Lâm Duyên dịch
Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.
Từng có tổng kết cho rằng lịch sử Trung Quốc có “mười định luật lớn”, bao gồm: đũa ngà voi, thỏ chết chó hầm, bao vây xu nịnh, dè chừng kẻ thù, kéo kết bè đảng, Hoàng Tôn, xử trảm năm đời, quyền lớn hiếp chủ, da lông, chính quyền từ báng súng [1]; những định luật này không sai, nhưng tôi cảm thấy chưa đủ, ít nhất cần thêm vào một định luật: “Định luật trên dưới cùng ngu”.
Cái gọi là “Định luật trên dưới cùng ngu”, là chỉ trong xã hội chuyên chế, kẻ thống trị thực hành chính sách ngu dân; có “chính sách ngu dân” tất sẽ xuất hiện “đối sách ngu quân” trong triều đình và dân chúng. Đây gọi là “trên dưới cùng ngu”. Hệ quả của “trên dưới cùng ngu” là trên có hôn quân, dưới có ngu dân, xấu thắng tốt thua, luân lý hao mất, xã hội đen tối, giả dối lên ngôi, hủ bại lạc hậu, hèn hạ bạc nhược.
“Chính sách ngu dân” của kẻ thống trị tự cho mình thông minh
Có hiện tượng kỳ quái trong lịch sử [TQ], đó là có một số phần tử trí thức không cầm quyền, không phải thành viên lớp hạt nhân chuyên chế, nhưng lại nhiệt thành bỏ hết tinh lực giúp kẻ thống trị bày vẽ mưu kế. Từ khá sớm, vị chuyên gia đã vô tư dâng hiến tuyệt chiêu “chính sách ngu dân” phải kể là Lão Tử Lý Đam. Ông ấy nói: “Ngày trước, kẻ khéo hành đạo thì không cho dân sáng suốt, phải làm cho họ ngu muội. Khó trị được dân khi họ có nhiều trí tuệ” [2], “Trí tuệ của thánh nhân [là làm cho dân]: Lòng rỗng, bụng no, chí hèn, xương cứng, làm cho dân không biết không ham” [3]. Khổng Tử thánh nhân cũng theo chủ trương này, ông ấy nói: “Muốn sai bảo dân, không để cho họ hiểu biết” [4]. Hậu thế “vì nể người hiền”, cho rằng lời của Lão Tử và Khổng Tử cần có cách giải thích khác, ví như giải thích “trí, 智” mà Lão Tử nói có nghĩa là “xảo trá”, còn “ngu, 愚” là “chất phác”; làm mới lại lời của Khổng Tử… kỳ thực chỉ là trò chơi chữ mà thôi.
Theo quan điểm của Lão Tử, khó quản dân khi dân hiểu biết. Nhà chính trị cao minh không nên để cho dân có hiểu biết, cần làm cho dân ngu xuẩn. Nếu mọi người dân đều đần độn, nhận thức kém và không có dục vọng, như vậy thiên hạ sẽ ổn định.
Lý luận thường lạc hậu so với thực tiễn. Thực tế, từ khi Lão Tử còn chưa ra đời, các vua nhà Tây Chu đã biết thực hiện “chính sách ngu dân”. Nhiều người quá quen câu chuyện Chu Lệ Vương (890 Tr.CN – 828 Tr.CN) “dẹp lời bài báng”. Khi đó, để ngăn chặn dân chúng tranh luận việc triều chính, Chu Lệ Vương thực hiện chính sách chính trị hà khắc, nhân dân không còn bất cứ tự do ngôn luận nào, đến cả việc chào hỏi khi gặp nhau trên đường cũng không dám, chỉ có thể dùng ánh mắt ra hiệu. Khi mọi người im lặng, Chu Lệ Vương tự cho rằng thiên hạ ổn định, dương dương tự đắc khoe khoang với đại thần Thiệu Công. Nhưng không bao lâu sau thì xảy ra bạo loạn khắp nước, Chu Lệ Vương bị lưu đày.
