta đề xuất - chủ nghĩa xã hội không tưởng của thỏa thuận và hài hòa - không có hiệu quả, vì vậy Marx sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội “khoa học”, với dự đoán là chủ nghĩa tư bản sẽ cáo chung. Khi chủ nghĩa tư bản phồn vinh, thì những người phê phán lại quay sang phàn nàn về thái độ coi trọng vật chất và “sự thừa mứa” mà chủ nghĩa tư bản gây ra. Đáng buồn là, Hessen viết, người phương Tây không hiểu hệ thống của chính mình và tỏ ra quá kém cỏi trong việc bảo vệ nó. 

Có thêm tí triết học, tác phẩm Tại sao không phải là chủ nghĩa tư bản? (Why not Capitalism -2014) của Jason Brennan so sánh đạo đức trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, khẳng định rằng tầm nhìn xã hội chủ nghĩa về bản chất không có đạo đức hơn tầm nhìn tư bản chủ nghĩa. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản dựa trên hợp tác tự nguyện, tôn trọng lẫn nhau và quan tâm đến người khác. Khác với chủ nghĩa xã hội, các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản hoạt động hiệu quả cả trong các xã hội lớn cũng như trong các xã hội nhỏ. Chủ nghĩa tư bản cũng bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người phát triển và thể hiện chính mình cũng như theo đuổi tầm nhìn không tưởng của riêng mình. 

Chủ nghĩa tư bản: Phiên bản cô đọng (Capitalism: A Condensed Version - 2007) của Arthur Seldon hơi lỗi thời (được rút gọn là từ tác phẩm xuất bản năm 1990), nhưng trái ngược với quan điểm thông thường, tác phẩm này xem xét cách thức mà Cách mạng Công nghiệp mang đến cho người dân nhà ở thay thế cho những túp lều lụp xụp, quần áo giá rẻ thay thế cho áo quần vá chằng vá đụp, thời gian làm việc ngắn hơn, điều kiện vệ sinh tốt hơn và nhiều lợi ích khác nữa. Sau đó, tác phẩm này đưa ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn như tài sản, hệ thống giá cả và quyền của người tiêu dùng, trước khi chỉ ra rằng phúc lợi, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và nhà ở mà không cần nhà nước cung cấp. 

Trong tác phẩm Chủ nghĩa tư bản, dân chủ và cửa hàng tạp hóa khá tốt của Ralph (Capitalism, Democracy, and Ralph's Pretty Good Grocery - 2001), John Mueller giải thích rằng chủ nghĩa tư bản và chế độ dân chủ không phải là lý tưởng cũng không phải tai họa, mà là “khá tốt” với những việc mà chúng làm. Mặc dù người ta nói rằng chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở lòng tham, nhưng trên thực tế, nó tưởng thưởng cho những hành động trung thực, công bằng, văn minh và nhân ái. Và trong khi chế độ dân chủ được cho là cào bằng và mọi người đều tham gia, thì trên thực tế nó lại là xã hội hỗn loạn, bất bình đẳng và thờ ơ. Cùng với nhau, hai thiết chế này cung cấp cho chúng ta tự do, an ninh và thịnh vượng – nhưng không phải là thiên đường. 

Bài giảng của Matt Ridley, The Case for Free-Market Anti-Capitalism (2017), chỉ ra rằng thị trường tự do không phải là chủ nghĩa tư bản thân hữu, các tập đoàn lớn và nạn độc quyền. Các công ty lớn đã làm cho thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản” không còn sử dụng được nữa, vì giờ đây họ không dựa vào tự do kinh tế mà dựa vào các khoản ưu đãi, trợ cấp, giảm thuế và các quy định của chính phủ. Nhưng trong hai mươi năm qua, tự do kinh tế đã giảm một nửa tỷ lệ nghèo đói, thúc đẩy năng suất và sự hào phóng, đồng thời làm giảm tệ phân biệt đối xử và bất bình đẳng. 

