Phạm Nguyên Trường dịch
Trái ngược với một số tài liệu lịch sử, thuật ngữ “Việt Cộng”, tương tự như chính cuộc chiến tranh, không phải là sản phẩm phụ của sự hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam.
“Ai thắng và ai thua trong cuộc tấn công vào các thành phố trong Tết Mậu Thân?”, tháng 2 năm 1968, Walter Cronkite hỏi khán giả của mình như thế. “Việt Cộng không giành được chiến thắng bằng một cú knock-out, nhưng chúng ta cũng không làm được như thế. Các quan tòa của lịch sử có thể cho là hòa”.
Hôm nay, kỷ niệm 50 năm Tết Mậu Thân, người ta vẫn chưa thống nhất được với nhau. Thậm chí các quan tòa của lịch sử cũng chưa nắm được bản chất của quân nổi dậy “Việt Cộng” đã. Thay vào đó, hầu hết vẫn bị kẹt trong quan điểm cạnh tranh với nhau: trường phái Chính thống và trường phái Xét lại. Những lời thích giải mâu thuẫn nhau của họ về thuật ngữ “Việt Cộng” từng là biểu hiện của cuộc chiến tranh cãi hơn hơn về ý nghĩa của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhưng cũng là phương tiện để vượt qua cuộc tranh luận đã đi vào ngõ cụt này.
Chiến tranh đối với lịch sử Việt Nam
Trường phái Chính thống tương đối quen thuộc với những người đã qua khóa học đại học về chiến tranh hoặc đọc những người từng đoạt giải Pulitzer như Fire in the Lake của Frances FitzGerald hoặc A Bright Shining Lie của Neil Sheehan. Trong những năm sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, các học giả chống chiến tranh tin rằng họ có thể dùng lịch sử để phản đối điều mà họ coi là cuộc chiến sai lầm nếu không nói là vô đạo đức. Phe Chính thống nói rằng, tướng William Westmoreland không chiến đấu với Việt Cộng, mà đây là cuộc diễu hành của lịch sử: cuộc kháng chiến của Việt Nam nhằm chống lại ách chiếm đóng của người nước ngoài và chủ nghĩa dân tộc của người nông dân thể hiện trong con người Hồ Chí Minh. Bắc Việt Nam hay các nhà lãnh đạo cộng sản của họ không được trình bày một cách nổi bật trong các bài tường thuật đó, tham vọng của họ bị nhiều người Việt Nam khác phản đối thì cũng thế.
Cùng với thời gian, xuất hiện phái Xét lại. Phái này sử dụng cách hiểu khác về lịch sử Việt Nam, nhằm biện hộ cho nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Đối với nhiều người theo phái Xét lại, cuộc chiến tranh của Mỹ là sự nghiệp cao quý cao quý và chắc chắn sẽ chiến thắng, nếu William Westmoreland có năng lực hay báo chí Sài Gòn không can thiệp vào.
Tương tự như cuộc chiến tranh nói chung, nguồn gốc của từ “Việt Cộng” đã bị từng mỗi trường phái làm cho méo mó đi. Từ cuốn A Bright Shining Lie của Neil Sheehan đến cuốn American Reckoning được xuất bản trong thời gian gần đây của Christian Appy, thuật ngữ “Việt Cộng” được miêu tả như là kết quả của sự lừa dối và kiêu ngạo của người Mỹ, quyết định những tính chất dẫn tới cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Các tác giả này nói với độc giả rằng “Việt Cộng” - có nghĩa là “Cộng sản Việt Nam” – thuật ngữ có tính miệt thị, do các viên chức của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ đặt ra. Các học giả trường phái Chính thống cho rằng, bằng cách gán cho tất cả những người nổi dậy có tinh thần dân tộc chủ nghĩa danh hiệu cộng sản, Washington đã phạm sai lầm là biến cuộc xung đột của chủ nghĩa thực dân có tính khu vực thành chiến trường của Chiến tranh Lạnh. Còn những người theo phái xét lại thì cho rằng Việt Cộng là một thuật ngữ thích hợp để minh hoạ cho việc Nga, Trung Quốc và Bắc Việt Nam lãnh đạo cuộc nổi dậy.
Việt Cộng và nguồn gốc Trung Quốc của cuộc nội chiến kéo dài ở Việt Nam
Nguồn gốc của từ Việt Cộng, cũng như cuộc chiến Việt Nam không nằm trong đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, mà có xuất xứ từ những năm 1920 và 1930. Cội nguồn thực sự của nó cho ta bức tranh về cách thức người Việt Nam đã quốc tế hóa và khởi động của nội chiến của mình rất lâu trước khi quân đội Mỹ đặt chân tới đất nước này.
