Chương 3
Tại sao các nhà kinh tế học không biết họ đang làm gì
• Các nhà khoa học tìm những mối liên kết thống kê giữa nguyên nhân và hậu quả. Nhưng các sự kiện kinh tế lại phụ thuộc vào những lựa chọn của cá nhân. Mà lựa chọn thì không thể đoán trước được.
• Tương tự, những giá trị mà người ta coi trọng là rất đa dạng và mang tính cá nhân, do đó, không thể xử lí theo lối thống kê.
• Các nhà kinh tế học không nên tìm kiếm những mối liên kết không hề tồn tại, vì vậy, họ nên tập trung vào việc tìm hiểu cách thức người ta lựa chọn.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng các môn khoa học xã hội - ví dụ như kinh tế học - là khoa học, nhưng là những môn khoa học hoàn toàn khác với các ngành khoa học tự nhiên. Thật vậy, kinh tế học không giống bất kì môn khoa học nào mà bạn đã từng gặp.
Các nhà khoa học tự nhiên - ví dụ, các nhà hóa học hay vật lí học - tìm kiếm những mối liên kết lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng tự nhiên. Họ có thể nói rằng khi nhiệt độ gia tăng, khí sẽ nở ra. Hiện tượng đó sẽ lặp lại khi nhiệt độ gia tăng. Vì thế, họ coi đây là quy luật khoa học phổ quát - khi (và bất cứ ở đâu) tăng nhiệt độ lên thì khí sẽ nở ra. Họ dự đoán rằng hiện tượng tương tự cũng sẽ xảy ra trong tương lai. Và bằng cách đo quy mô của hiệu ứng, họ có thể tìm được một số hằng số - ví dụ, thể tích của một loại khí cụ thể nào đó sẽ tăng thêm 2% khi nhiệt độ tăng thêm 1°.
Phương pháp khoa học này cực kì hiệu quả trong việc giúp chúng ta dự đoán thế giới tự nhiên, vì vậy, hầu hết các nhà khoa học xã hội cũng đều nghĩ rằng họ nên làm như thế. Họ tin rằng phải tìm những mối liên kết và các hệ số tỉ lệ giữa các hiện tượng xã hội, như các nhà vật lí học hay hóa học làm đối với các hiện tượng tự nhiên. Ví dụ, các nhà xã hội học có thể tìm kiếm quan hệ giữa mật độ dân cư trong một thành phố và số vụ tội phạm bạo lực trên đường phố của thành phố này. Tương tự, các nhà kinh tế học có thể tìm kiếm quan hệ giữa các hiện tượng xã hội trong lĩnh vực kinh tế - ví dụ, giữa thu nhập của một quốc gia và số tiền mà nước này tiết kiệm được.
Bằng biện pháp như thế, cuối cùng, các nhà kinh tế học sẽ tìm được mối liên kết giữa những đại lượng tổng gộp trong đời sống kinh tế, trên bình diện toàn xã hội, ví dụ như thu nhập, tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng, nhập khẩu, xuất khẩu, thuế khóa của quốc gia, chi tiêu của chính phủ, việc làm và nhiều vấn đề khác - gọi là các đại lượng gộp kinh tế (economic aggregates). Và họ tìm cách xác định “các hằng số” - ví dụ, khi thu nhập của một nước tăng thêm 4% thì tổng số tiền tiết kiệm sẽ tăng thêm 1% - gọi là khuynh hướng tiết kiệm biên.
Tầm quan trọng của việc
tập trung vào cá nhân
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng cách tiếp cận này là hoàn toàn sai. Họ khẳng định rằng không bao giờ có bất kì quy luật hay hệ số tỉ lệ phổ quát nào giữa những con số thống kê vừa nói, đấy chỉ là tổng của nhiều thứ, khác nhau và thậm chí là mâu thuẫn với nhau, đang diễn ra trên thực tế mà thôi. Ví dụ, con số thống kê là chỉ số giá tiêu dùng, mà các chính phủ công bố mỗi tháng. Mục đích của nó là chỉ cho người ta thấy mức giá và mức độ thay đổi của nó. Nhưng Mises và các nhà kinh tế học Trường phái Áo khác nói rằng không có cái gọi là “mức giá”. Có hàng triệu giá cụ thể, tất cả đều thay đổi, cái này thay đổi thì cái khác cũng thay đổi theo (Ví dụ, xin nhìn vào những biến động bất thường đang diễn ra hằng ngày của giá cả trên thị trường chứng khoán). Những người khác nhau phản ứng với sự biến động của giá cả theo những cách khác nhau - giá tăng có thể thuyết phục một số người rằng đây là thời điểm cần mua, trong khi những người khác có thể nghĩ rằng đây là thời điểm cần bán và thu tiền mặt.