Trong lịch sử Trung Quốc, vị hoàng đế chính thức đẩy mạnh chính sách ngu dân là Tần Thủy Hoàng (259 Tr.CN – 210 Tr.CN) với chính sách tàn bạo “diệt trăm nhà”. Về sau, các hoàng đế và triều đại đều xem chính sách ngu dân là phép màu của sức mạnh chính trị. Có ba cách thực hiện chính sách này:
Một là áp chế dư luận, phong tỏa thông tin, đàn áp văn nhân, thiêu hủy sách vở. Như Tần Thủy Hoàng và Lý Tư “đốt sách chôn nho” chính là cách phong tỏa thông tin, kiềm chế tư tưởng, biến mọi người thành người điếc, người mù; chúng còn đẩy mạnh chính trị KB [5], tước đoạt quyền tự do ngôn luận của nhân dân, biến mọi người thành như người câm. Nhân dân có mắt không được thấy, có tai không được nghe, có miệng không dám nói, biến thành người mù, điếc, câm, như thế kẻ độc tài có thể tùy tiện tự tung tự tác. Tù ngục tắm máu chữ nghĩa trong lịch sử Trung Quốc càng ngày càng tàn khốc, như phong trào kiểm duyệt thư tịch phạm húy trên quy mô rộng của triều đình nhà Thanh là một dẫn chứng kinh điển của “chính sách ngu dân”.
Hai là gạt bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia; cấm cản hết thảy tự do tư tưởng, ngôn luận. Ngoài bạo lực khủng bố, kẻ thống trị còn tìm đến thứ lý luận có lợi mà vô hại đối với kẻ thống trị chuyên chế, xem đó là tư tưởng chỉ đạo để thuần hóa nhân dân. Đề xuất chủ ý này là một bậc thầy và chuyên gia, tên là Đổng Trọng Thư (179 Tr.CN – 104 Tr.CN). Ông ta chủ trương dùng học thuyết Nho gia làm tư tưởng cầm quyền nhằm “giáo hóa” nhân dân. Trong sớ dâng Hán Võ Đế (156 Tr.CN – 87 Tr.CN), ông ấy ghi: “Kẻ không học Lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân, Thu), tư tưởng của Khổng Tử, phải cắt đường thăng tiến, chớ nên tuyển chọn” (Chư bất tại lục nghệ chi khoa Khổng Tử chi thuật giả, tất tuyệt kỳ đạo, vật sử tính tiến). Từ đây, Hán Võ Đế “loại bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia”. Tư tưởng này gây ra nền chính trị tàn bạo, làm cho người Trung Quốc bị mất năng lực sáng tạo và tư duy độc lập về các phương diện văn hóa và khoa học, sau này xã hội Trung Quốc không còn xuất hiện trường hợp như “trăm nhà đua tiếng” nữa.
Ba là tự thần thánh hóa bản thân, mượn danh lừa đời, đặt chuyện hoang đường, tô vẽ cảnh thái bình. Những kẻ độc tài muốn chứng minh bản thân “phụng mệnh Trời”, “duy ngã độc tôn”, “Trời trao anh minh”, “Trời trao năng lực phi phàm”, tự tạo dựng thần thoại dối trá, nào là khi Thái hậu mang thai “giao long quấn lấy”, “mơ Mặt trời nhập thai”; nào là khi Hoàng đế chào đời “gian phòng tỏa hào quang”, “ngoài sân mây tía”… chứng minh Hoàng đế khác người phàm, là “con Trời”, là thánh nhân siêu phàm, được thần thánh trao ngôi báu, có quyền ban quan tước, “khắp gầm trời đâu cũng là đất của vua, người sống trên đó đều là thần dân của vua”. Phàm những lời vua nói đều là lời vàng ngọc, một câu trên cả vạn câu; phàm việc vua làm toàn là vĩ đại anh minh, mãi mãi không có sai lầm. Đồng thời, những kẻ thống trị còn không ngừng tạo dựng những tấm gương giả tạo, bài học giả tạo cho toàn dân học tập, dùng lời hoang đường mê hoặc dân chúng, dùng lời suông trị nước, tô vẽ cảnh thái bình, lừa mình lừa người.