Cuốn sách hay nhất về thị trường (The Best Book on the Market - 2008) của Eamonn Butler là bản hướng dẫn ngắn gọn về cách thức hoạt động của chủ nghĩa cá nhân trong lĩnh vực kinh tế. Nó chỉ ra rằng thị trường không bao giờ “hoàn hảo” – nhưng chính sự không hoàn hảo lại thúc đẩy mọi người hoạt động. Đúng là thị trường có thất bại: nhưng sự thất bại của chính phủ thậm chí còn tồi tệ hơn. Trao đổi làm gia tăng giá trị; còn kiểm soát thì giết nó. Cuốn sách bàn tới vai trò của giá cả và cạnh tranh trong việc đưa nguồn lực đến những nơi mà chúng có giá trị sử dụng cao nhất, vai trò của thái độ trung thực và tài sản, và đạo đức của thị trường. 

Tác phẩm Cuộc cách mạng của chủ nghĩa tư bản (The Capitalist Revolution - 1986) của Peter Berger chỉ ra cho chúng ta thấy những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản - tài sản, hàng hoá vốn, thị trường tự do, phân bổ tài sản một cách tự động và hệ thống pháp luật có thể dự đoán được, đấy là những nhân tố thúc đẩy hiệu quả và tiến bộ. Chủ nghĩa tư bản cung cấp cho chúng ta chỗ nương thân khi muốn trốn tránh chính trị, khác hẳn chủ nghĩa xã hội, phải được áp đặt bằng vũ lực – tầm nhìn xã hội chủ nghĩa càng lớn thì chế độ cai trị càng chuyên chính. Nhưng chủ nghĩa tư bản đang bị các loại virus thâm nhập, đấy là giới trí thức được nó tạo ra nhưng lại chống lại nó, và các nhóm lợi ích vận động hành lang để có đặc quyền đặc lợi hợp pháp. 

Bản chất nhân từ của chủ nghĩa tư bản (The Benevolent Nature of Capitalism - 2012), do George Reisman chấp bút, giải thích lý do vì sao tự do kinh tế và tự do cá nhân là cốt lõi của hòa bình, tiến bộ và an ninh. Chủ nghĩa tư bản gia tăng nguồn cung các nguồn lực có ích, cải thiện môi trường và tạo ra năng suất cực kỳ lớn. Giá cả và lãi suất đưa các khoản đầu tư tới những nơi mà chúng có giá trị sử dụng cao nhất, mang lại lợi ích cho cả người sở hữu lẫn người không sở hữu. Chủ nghĩa tư bản là duy lý, không vô chính phủ, và dựa trên cạnh tranh – chứ không phải độc quyền. 

Chủ nghĩa tư bản và nghèo đói

 Có một số tác phẩm đồng cảm với chủ nghĩa tư bản chỉ ra cho chúng ta thấy sự lan toả của chủ nghĩa tư bản đã tạo được ảnh hưởng to lớn đến quá trình xóa đói giảm nghèo. Thiên đường trên cõi thế (Heavens on Earth - 2013) của J. P. Floru chỉ ra rằng tự do hóa kinh tế ở Chile, New Zealand, Trung Quốc và Hong Kong đã thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời giúp phát triển và lan toả của cải tới ngay cả những người nghèo nhất. Ông rút ra kết luận rằng thuế khóa, quy định và kế hoạch hóa tập trung chỉ đơn giản là kéo dài tình trạng nghèo đói. 

Tác phẩm Bảo vệ chủ nghĩa tư bản toàn cầu (In Defence of Global Capitalism - 2001) của nhà kinh tế học người Thụy Điển, Johan Norberg, là cuốn sách kinh điển về tác động tích cực của chủ nghĩa tư bản và thương mại đối với thịnh vượng, giáo dục, y tế, tuổi thọ, tỷ lệ sống ở trẻ sơ sinh và nhiều hiện tượng khác. Với đầy đủ các dữ kiện và hình vẽ, nó thể hiện sự khác biệt về thành tích giữa các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa láng giềng (ví dụ như Đài Loan và Trung Quốc, Tây và Đông Đức, Nam và Bắc Triều Tiên) nhằm chứng minh những lợi ích to lớn của toàn cầu hóa và cạnh tranh. Norberg đã cập nhật luận cứ này trong cuốn Tiến bộ: Mười lý do để hướng tới tương lai (Progress: Ten Reasons to Look Forward to the Future - 2016), phác thảo những cải thiện sau khi tự do hóa trong chất lượng thực phẩm, vệ sinh, tuổi thọ, môi trường, hòa bình, xóa nạn mù chữ, tự do và bình đẳng. 