Vậy, hiện tượng thực sự xảy ra là hàng triệu cá nhân đang lựa chọn - dù mua hay bán, dù tăng chi tiêu hay tăng tiết kiệm, dù đấy là đầu tư để mua máy mới hay thuê thêm nhân viên thì cũng thế. Sự lựa chọn sẽ phụ thuộc vào quan điểm và hoàn cảnh của từng người, và những người khác nhau có thể quyết định hoàn toàn khác nhau. Số liệu gộp trong kinh tế chỉ đơn giản che giấu tất cả sự đa dạng vô cùng to lớn này bằng một con số thống kê duy nhất. Chúng cho chúng ta rất ít thông tin và làm cho chúng ta hiểu sai rất nhiều - và đấy là nền tảng rất không vững của “khoa học” kinh tế dòng chính.
Cái mà kinh tế học cần làm là tìm hiểu những lựa chọn của con người. Đó là, như Menger nói, khoa học về sự lựa chọn. Hành động “kinh tế” bao gồm xem xét những lựa chọn khác nhau, tìm ra những thứ chúng ta phải từ bỏ để thực hiện mỗi lựa chọn, rồi sau đó quyết định dựa trên cân nhắc về được và mất, phù hợp nhất với mục đích của chúng ta. Và đấy là lựa chọn chỉ xảy ra trên bình diện cá nhân. Tập thể - xã hội hay quốc gia hoặc chủng tộc, ví dụ thế - không có trí tuệ riêng của mình: Tập thể không có mục đích. Chỉ có những cá nhân tạo ra tập thể mới có trí tuệ và mục đích. Tập thể không hành động: Tập thể không tiết kiệm hay tiêu thụ hoặc thuê mướn người. Chỉ có các cá nhân tạo ra tập thể mới làm những việc đó. Các “lực lượng” xã hội phi cá tính không tạo ra các sự kiện kinh tế. Sự kiện kinh tế là kết quả của các quyết định kinh tế và hành động của các cá nhân.
Vì vậy, chỉ có thể hiểu được
các sự kiện kinh tế khi phân tích hành động tạo ra chúng, mà cụ thể là những lựa
chọn của các cá nhân. Joseph Schumpeter đặt cho cách tiếp cận này một tên gọi hữu
ích (mặc dù hơi lủng củng): Cá nhân phương pháp luận.
Phương pháp tiếp cận này không phải là cuộc tranh luận về bản chất của xã hội. Nó không nói “Không có cái gọi là xã hội” hay “Cái toàn thể cũng chỉ là tổng của các bộ phận của nó mà thôi”. Cũng không phải là nói về việc thích chủ nghĩa cá nhân hơn chủ nghĩa xã hội. Mà nó nói về phương pháp của khoa học kinh tế - biện pháp tốt nhất để giải thích các sự kiện kinh tế.
Tại sao các nhà kinh tế học sai
Do đó, các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi môn kinh tế vĩ mô về cơ bản là sai và làm cho người ta lầm lẫn. Thứ nhất, môn học này tìm cách cộng những hành động cá nhân chẳng liên quan gì với nhau và dự đoán kết quả, mà đấy đơn giản là công việc bất khả thi. Đó là giả khoa học. Và nỗ lực nhằm áp dụng toán học để xác định “hệ số tỉ lệ” giữa những số liệu gộp trong kinh tế cũng là giả khoa học nốt. Đó là áp dụng số học cho những thứ không thể cộng lại với nhau và cho những ảnh hưởng giả định nhưng không có thật. Vì lí do đó, các nhà kinh tế học Trường phái Áo thường tỏ ra nghi ngờ việc sử dụng toán học và kĩ thuật thống kê, nhưng đấy lại là đặc điểm của kinh tế học dòng chính.