Để tránh nhà nước thực dân Pháp, các nhà các mạng Việt Nam thường chạy tới miền Nam Trung Quốc. Đến cuối những năm 1920, cả những người cộng sản lẫn những người dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đều tìm nơi nương tựa và huấn luyện quân sự trong nước Cộng hòa Dân quốc của Tôn Trung Sơn và Học viện Quân sự Hoàng Phố nổi tiếng. Hồ Chí Minh mới từ Liên Xô về, khá gần gũi với các nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, như Vũ Hồng Khanh. Trong một thời gian ngắn, các nhóm người Việt này hợp tác với nhau, và trong giai đoạn này, các đồng minh về ý thức hệ của họ là Đảng cộng sản Trung Quốc hợp tác với Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch.
Người Việt Nam tiếp cận được với các bản dịch chữ Hán lý thuyết chính trị châu Âu và tiếp thu những tư tưởng mới từ lân bang của mình. Thấm đẫm tinh thần dân tộc trong những năm 1920, các nhà cách mạng Việt Nam còn học được khái niệm “Hán gian”, ám chỉ “kẻ phản bội “Hán tộc”. Họ cũng học được khái niệm “Trung cộng” mà mọi người lúc đó sử dụng để chỉ “cộng sản Trung Quốc”.
Cuối thập niên 1920, quan hệ hữu hảo mong manh giữa Cộng sản và Quốc dân đảng bùng phát thành nội chiến. Những người đồng chí Việt Nam của họ chuyển sang theo phe tương ứng với mình, do đó, đã khơi mào cho cuộc nội chiến với quy mô nhỏ giữa những người Cộng sản theo đường lối Stalinist và Quốc dân đảng Việt Nam kéo dài suốt những năm 1930.
Những phe phái người Việt đối địch nhau chiến đấu nhằm giành ảnh hưởng ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, mỗi bên đều tiến hành theo dõi lẫn nhau và thỉnh thoảng lại ám sát những kẻ mà họ nghi là người phía bên kia trà trộn vào. Ngay cả nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu – hiện được coi là người anh hùng, chỉ đứng sau Hồ Chí Minh – cũng đứng về phe Quốc dân đảng trong cuộc nội chiến này. Năm 1938, Phan Bội Châu tuyên bố trên tờ Tràng An Báo: “Những người lợi dụng chủ nghĩa xã hội nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất và tiêu diệt tinh thần quốc gia của dân tộc của nhân dân ta”. Đáp lại, tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Bí thư Trương Chinh tuyên bố trên tờ Notre Voix rằng Phan Bội Châu là tên phản bội.
Trận chiến Quốc-Cộng không chỉ diễn ra gay gắt trên các cột báo, mà còn diễn ra bên trong hệ thống nhà tù thuộc địa. Một bản sao cương lĩnh 12 điểm, năm 1935, của Quốc dân đảng, mà người ta tìm được trong nhà tù ở Hà Nội, liệt kê hai mục đích đầu tiên của đảng là nâng cao nhận thức về dân tộc Việt Nam và xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ở nhà tù Côn Đảo, cuộc xung đột căng thẳng về ý thức hệ này đã dẫn đến những trận đánh nhau chết người. Trần Huy Liệu, một nhà lãnh đạo miền Bắc trong tương lai, hồi tưởng: “Gió biển mát lạnh ở Côn Đảo không thể xua tan được bầu không khí căm hờn bao quanh hòn đảo này”.
Năm 1945: Nội chiến ờ Việt Nam tái xuất hiện
Cách mạng Việt Nam bùng lên vào tháng 8 năm 1945, nhưng những căng thẳng này vẫn còn. Nhà nước cách mạng Việt Minh của Hồ Chí Minh từng có nội các thống nhất với những thành phần Stalinist của Đảng Cộng sản và các lãnh tụ Quốc dân đảng, như Vũ Hồng Khanh. Nhưng chỉ mấy tháng sau, hợp tác giữa hai đảng này chấm dứt. Các hai bên đều áp dụng lại thuật ngữ Trung Quốc “Hán gian” cho các đối tượng “Việt gian” (phản bội dân tộc Việt Nam) và quay lại với cuộc nội chiến đẫm máu, khá lâu trước khi nổ ra cuộc Chiến tranh của Pháp ở Đông Dương vào năm 1946. Các đơn vị trung thành với Võ Nguyên Giáp và các nhóm Cộng sản trong Việt Minh tấn công các đơn vị liên kết với các đảng có tinh thần dân tộc, buộc họ phải chạy sang Trung Quốc.