Tóm lại, tinh túy của “chính sách ngu dân” là nhờ vào che giấu, lừa lọc và khủng bố, biến nhân dân thành khờ khạo và ngớ ngẩn. Như thế, kẻ thống trị được hiện thân như vị anh hùng vĩ đại, nhằm củng cố quyền thống trị chuyên chế.
“Đối sách ngu quân” làm kẻ độc tài thành đần độn
Tục ngữ có câu: “Trên có chính sách, dưới có đối sách.” Ở trên thực hiện “chính sách ngu dân”, ở dưới tự nhiên có “đối sách ngu quân”.
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tiên sinh từng kể câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ”, tổng kết rằng: “Vì hoàng đế và đại thần có ‘chính sách ngu dân’, bách tính cũng tự có ‘đối sách ngu quân’.” Nói phương pháp mà bách tính lừa hoàng đế là “chính sách” thì không chuẩn xác. Câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ” chưa hẳn có thật, nhưng lại phản ánh trí tuệ mà bách tính dùng để lừa gạt hoàng đế, một câu chuyện rất điển hình.
Trong sách “Hàn Phi Tử” cũng ghi chép lại câu chuyện ngu quân. Tề Tuyên Vương (trị vì 342 Tr.CN-323 Tr.CN) rất thích bắn cung, có thể kéo được cây cung tam thạch. Những kẻ xu nịnh bên cạnh Tề Tuyên Vương khi kéo thử đều giả bộ gắng hết sức nhưng không thể kéo nổi, nói rằng cây cung này có đến cửu thạch. Tề Tuyên Vương nghe thế thì đắc ý, tưởng rằng bản thân là đại lực sĩ, “thứ chưa đến tam thạch, nhưng cả đời tưởng rằng mình có sức kéo cung cửu thạch.” [6]
Loại “ngu quân” tâng bốc này rất phổ biến. Đặc biệt là khi biết cấp trên có hứng thú, sở trường đối với một vấn đề nào đó, cấp dưới sẽ tìm mọi cách dùng nó vào mục đích nịnh hót. Vậy là cái tôi của kẻ độc tài càng lúc càng được bay bổng, dần dần không còn năng lực phán đoán và tư duy chính xác, ngày càng ngu muội. Như câu chuyện thiếu nhi “Áo mới của Hoàng đế” có kể, rõ ràng Hoàng đế đang cởi truồng, nhưng vì những lời xu nịnh của các đại thần mà tưởng rằng mình đang mặc bộ đồ đẹp nhất thế gian. Thậm chí, khi kẻ độc tài nói lời vô nghĩa, kẻ xu nịnh cũng nói rằng “lời vàng thước ngọc”, “nhận định sáng suốt”, cùng tổ chức học theo triệt để, toàn diện. Khắp cả nước đều nhất loạt lấy làm gương để học tập. Thôn lừa xã, xã lừa huyện, cứ thế bên dưới lừa bên trên, lừa lên đến cung điện. Loại hôn quân này chỉ thích được tâng bốc, tưởng đâu thế là vô hại, thực tế nó như thuốc độc mãn tính, làm cho cấp trên ngày càng ngu đần, cởi chuồng chạy khắp nơi đến chết vẫn không nhận ra.
Một cách “ngu quân” nữa là che giấu, lừa dối. Hoàng đế Càn Long (1711 – 1799) có thể xem là vị vua thông minh trong các triều đại, một lần ông ấy hỏi đại học sĩ Uông Do Đội (1692-1758): “Trời chưa sáng mà ông đã thượng triều, đã dùng bữa ở nhà chưa?” Uông Do Đội đáp: “Nhà thần nghèo, bữa sáng chỉ dùng bốn trứng gà.” Càn Long giật mình, nói: “Một trứng gà giá 12 lượng bạc, bốn trứng là 40 lượng. Trẫm không dám xa xỉ như thế, sao khanh có thể nói nhà mình nghèo?” Uông Do Đội bị dọa chỉ biết nói úp mở, ậm ờ cho qua. Nhưng câu chuyện không phải duy nhất. Vốn là mỗi ngày Hoàng đế Quang Tự (1871 – 1908) ăn bốn trứng gà, trong sổ ở ngự thiện phòng ghi lại chi phí là 34 lạng bạc, như vậy giá mỗi trứng gà hơn 8 lạng bạc. Một lần ông ta hỏi thầy dạy mình là Ông Đồng Hòa (翁同龢, 1830 – 1904): “Thứ quý giá này thầy đã dùng chưa?” Ông Đồng Hòa nghe hỏi thì biết thái giám giở trò, nhưng nghĩ nếu nói thật thì đắc tội với các thái giám, bèn đáp: “Thứ quý này, khi thờ cúng vào ngày lễ lớn thì thần thỉnh thoảng mới dùng một chút, bình thường không dùng đến.” Có lẽ các Hoàng đế triều Thanh đều cho rằng trứng gà là đồ ăn quý giá!