Thứ hai, kinh tế học phải nói về quá trình tìm hiểu bản chất của sự lựa chọn, chứ không phải nói về việc tìm cách dự đoán những lựa chọn sẽ diễn ra trên thực tế. Cá nhân là những người khác nhau và phức tạp, và đa số thường không biết chính xác họ sẽ chọn cái gì cho đến khi họ thực sự đứng trước lựa chọn - bất cứ người nào đã đi qua một cửa hàng để tìm một món hàng nào đó và ra về với một món hàng khác hẳn đều sẽ đánh giá cao quan điểm này. Nhưng nếu chúng ta có thể hiểu cách thức mọi người lựa chọn thì đấy là khoa học kinh tế thực sự.
Các nhà kinh tế học dòng chính cho rằng, trên thực tế, họ có phương pháp cá nhân chủ nghĩa của mình. Họ cho rằng “các tác nhân kinh tế” (nghĩa là, các cá nhân) là những người “duy lí” và “tìm cách tối đa hóa thoả dụng” (Có nghĩa là, họ lựa chọn trên cơ sở lợi ích ròng mà họ thu được). Và mô hình về loài người như thế, trên thực tế, giải thích nhiều điều về cơ cấu và hoạt động của các thiết chế kinh tế của chúng ta.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản đối lập luận này, chính vì các cá nhân là những con người khác nhau, chúng ta không bao giờ có thể thâm nhập vào đầu mỗi người và quan sát được những ý nghĩ của riêng họ. Vì vậy, nói về các cá nhân “duy lí” và “tối đa hóa” là không đúng chỗ. Và thậm chí nếu họ có là những người duy lí và tối đa hóa thì chúng ta cũng không bao giờ dự đoán được một cách chắc chắn rằng người ta sẽ chọn cái gì.
Tuy nhiên, chúng ta có một số kiến thức sâu sắc có thể giúp giải thích quá trình ra quyết định kinh tế vì chúng ta cũng là người và chúng ta cũng có những lựa chọn, có mục đích và theo đuổi đường lối hành động phù hợp. Và quan trọng không kém hiểu biết chủ quan mang tính cá nhân này là chúng ta có thể nghiên cứu cách thức thế giới khách quan tạo ra ảnh hưởng đối với lựa chọn - ví dụ, những biện pháp mà cá nhân dùng để tìm kiếm thông tin định hình các quyết định của họ, chẳng hạn như những sự kiện nào làm cho họ tin rằng xã hội đang thiếu một loại khoáng sản cụ thể nào đó hay một sản phẩm cụ thể nào đó có thể được nhiều người mua. Điều này, một lần nữa, là lĩnh vực nghiên cứu kinh tế phù hợp hơn là môn giả khoa học trong những cuốn sách giáo khoa về kinh tế vĩ mô.
Chương 4
Vai trò quan trọng của giá trị
• Giá trị không phải là tính chất của đồ vật, tương tự kích thước hay trọng lượng của chúng. Những người khác nhau đánh giá các món hàng hoá ở những thời điểm và địa điểm khác nhau một cách khác nhau. Giá trị chỉ tồn tại trong tâm trí của những người liên quan mà thôi.
• Chúng ta không thể biết được người ta nghĩ gì, nhưng chúng ta có thể có một số ý niệm về thước đo các giá trị của họ bằng cách nhìn vào những thứ họ lựa chọn trên thực tế.
• Lựa chọn và giá trị không phải là giá trị toán học: Người bị đau đầu không cho rằng 100 viên aspirin thì giá trị gấp 50 lần 2 viên.
Phương pháp tiếp cận kinh tế học của Trường phái Áo hoàn toàn khác với phương pháp tiếp cận của khoa học tự nhiên - mặc dù các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng đấy là phương pháp rất khoa học. Nó có thể được sử dụng để dự đoán, nhưng đây là những dự đoán theo kiểu khác, chứ không như những dự đoán được đưa ra - hoặc tuyên bố - bởi các nhà khoa học tự nhiên.