Khi chiến tranh giữa nhà nước Việt Minh của Hồ Chí Minh và Pháp nổ ra vào cuối năm đó, những nhóm dân tộc chủ nghĩa lưu vong thề sẽ đàm phán với Pháp. Liên kết dưới sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại – trước khi bỏ trốn, ông này từng là có vấn cho chính phủ Việt Minh – họ tuyên thệ sẽ cộng tác với Pháp để giành độc lập từng bước một, bằng biện pháp hòa bình và hợp tác.
Điều kiện hợp tác của họ bao gồm chính phủ Việt Nam không có ban lãnh đạo Stalinist đã chiếm được quyền kiểm soát nhà nước Việt Minh. Trong khi tiến hành các cuộc đàm phán kéo dài với Pháp, những tổ chức có tinh thần quốc gia này ngày càng tỏ ra lo lắng về cuộc Nội chiến ở Trung Quốc. Lực lượng cộng sản của Mao Trạch Đông đã tiến gần đến biên giới Việt Nam và sẽ giúp đỡ nhà nước Việt Minh. Các đảng có tinh thần quốc gia đã sử dụng lại thuật ngữ “Hán gian” mà họ học được trong những năm 1920 và dịch theo nghĩa đen “Trung cộng” thành tiếng Việt – “Trung” có nghĩa là “Trung Quốc” và “Cộng” có nghĩa là cộng sản. Vào những năm 1940, độc giả Việt Nam đã quen với thuật ngữ này.
Đến năm 1948, những tờ báo có tinh thần dân tộc chủ nghĩa như tờ Tiếng Goi bắt đầu nói về một thuật ngữ mới: Việt Cộng. Tiếng Gọi cảnh báo: “Nếu quân đội Việt Cộng có thể bắt tay với Trung Cộng ở biên giới Trung-Việt, thì cái gì ngăn cản được quá trình cộng sản hóa Việt Nam?” Bằng cách đó, các đảng quốc gia liên kết Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng) với các đối tác Việt Nam của họ là Việt Cộng. Nếu thuật ngữ này ban đầu có nghĩa xấu, thì nó chỉ xấu trong trường hợp liên kết người Việt Nam với Trung Quốc mà thôi. Đến lượt mình, những người dân tộc chủ nghĩa được gọi là “Việt Quốc” - nghĩa đen là “những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”.
Nhà nước phi cộng sản đối địch
Năm sau, cựu hoàng Bảo Đại và các đảng phái có tinh thần dân tộc chủ nghĩa khác đã đồng ý thành lập Quốc gia Việt Nam phi Cộng sản nằm trong liên hiệp Pháp. Trong giai đoạn sau của cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, Quốc gia Việt Nam đã kiểm soát gần một nửa dân số và các trung tâm đô thị từ Hà Nội tới Sài Gòn. Số người Việt Nam chết vì nhà nước này nhiều hơn số người Pháp chết vì đế chế của họ. Khi những người Stalinist giành được quyền lãnh đạo Việt Minh và bắt đầu chuyển nó thành nhà nước độc đảng, thực hiện cải cách ruộng đất theo đường lối của Mao Trạch Đông, Quốc gia Việt Nam ngày càng sử dụng thường xuyên từ “Việt Cộng” trong các thông tin chính thức để tố cáo ban lãnh đạo cộng sản của Việt Minh .
Hiệp định Geneva, năm 1954, chia đôi nước Việt Nam - miền Nam nằm dưới quyền Quốc gia Việt Nam, rồi đổi tên thành Việt Nam Cộng hoà hoặc miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính phủ Việt Minh hay Bắc Việt Nam. Cuối những năm 1950, các thành viên của Việt Minh và Cộng sản bắt đầu nổi dậy ở miền Nam và Bắc Việt Nam quyết định ủng hộ và lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Nam. Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, tố cáo những người nổi dậy là “Việt Cộng”. Chẳng bao lâu sau, các lực lượng đặc biệt và nhà báo Hoa Kỳ đã tới Sàigòn, và đã sử dụng thuật ngữ này để nói về các lực lượng nổi dậy trong các khu vực nông thôn miền Nam và những người ủng hộ họ ở miền Bắc.