Trường hợp nhiều hơn là cấp dưới buộc phải lừa cấp trên, không dám nói sự thật cho cấp trên. Thích nghe lời ngọt là thiên tính của con người. Đặc biệt là kẻ độc tài, ngày ngày bị bọn xu nịnh vây quanh, luôn tưởng rằng mình thông minh biết nhiều, anh minh uy phong. Quen nghe lời xu nịnh, họ không còn nghe được lời không vừa ý nhưng chân thật. Dẫn chứng có vô số trong lịch sử. Vì mọi người đều học cách ngoan ngoãn nghe lời, cấp trên thích nghe gì thì nói vậy. Đây gọi là “bị ép ngu quân”. Như Tần Nhị Thế (229 Tr.CN – 207 Tr.CN) rơi vào nghiện ngập trụy lạc, bị Thừa tướng Triệu Cao (258 Tr.CN – 207 Tr.CN) giấu giếm thông tin. Tần Nhị Thế lờ mờ biết nghĩa quân nổi dậy nhiều như ong, thiên hạ đại loạn, nhưng khi hỏi Triệu Cao, Triệu Cao chỉ thưa: “Chẳng qua là vài tên giặc cỏ, không làm nên trò trống gì.” Bỏ mặc Tần Nhị Thế an tâm hưởng lạc trong cung điện. Cho đến khi Triệu Cao phái con rể vào cung giết Tần Nhị Thế, lúc này Tần Nhị Thế mới vỡ ra, liền trách mắng tên thái giám bên cạnh: “Tại sao ngươi không sớm nói cho ta sự thật?” Thái giám nói: “Tiện nhân không dám nói. Nếu nói sự thật thì sớm đã bị ngài giết chết rồi, sao có thể sống đến giờ?” Câu chuyện về Tùy Dạng Đế cũng có thể xem là điển hình. Ông ta thích nghe lời ngon ngọt, vì thế quần thần chỉ dám báo chuyện vui không dám báo chuyện buồn. Có cung nữ báo lại rằng, bên ngoài có người tạo phản. Tùy Dạng Đế lại cho rằng cô cung nữ có mưu đồ mê hoặc làm loạn, bèn mang giết đi. Vậy là không còn ai dám nói lời thật trước mặt ông ta. Khi thiên hạ đại loạn, ông ta bị khốn trong cung Dương Châu, nhưng vẫn không ai dám nói thật cho ông ta. Điều lạ là, bên ngoài cung, các tướng lĩnh ngự lâm quân cứ điềm nhiên mở hội bàn việc phản loạn mà không phải lo lắng có ai vào cung mật báo; trong cung, các cung nữ đều biết tình thế bên ngoài đã đến mức không thể dẹp nổi, nhưng không một ai dám nói sự thật cho Tùy Dạng Đế. Vậy là chỉ còn mình ông ta chìm trong u mê.
Trên dưới làm nhau cùng ngu
Trong lịch sử, bất kể “chính sách ngu dân” hay “đối sách ngu quân” đều có được “thành công” nhất định. Loại “thành công” này quả là nỗi đau xót của nước, nỗi xót xa của dân.