Kinh tế học chắc chắn là phải khác, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, vì kinh tế học liên quan đến các cá nhân; và - khác với các vật thể vô tri vô giác mà các nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu - các cá nhân có động cơ và mục đích riêng của mình, đấy cũng là những thứ làm cho họ có sức sống. Nhà vật lí học khó mà dự đoán được rằng không khí sẽ dãn nở nếu các phân tử trong chất khí đó có cuộc sống của riêng chúng và một số phân tử bắt đầu phàn nàn về cuộc thí nghiệm, trong khi số khác lại hoan nghênh. Tương tự, thật khó dự đoán các số liệu thống kê kinh tế khi động cơ và hành động của cá nhân rất đa dạng, luôn luôn thay đổi và mâu thuẫn với nhau như ta đang thấy.
Như vậy, “sự kiện” của khoa học kinh tế không phải là những con số thống kê gộp như giá cả, đầu tư, hay tiết kiệm. Thậm chí đấy cũng không phải là kế hoạch tiết kiệm, đầu tư hay giá cả của cá nhân. Những con số này chỉ quan trọng đối với các cá nhân, và sự lựa chọn mà các cá nhân làm. Các “sự kiện” của kinh tế học không phải là đồ vật mà là cái mà người ta nghĩ và tin vào thế giới, cái mà họ kì vọng là sẽ xảy ra và cái gì là quan trọng nhất đối với họ và thúc đẩy họ hành động. Phương pháp tiếp cận này được gọi là chủ nghĩa chủ quan, bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của ý kiến cá nhân, có tính chủ quan so với những thứ khách quan có thể đo đếm được. Theo quan điểm này, kinh tế học là nói về những thứ mà người ta đánh giá cao, và những việc mà họ làm, sau khi đã đưa ra đánh giá.
Giá trị là ở trong đầu óc người ta chứ không phải trong đồ vật
Người ta rất hay nhầm lẫn về giá trị, và đã như vậy cả ngàn năm rồi. Nhiều người quan niệm rằng giá trị là các món hàng khác nhau thì có giá trị khác nhau - tức là phẩm chất có thể đo lường được, tương tự khối lượng hay trọng lượng của chúng. Nhưng giá trị không phải là một phẩm chất khách quan nằm trong chính sự vật. Giá trị nằm trong đầu óc của người chứng kiến. Cùng một đồ vật, nhưng những người khác nhau lại đánh giá khác nhau - tương tự những người mua bán trên thị trường chứng khoán, có người nghĩ rằng đó là lúc nên mua, trong khi người khác lại nghĩ rằng đó là lúc nên bán. Giá trị mà chúng ta gán cho nó một cái gì đó là vấn đề đánh giá cá nhân, cảm tính. Nó phản ánh những lợi ích mà chúng ta tin rằng cái đó sẽ mang lại cho chúng ta. Phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và tâm lí của chúng ta - chúng ta có thể đánh giá rất cao một chiếc áo ấm, khi đang có bão tuyết, nhưng khi ở trong sa mạc thì không. Và nó phụ thuộc vào việc niềm tin của chúng ta dựa trên cơ sở kiến thức vững chắc đến mức nào - chúng ta thường đánh giá một cái gì đó quá cao, nhưng lại thất vọng khi đã nắm được nó trong tay.
Những thứ chúng ta coi là có giá trị cũng thay đổi vì sản phẩm mới và quy trình được cải tiến và công nghệ thay đổi, chuyển ước muốn của chúng ta sang những thứ tốt hơn hoặc rẻ hơn. Kết quả không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được: Mises nói, sản xuất hàng loạt của một món quần áo nào đó có thể làm cho nó trở thành hấp dẫn vì hợp túi tiền đối với những khách hàng nghèo hơn, nhưng lại làm cho những người giàu, có ý thức về thời trang, bỏ loại trang phục này và đi tìm một cái gì đó độc đáo hơn.
Mặc dù kinh tế học bắt nguồn từ các giá trị của con người, nhưng nó không phải là một nhánh của tâm lí học. Nó không quan tâm tới lí do vì sao người ta đánh giá cao những thứ khác nhau - ví dụ, vì sao họ lại uống rượu - mà chỉ quan tâm tới kết quả những giá trị của những thứ mà họ lựa chọn trên thương trường - như ở nồng độ cồn cần phải có ở mỗi mức giá khác nhau. Kinh tế học phải coi đánh giá và mục đích của các cá nhân là những số liệu “cho trước” vì nó không bao giờ có thể thâm nhập được vào đầu óc của người ta. Thay vào đó, nó chú ý vào hành động của họ - những việc họ làm, như là kết quả của các đánh giá và mục đích của họ. Như Mises mô tả, kinh tế học là một phần của khoa học có tính khái quát hơn về hành vi của con người (mà ông gọi là khoca học về hành vi của con người (nhân hành học) - praxeology).