Brett Reilly là nghiên cứu sinh ở University of Wisconsin-Madison, chuyên về lịch sử Đông Nam Á và Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Hôm nay, kỷ niệm 50 năm Tết Mậu Thân, người ta vẫn chưa thống nhất được với nhau. Thậm chí các quan tòa của lịch sử cũng chưa nắm được bản chất của quân nổi dậy “Việt Cộng” đã. Thay vào đó, hầu hết vẫn bị kẹt trong quan điểm cạnh tranh với nhau: trường phái Chính thống và trường phái Xét lại. Những lời thích giải mâu thuẫn nhau của họ về thuật ngữ “Việt Cộng” từng là biểu hiện của cuộc chiến tranh cãi hơn hơn về ý nghĩa của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhưng cũng là phương tiện để vượt qua cuộc tranh luận đã đi vào ngõ cụt này.
Chiến tranh đối với lịch sử Việt Nam
Trường phái Chính thống tương đối quen thuộc với những người đã qua khóa học đại học về chiến tranh hoặc đọc những người từng đoạt giải Pulitzer như Fire in the Lake của Frances FitzGerald hoặc A Bright Shining Lie của Neil Sheehan. Trong những năm sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, các học giả chống chiến tranh tin rằng họ có thể dùng lịch sử để phản đối điều mà họ coi là cuộc chiến sai lầm nếu không nói là vô đạo đức. Phe Chính thống nói rằng, tướng William Westmoreland không chiến đấu với Việt Cộng, mà đây là cuộc diễu hành của lịch sử: cuộc kháng chiến của Việt Nam nhằm chống lại ách chiếm đóng của người nước ngoài và chủ nghĩa dân tộc của người nông dân thể hiện trong con người Hồ Chí Minh. Bắc Việt Nam hay các nhà lãnh đạo cộng sản của họ không được trình bày một cách nổi bật trong các bài tường thuật đó, tham vọng của họ bị nhiều người Việt Nam khác phản đối thì cũng thế.
Cùng với thời gian, xuất hiện phái Xét lại. Phái này sử dụng cách hiểu khác về lịch sử Việt Nam, nhằm biện hộ cho nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Đối với nhiều người theo phái Xét lại, cuộc chiến tranh của Mỹ là sự nghiệp cao quý cao quý và chắc chắn sẽ chiến thắng, nếu William Westmoreland có năng lực hay báo chí Sài Gòn không can thiệp vào.
Tương tự như cuộc chiến tranh nói chung, nguồn gốc của từ “Việt Cộng” đã bị từng mỗi trường phái làm cho méo mó đi. Từ cuốn A Bright Shining Lie của Neil Sheehan đến cuốn American Reckoning được xuất bản trong thời gian gần đây của Christian Appy, thuật ngữ “Việt Cộng” được miêu tả như là kết quả của sự lừa dối và kiêu ngạo của người Mỹ, quyết định những tính chất dẫn tới cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Các tác giả này nói với độc giả rằng “Việt Cộng” - có nghĩa là “Cộng sản Việt Nam” – thuật ngữ có tính miệt thị, do các viên chức của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ đặt ra. Các học giả trường phái Chính thống cho rằng, bằng cách gán cho tất cả những người nổi dậy có tinh thần dân tộc chủ nghĩa danh hiệu cộng sản, Washington đã phạm sai lầm là biến cuộc xung đột của chủ nghĩa thực dân có tính khu vực thành chiến trường của Chiến tranh Lạnh. Còn những người theo phái xét lại thì cho rằng Việt Cộng là một thuật ngữ thích hợp để minh hoạ cho việc Nga, Trung Quốc và Bắc Việt Nam lãnh đạo cuộc nổi dậy.
Việt Cộng và nguồn gốc Trung Quốc của cuộc nội chiến kéo dài ở Việt Nam
Nguồn gốc của từ Việt Cộng, cũng như cuộc chiến Việt Nam không nằm trong đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, mà có xuất xứ từ những năm 1920 và 1930. Cội nguồn thực sự của nó cho ta bức tranh về cách thức người Việt Nam đã quốc tế hóa và khởi động của nội chiến của mình rất lâu trước khi quân đội Mỹ đặt chân tới đất nước này.