Lỗ Tấn tiên sinh từng nói: “Xảy ra ngu dân là hệ quả của chính sách ngu dân.” “Chính sách ngu dân” sinh ra ra hàng loạt dân ngu, họ không thể biết được sự thật, trong tình trạng thông tin không có ứng đối, ngày ngày chỉ nghe được những lời dối trá, lời nói dối lặp đi lặp lại mãi được xem thành sự thật. Sự xuất hiện của vô số dân ngu, ở mức độ nhất định giúp gia cố quyền lực của kẻ thống trị độc tài, nhưng đồng thời lại làm cho toàn xã hội bao phủ trong không khí giả dối, bạo ngược, ngu muội, bạo lực, dễ tạo thành thảm họa mang tính toàn quốc.
Cuối đời nhà Thanh, do ảnh hưởng của chính sách bài ngoại mù quáng của triều đình nhà Thanh, các dân ngu thành lập Nghĩa Hòa Đoàn, mê tín vào công phu Trung Quốc, cho là vũ khí [nước ngoài] không làm gì được, rêu rao giúp Thanh diệt ngoại bang, ngăn chặn văn minh bên ngoài. Điều này cũng tương tự cảnh người dân Iraq thề bảo vệ Saddam Hussein, quyết chiến đến cùng với quân Anh và Mỹ. Từ Hy Thái Hậu (1835 – 1908) cũng bị dân ngu lừa gạt, cứ thế tin theo, ngang tàng tuyên chiến với 11 nước mạnh nhất thế giới, mong ngóng Nghĩa Hòa Đoàn diệt ngoại bang, trừ đại nạn. Nhưng rồi chỉ cần tám nước liên kết tổ chức đội quân có 20.000 người, đổ bộ lên từ Thiên Tân, không bao lâu đã đánh đến Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu và Hoàng đế Quang Tự phải tháo chạy. Đây gọi là “quốc nạn Canh Tý” nhục nhã trong lịch sử Trung Quốc. Quân nhà Thanh cùng hàng trăm ngàn người của Nghĩa Hòa Đoàn đầy hào hùng oai khí nhưng hoàn toàn bất lực, câu chuyện không khác gì cảnh cuộc chiến ở Iraq khi liên quân Anh Mỹ tiến thẳng vào Baghdad.
Từ Hy Thái Hậu chạy thoát thân sang phương Tây mới hiểu rằng đã bị Nghĩa Hòa Đoàn làm cho u mê; khi Saddam bị lính Mỹ lôi ra khỏi hầm, có lẽ mới nhận ra bản thân đã bị người dân của ông ta làm cho mụ mị.
Nhưng khi kẻ độc tài nắm đại quyền trong tay, chỉ vui thích khi hắn thực hiện “chính sách ngu dân” thành công, không nhận ra được rằng chính bản thân cũng bị nhân dân làm cho ngu muội. Trên chỉ thích ca ngợi thái bình, thích lời “khen ngợi” rỗng tuếch, “lòng người như một”, thế là bên dưới cứ thế mà theo, tạo cảnh bình an giả tạo, báo cáo thành tích giả dối. Cấp trên nghĩ ra một chủ ý vụng về, cấp dưới hoan hô sáng suốt như thần thánh, chuyện gì cũng chỉ biết tán đồng.
Tháng Giêng năm 610, Tùy Dạng Đế (569 – 618) không màng đến hoàn cảnh, vì muốn chứng tỏ đất nước hùng cường nên bất ngờ đưa ra ý tưởng kỳ lạ, cho mở hội rầm rộ tại Lạc Dương: Biểu diễn tạp kỹ (xiếc, nhào lộn) long trọng, “thâu đêm suốt sáng, khắp nơi đèn đuốc rực sáng đến tận cuối tháng, tốn kém kinh phí vô kể.” Nhiều nhà buôn các nước Tây Vực cảm thấy kỳ lạ, ở Lạc Dương họ dùng bữa không tốn tiền, nơi ở được miễn phí. Các ông chủ khách điếm thì tự hào nói với người nước ngoài: “Trung Quốc giàu có, tiệc rượu có gì đáng bàn.” Người nước ngoài khi thấy cảnh lụa là quấn quanh những cây đại thụ trên đường phố Lạc Dương, trong khi bên đường có nhiều dân nghèo khổ, họ bèn hỏi thị dân Lạc Dương: “Trung Quốc còn có người nghèo, áo mặc rách rưới, sao có thể dùng thứ này quấn cho cây?” Người được hỏi ngượng ngùng không thể trả lời. Tùy Dạng Đế vốn muốn làm công trình này để thể hiện hình ảnh thời đại rực rỡ, “khắp nơi hướng về”, không ngờ lại thành trò hề, để lại trò cười cho hậu thế.