Tuy nhiên, nó khác với khoa học tự nhiên, tức là những môn khoa học bắt nguồn từ việc quan sát các sự vật và hiện tượng để đưa ra những lí thuyết có tính dự đoán và kiểm tra những lí thuyết này. Thứ nhất, chúng ta không thể quan sát đánh giá của người ta một cách chính xác vì chúng ta không thể thâm nhập vào đầu óc của họ. Thứ hai, chúng ta không thể kiểm tra các lí thuyết về những việc người ta làm, vì những hoàn cảnh chính xác như thế có thể không bao giờ lặp lại. Thế giới thay đổi liên tục và những giá trị mà người ta coi trọng cũng như động cơ của họ cũng thay đổi.
Mises gọi kết quả thực sự của tất cả những hành động và tương tác “loạn xà ngầu” này là hành vi kinh tế của con người (catallaxy), vì sợ rằng thuật ngữ thông thường “nền kinh tế” ám chỉ một cái gì đó quá cơ khí, cố ý và được kế hoạch hóa. Và việc nghiên cứu về kinh tế của những kết quả này được ông gọi là catallactics*. (catallactics - bộ môn nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, cũng tức là nghiên cứu việc hình thành giá cả từ những hoạt động trao đổi của con người - ND)
Bản chất của khoa học kinh tế
Nhưng, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng kinh tế học là môn khoa học có thể khám phá các sự kiện và thậm chí đưa ra được những dự đoán - không phải trên cơ sở quan sát, lập thuyết và kiểm nghiệm, mà thông qua diễn dịch. Hệt như hình học hay toán học là những môn học xuất phát từ một vài tiên đề đơn giản về đường thẳng hoặc con số, do đó, kinh tế học có thể được diễn dịch từ một vài tiên đề đơn giản về hành vi của con người. Chúng ta biết một số thứ về cách thức người ta chọn để làm cái này hay cái kia, vì chúng ta cũng là những con người. Và từ đó, chúng ta có thể suy ra khá nhiều kiến thức về kinh tế học. Ví dụ, chúng ta có thể phân tích các nguyên tắc của cầu hay giá cả được quyết định như thế nào, ngay cả khi chúng ta không bao giờ có thể biết vì sao những người khác nhau lại muốn mua những món hàng hóa khác nhau.
Tương tự, mặc dù chúng ta không thể biết những thứ mà một người đánh giá cao nhưng từ những lựa chọn của họ trên thực tế chúng ta có thể xây dựng được bức tranh về những đánh giá đó. Khi người ta chọn một đường lối hành động này chứ không chọn đường lối khác, chúng ta có thể có lí do để giả định rằng đó là đường lối mà họ ưa thích hơn, đường lối được họ đánh giá cao hơn. Đối với họ, những việc họ quyết định làm quan trọng hơn là những việc họ quyết định không làm. Khi quan sát người ta tiến hành một loạt lựa chọn, chúng ta có thể xây dựng được một bức tranh về các giá trị mà họ đánh giá cao thông qua những sở thích mà họ tiết lộ ra bằng hành động - đấy là cái mà Mises gọi là sở thích được bộc lộ (). Chúng ta không thể tiếp cận với những đánh giá của họ, nhưng từ những thứ mà người ta lựa chọn trên thực tế, chúng ta có thể suy ra chúng. Và đây là biện pháp mà chúng ta sử dụng để đưa ra các nguyên tắc của kinh tế học, tức là các nguyên tắc của lựa chọn.
Cách suy nghĩ như thế đã tạo điều kiện cho Carl Menger phát minh ra môn khoa học mới về giá trị và hành động, môn khoa học này có tính cách mạng và hữu ích đến mức hiện nay vẫn còn được sử dụng (và bị lạm dụng) trong những sách giáo khoa về kinh tế học dòng chính - Phân tích lợi ích biên.