Để tránh nhà nước thực dân Pháp, các nhà các mạng Việt Nam thường chạy tới miền Nam Trung Quốc. Đến cuối những năm 1920, cả những người cộng sản lẫn những người dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đều tìm nơi nương tựa và huấn luyện quân sự trong nước Cộng hòa Dân quốc của Tôn Trung Sơn và Học viện Quân sự Hoàng Phố nổi tiếng. Hồ Chí Minh mới từ Liên Xô về, khá gần gũi với các nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, như Vũ Hồng Khanh. Trong một thời gian ngắn, các nhóm người Việt này hợp tác với nhau, và trong giai đoạn này, các đồng minh về ý thức hệ của họ là Đảng cộng sản Trung Quốc hợp tác với Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch.
Người Việt Nam tiếp cận được với các bản dịch chữ Hán lý thuyết chính trị châu Âu và tiếp thu những tư tưởng mới từ lân bang của mình. Thấm đẫm tinh thần dân tộc trong những năm 1920, các nhà cách mạng Việt Nam còn học được khái niệm “Hán gian”, ám chỉ “kẻ phản bội “Hán tộc”. Họ cũng học được khái niệm “Trung cộng” mà mọi người lúc đó sử dụng để chỉ “cộng sản Trung Quốc”.
Cuối thập niên 1920, quan hệ hữu hảo mong manh giữa Cộng sản và Quốc dân đảng bùng phát thành nội chiến. Những người đồng chí Việt Nam của họ chuyển sang theo phe tương ứng với mình, do đó, đã khơi mào cho cuộc nội chiến với quy mô nhỏ giữa những người Cộng sản theo đường lối Stalinist và Quốc dân đảng Việt Nam kéo dài suốt những năm 1930.
Những phe phái người Việt đối địch nhau chiến đấu nhằm giành ảnh hưởng ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, mỗi bên đều tiến hành theo dõi lẫn nhau và thỉnh thoảng lại ám sát những kẻ mà họ nghi là người phía bên kia trà trộn vào. Ngay cả nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu – hiện được coi là người anh hùng, chỉ đứng sau Hồ Chí Minh – cũng đứng về phe Quốc dân đảng trong cuộc nội chiến này. Năm 1938, Phan Bội Châu tuyên bố trên tờ Tràng An Báo: “Những người lợi dụng chủ nghĩa xã hội nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất và tiêu diệt tinh thần quốc gia của dân tộc của nhân dân ta”. Đáp lại, tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Bí thư Trương Chinh tuyên bố trên tờ Notre Voix rằng Phan Bội Châu là tên phản bội.
Trận chiến Quốc-Cộng không chỉ diễn ra gay gắt trên các cột báo, mà còn diễn ra bên trong hệ thống nhà tù thuộc địa. Một bản sao cương lĩnh 12 điểm, năm 1935, của Quốc dân đảng, mà người ta tìm được trong nhà tù ở Hà Nội, liệt kê hai mục đích đầu tiên của đảng là nâng cao nhận thức về dân tộc Việt Nam và xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ở nhà tù Côn Đảo, cuộc xung đột căng thẳng về ý thức hệ này đã dẫn đến những trận đánh nhau chết người. Trần Huy Liệu, một nhà lãnh đạo miền Bắc trong tương lai, hồi tưởng: “Gió biển mát lạnh ở Côn Đảo không thể xua tan được bầu không khí căm hờn bao quanh hòn đảo này”.
Năm 1945: Nội chiến ờ Việt Nam tái xuất hiện
Cách mạng Việt Nam bùng lên vào tháng 8 năm 1945, nhưng những căng thẳng này vẫn còn. Nhà nước cách mạng Việt Minh của Hồ Chí Minh từng có nội các thống nhất với những thành phần Stalinist của Đảng Cộng sản và các lãnh tụ Quốc dân đảng, như Vũ Hồng Khanh. Nhưng chỉ mấy tháng sau, hợp tác giữa hai đảng này chấm dứt. Các hai bên đều áp dụng lại thuật ngữ Trung Quốc “Hán gian” cho các đối tượng “Việt gian” (phản bội dân tộc Việt Nam) và quay lại với cuộc nội chiến đẫm máu, khá lâu trước khi nổ ra cuộc Chiến tranh của Pháp ở Đông Dương vào năm 1946. Các đơn vị trung thành với Võ Nguyên Giáp và các nhóm Cộng sản trong Việt Minh tấn công các đơn vị liên kết với các đảng có tinh thần dân tộc, buộc họ phải chạy sang Trung Quốc.