Nhà văn Václav Havel, là cựu Tổng thống Cộng hòa Séc (Czech Republic – DCVOnline), khi bàn về thời hậu toàn trị [7] đã chỉ ra, trò ngụy trang, biểu diễn và trang trí màu mè, giả tạo là đặc điểm cốt lõi của xã hội toàn trị. Cuộc sống trong thời đại toàn trị là sống trong không khí giả dối, mọi người muốn sống phải giả dối, phải chấp nhận làm bạn với giả dối.
Thực tế, ở thời hậu toàn trị, chế độ chuyên chế làm toàn xã hội cùng ngu, từ trên xuống dưới, dối trá trở thành dầu bôi trơn duy trì hoạt động của xã hội toàn trị. Kẻ thống trị độc tài xa rời dối trá thì không thể duy trì được quyền lực; quốc dân không dối trá thì khó bề tồn tại. Trên dưới cùng ngu làm xã hội Trung Quốc chìm trong bể che giấu và lừa bịp, không thể tự thoát khỏi.
Khác biệt giữa thời toàn trị và hậu toàn trị là, trong thời toàn trị, “chính sách ngu dân” của kẻ độc tài tạo ra hàng loạt dân ngu, còn “đối sách ngu quân” của các thần dân lại làm cho kẻ độc tài sống trong u tối, trở thành hôn quân. Trên dưới cùng ngu, không ai được thức tỉnh. Còn ở thời hậu toàn trị, đa số mọi người đã nhận thức rõ chiêu trò vụng về của “chính sách ngu dân”, nhưng bề ngoài vẫn giả dạng tin theo, giả điếc giả câm, lòng thì vui mừng khi thấy nó thất bại; trong lòng kẻ độc tài cũng hiểu rõ “đối sách ngu quân” của dân chúng, nhưng cũng giả bộ tin theo.
Phải nhấn mạnh, trên dưới cùng ngu không chỉ là hoàng đế làm ngu dân, dân chúng làm ngu hoàng đế, mà là theo tầng bậc từng cấp mắt xích, hình thành sợi xích với vô số mắt cùng làm ngu nhau. Mỗi cá nhân đều là một mắt xích của sợi xích, tức kẻ lừa người cũng bị người lừa.
Dù sao, một xã hội mà trên dưới cùng ngu không phải một xã hội khỏe mạnh, càng không thể là xã hội hài hòa. Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.
Nguồn: “李忠琴:中国历史上的愚民政策”
hx.cnd.org, 26.09.2017
Chú thích:
[1] Định luật đũa ngà voi (Tượng nha khoái, 象牙筷): Chỉ kẻ lên cầm quyền bắt đầu sa đọa, phung phí, trác táng… Câu chuyện kinh điển: vua Trụ tại vị không bao lâu thì lệnh cho làm cho họ đôi đũa ngà voi. Hiền thần Cơ Tử thấy thế lo lắng nói, “đũa ngà voi không thể đi cùng đồ sành sứ, phải đi cùng chén tê giác, ly bạch ngọc. Ly ngọc không thể chứa lương thực rau dại, chỉ để dùng sơn hào hải vị. Dùng sơn hào hải vị không thể mặc đồ sơ sài, ở nhà tranh, phải mặc gấm vóc, đi kiệu hoa, ở nhà lầu. Trong nước không thỏa mãn được, phải ra ngoài tìm kiếm báu vật quý hiếm. Thần lo thay cho người.”