Bí ẩn của vốn (The Mystery of Capital - 2001) của Hernando de Soto Polar chỉ ra cho chúng ta thấy chủ nghĩa tư bản và các quyền tài sản đã biến những thứ đơn giản là không có giá trị thành vốn hữu ích và có giá trị. Ông nhận xét rằng mặc dù những người nghèo ở quê hương Peru của ông tự xây dựng nhà cửa và cơ sở kinh doanh, nhưng những tài sản này không phải là “vốn” hữu ích vì người dân không có chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp đối với đất đai, cũng như tất cả các giấy phép cần thiết để có thể giao dịch. Ông khẳng định rằng những tài sản chết này có thể biến thành vốn bằng cách trao cho người dân các quyền hợp pháp – tạo điều kiện cho những người nghèo hơn có cổ phần thực sự trong nền kinh tế, để họ phát triển và thịnh vượng. 

Bàn về triết học và đạo đức 

Đạo đức của chủ nghĩa tư bản (The Morality of Capitalism - 2011), do Tom Palmer chủ biên, là một loạt bài tiểu luận do các nhà triết học, nhà văn, nhà kinh tế học và nhà tư tưởng chấp bút, trong đó có hai Khôi nguyên Nobel (Vernon Smith và Mario Varga Llosa). Họ khẳng định rằng thương mại là biện pháp chống đói nghèo tốt hơn hẳn viện trợ nước ngoài, và chủ nghĩa tư bản có tính đạo đức cao: nó được xây dựng dựa trên lòng tin chứ không phải lòng tham; nó khuyến khích đổi mới sáng tạo và tạo ra giá trị; nó làm cho người ta tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau; và nó thúc đẩy và bảo vệ các giá trị văn hóa. 

Tinh thần của chủ nghĩa tư bản dân chủ (The Spirit of Democratic Capitalism - 1982) của Michael Novak xem xét chủ nghĩa tư bản dưới góc nhìn tôn giáo và linh hồn của con người. Tác phẩm này khẳng định rằng các xã hội dân chủ, đa nguyên, tư bản chủ nghĩa tạo ra các cộng đồng quan tâm lẫn nhau thông qua các câu lạc bộ, nhà thờ, tổ chức từ thiện và các tổ chức khác của xã hội dân sự. Nhưng chúng ta sẽ đánh mất thành phần thiết yếu này trong đời sống đạo đức và sự trọn vẹn của chúng ta nếu hoạt động kinh tế và xã hội bị chính trị hóa và chính quyền chịu trách nhiệm. 

Chủ nghĩa tư bản: Lý tưởng chưa được biết tới (Capitalism: The Unknown Ideal - 1966) của Ayn Rand là một loạt bài tiểu luận đa dạng viết về nhiều chủ đề khác nhau, thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của Rand đối với chủ nghĩa tư bản triệt để. Nó chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản có nguồn gốc từ tự nhiên, từ quá trình tiến hóa và các quyền của nhân loại; khẳng định rằng chiến tranh có nguồn gốc không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ nhà nước; nó bày tỏ sự quan ngại về tình trạng các doanh nghiệp lớn bị đối xử bất công; thảo luận về các thị trường phát thanh và truyền hình; xem xét bằng sáng chế và các hình thức bản quyền; và khẳng định rằng những người ủng hộ của chủ nghĩa tư bản “theo phái bảo thủ” còn lâu mới hiểu, ủng hộ và bảo vệ các lý tưởng của nó. 

HẾT


No comments:

Post a Comment