Khi chiến tranh giữa nhà nước Việt Minh của Hồ Chí Minh và Pháp nổ ra vào cuối năm đó, những nhóm dân tộc chủ nghĩa lưu vong thề sẽ đàm phán với Pháp. Liên kết dưới sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại – trước khi bỏ trốn, ông này từng là có vấn cho chính phủ Việt Minh – họ tuyên thệ sẽ cộng tác với Pháp để giành độc lập từng bước một, bằng biện pháp hòa bình và hợp tác.
Điều kiện hợp tác của họ bao gồm chính phủ Việt Nam không có ban lãnh đạo Stalinist đã chiếm được quyền kiểm soát nhà nước Việt Minh. Trong khi tiến hành các cuộc đàm phán kéo dài với Pháp, những tổ chức có tinh thần quốc gia này ngày càng tỏ ra lo lắng về cuộc Nội chiến ở Trung Quốc. Lực lượng cộng sản của Mao Trạch Đông đã tiến gần đến biên giới Việt Nam và sẽ giúp đỡ nhà nước Việt Minh. Các đảng có tinh thần quốc gia đã sử dụng lại thuật ngữ “Hán gian” mà họ học được trong những năm 1920 và dịch theo nghĩa đen “Trung cộng” thành tiếng Việt – “Trung” có nghĩa là “Trung Quốc” và “Cộng” có nghĩa là cộng sản. Vào những năm 1940, độc giả Việt Nam đã quen với thuật ngữ này.
Đến năm 1948, những tờ báo có tinh thần dân tộc chủ nghĩa như tờ Tiếng Goi bắt đầu nói về một thuật ngữ mới: Việt Cộng. Tiếng Gọi cảnh báo: “Nếu quân đội Việt Cộng có thể bắt tay với Trung Cộng ở biên giới Trung-Việt, thì cái gì ngăn cản được quá trình cộng sản hóa Việt Nam?” Bằng cách đó, các đảng quốc gia liên kết Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng) với các đối tác Việt Nam của họ là Việt Cộng. Nếu thuật ngữ này ban đầu có nghĩa xấu, thì nó chỉ xấu trong trường hợp liên kết người Việt Nam với Trung Quốc mà thôi. Đến lượt mình, những người dân tộc chủ nghĩa được gọi là “Việt Quốc” - nghĩa đen là “những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”.
Nhà nước phi cộng sản đối địch
Năm sau, cựu hoàng Bảo Đại và các đảng phái có tinh thần dân tộc chủ nghĩa khác đã đồng ý thành lập Quốc gia Việt Nam phi Cộng sản nằm trong liên hiệp Pháp. Trong giai đoạn sau của cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, Quốc gia Việt Nam đã kiểm soát gần một nửa dân số và các trung tâm đô thị từ Hà Nội tới Sài Gòn. Số người Việt Nam chết vì nhà nước này nhiều hơn số người Pháp chết vì đế chế của họ. Khi những người Stalinist giành được quyền lãnh đạo Việt Minh và bắt đầu chuyển nó thành nhà nước độc đảng, thực hiện cải cách ruộng đất theo đường lối của Mao Trạch Đông, Quốc gia Việt Nam ngày càng sử dụng thường xuyên từ “Việt Cộng” trong các thông tin chính thức để tố cáo ban lãnh đạo cộng sản của Việt Minh .
Hiệp định Geneva, năm 1954, chia đôi nước Việt Nam - miền Nam nằm dưới quyền Quốc gia Việt Nam, rồi đổi tên thành Việt Nam Cộng hoà hoặc miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính phủ Việt Minh hay Bắc Việt Nam. Cuối những năm 1950, các thành viên của Việt Minh và Cộng sản bắt đầu nổi dậy ở miền Nam và Bắc Việt Nam quyết định ủng hộ và lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Nam. Nam Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, tố cáo những người nổi dậy là “Việt Cộng”. Chẳng bao lâu sau, các lực lượng đặc biệt và nhà báo Hoa Kỳ đã tới Sàigòn, và đã sử dụng thuật ngữ này để nói về các lực lượng nổi dậy trong các khu vực nông thôn miền Nam và những người ủng hộ họ ở miền Bắc.
Brett Reilly là nghiên cứu sinh ở University of Wisconsin-Madison, chuyên về lịch sử Đông Nam Á và Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Đã đăng trên Dân Luận
https://thediplomat.com/2018/01/the-true-origin-of-the-term-viet-cong/
No comments:
Post a Comment