Tính toán để lựa chọn
Một thứ luôn luôn làm cho các nhà kinh tế học bối rối là vì sao nước - quan trọng như thế với đời sống - lại rất rẻ, trong khi viên kim cương - không cần thiết đối với đời sống - lại quá đắt. Menger có câu trả lời. Các cá nhân không bao giờ phải lựa chọn là sở hữu toàn bộ nước trên thế giới, hay sở hữu tất cả kim cương trên thế giới. Họ chỉ đứng trước những lựa chọn là cần mỗi thứ một ít mà thôi - ví dụ, một cốc nước hay một viên kim cương. Hầu hết mọi người đã có đủ nước để thỏa mãn cơn khát của mình, và do đó họ không đánh giá cao cốc nước mà họ được nhận thêm. Nhưng, ít người tin rằng họ có đủ kim cương, vì vậy, họ sẵn sàng trả nhiều tiền để mua thêm một viên nữa. Họ không nghĩ rằng thêm một cốc nước thì sẽ được thêm nhiều lợi ích, nhưng họ tưởng tượng rằng có thêm một viên kim cương thì sẽ có nhiều cái lợi. Đó là vấn đề được gọi là lợi ích biên - lợi ích mà người ta kì vọng sẽ nhận được khi kho hàng của họ có thêm một ít hàng hóa nữa.
Tất nhiên, lựa chọn của người ta sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của mình lúc đó. Một người đang chết khát trên sa mạc có thể đánh giá rất cao một cốc nước và sẵn sàng dùng mấy viên kim cương để đổi lấy cốc nước. Một người sống ở đất nước nhiều mưa sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Lợi ích là cái lợi mà một người nào đó kì vọng món hàng nào đó sẽ mang lại cho mình, và như vậy đây là vấn đề đánh giá cá nhân tại địa điểm và thời điểm đó. Một người đang bị đau đầu có thể thích vài viên aspirin, nhưng có thêm một trăm viên nữa cũng chẳng để làm gì. Một người cần mười thanh gỗ để dựng một cái lều (trong ví dụ của Mises) có thể đổi một chiếc áo mưa lấy mười thanh gỗ trở lên, nhưng sẽ không đổi lấy chín thanh, vì không thể dựng được lều để che mưa che nắng. Lợi ích không phải là chất lượng của các đồ vật có thể xếp chồng lên nhau và so sánh như những đống gạch - như những cuốn sách giáo khoa kinh tế học dòng chính thường nói.
Đây là lí do vì sao các đường bàng quan (indifference curves) cũng làm người ta hiểu sai. Những đường cong này có mục đích là chỉ ra số hàng hóa mà người ta sẵn sàng từ bỏ để đổi lấy món hàng hóa khác. Nhưng tất cả những trao đổi như thế phụ thuộc vào tình cảm của những người liên quan chứ không phải là công thức toán học đơn giản có thể giúp vẽ thành đồ thị trơn tru - như ví dụ về gỗ và áo mưa cho thấy.
Xin lấy một gia đình nông dân với năm bao tải thóc làm ví dụ - một bao cho người ăn, một bao nuôi gia súc, một bao làm giống, một bao đem bán để mua nhu yếu phẩm, còn một bao thì để nuôi đàn vẹt cảnh. Không may là họ còn phải dùng một bao để trả nợ. Họ có giảm tất cả các khoản xuống một phần năm, như các nhà toán học đề xuất hay không? Không, họ sẽ ăn, sẽ cho gia súc ăn, sẽ làm giống và bán đúng như trước đây và để cho lũ vẹt chết đói, vì nó có giá trị biên thấp nhất đối với họ.
Lợi ích biên chính là cơ sở để người ta lựa chọn giữa những đường lối hành động khác nhau. Khi đứng trước các lựa chọn kinh tế - bỏ một cái gì đó để được một cái gì khác mà người ta đánh giá cao hơn, họ sẽ bỏ cái gì? Rõ ràng là họ bắt đầu với thứ mà họ coi là ít quan trọng nhất, tức là bỏ thứ mang lại cho họ ít lợi ích nhất, bỏ thứ có lợi ích biên thấp nhất. Họ sẽ chỉ trao đổi khi lợi ích biên của thứ mà họ nhận được lớn hơn lợi ích biên của thứ mà họ từ bỏ. Công nhận sự kiện này là chìa khóa để hiểu cách thức hoạt động của thị trường.
No comments:
Post a Comment