* Định luật thỏ chết chó hầm (thỏ tử cẩu phanh, 兔死狗烹): Sau khi tận tâm cống hiến hết sức lực cho kẻ thống trị thì bị kẻ thống trị giết bỏ. Câu chuyện kinh điển: Việt Vương Câu Tiễn vì báo thù rửa hận, nằm gai nếm mật, tinh thần thật phi thường. Nhưng phẩm cách của Việt Vương Câu Tiễn rất tệ. Trong tình hình gian khổ tột cùng đã có hai công thần giúp ông ta, nhưng sau khi thành đại nghiệp thì một người bị giết chết, một người phải tháo chạy thoát thân
* Định luật bao vây [xu nịnh] (bao vi, 包 围): Một người đứng đầu (vua chúa…) luôn có vài người bao vây xung quanh nịnh hót, hệ quả là làm cho người này ngày càng ngu đần, có xu thế biến thành gần như con rối. Đây là định luật bao vây, diễn ra thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. Câu chuyện kinh điển: Trong “Xuất sư biểu”, Gia Cát Lượng đã luận về hưng vong của thiên hạ, “thân cận bề tôi tài đức, tránh xa tiểu nhân, thời Tiên Hán hưng thịnh nhờ thế; thân tiểu nhân, xa bề tôi tài đức, thời Hậu Hán bại suy vì vậy.” Tuy gian thần và tiểu nhân bị người người khinh bỉ, nhưng chúng lại chiếm giữ vị thế quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, quyết định hưng vong của một triều đại
* Định luật dè chừng kẻ thù (thù giới, 敌戒): Nghĩa là bản thân chỉ mạnh mẽ hơn nhờ lòng cảnh giác, tranh đấu với kẻ thù
* Định luật bè đảng (bằng đảng, 朋党): Tình trạng kéo kết bè phái làm sụp đổ triều đại
* Định Luật Hoàng Tôn(黄宗): Dựa vào tổng kết của nhà tư tưởng triều Thanh là Hoàng Tông Hy (黄宗羲, 1610-1695), theo đó, trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề cải cách thuế khóa diễn ra liên miên, nhưng qua mỗi lần cải cách, sau khi người nông dân được hưởng mức thuế hạ thấp một thời gian thì lại chịu một mức khác cao hơn lúc trước cải cách
* Định luật xử trảm năm đời (五世而斩): Công danh sự nghiệp của một người có ảnh hưởng đến nhiều đời sau (7).
* Định luật quyền lớn hiếp chủ: Lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm luôn có khởi đầu và kết thúc theo kiểu “quyền lớn hiếp chủ” làm suy sụp triều đại: con Sở Thành Vương (楚成王, ?-626 TCN) ép Sở Thành Vương tự sát; công tử Quang của nước Ngô phái thích khách Chuyên Chư (专诸, ? – 515 Tr.CN) hành thích Ngô vương Liêu thành công và lên ngôi vương, tức Ngô vương Hạp Lư; thời Tây Hán có Vương Mãng soán ngôi, thời Tấn có loạt bát vương, do tám vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, làm nhà Tây Tấn suy yếu và khởi nguồn của loạn Ngũ Hồ Thập lục quốc của các tộc người tại Trung Nguyên dẫn đến sụp đổ nhà Tây Tấn; thời Tam Quốc có Tào Tháo… Triều Thanh (cuối thời Phong kiến Trung Quốc), Viên Thế Khải lộng quyền, đánh dấu hồi kết của vương triều này
* Định luật da lông (皮毛): từ sau khi Tần Thủy Hoàng “đốt sách chôn nho”, giới trí thức Trung Quốc biến thành “lông”, chỉ còn làm phụ họa cho người chủ/lãnh đạo (da), họ không còn tư tưởng độc lập, đánh mất chính mình
* Chính quyền từ báng súng: Chỉ Trung Quốc không có dân chủ, lịch sử Trung Quốc thường chỉ dựa vào đấu tranh vũ trang để giành chính quyền (10).
[2] Nguyên văn: Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa (古之善为道者,非以明民,将以愚之。民之难治,以其智多).
[3] Nguyên văn: Thị dĩ thánh nhân chi trí, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ trí, cường kỳ cốt, thường sử dân vô tri vô dục (是以圣人之智,虚其心,实其腹,弱其智,强其骨,常使民无知无欲).
[4] Nguyên văn: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi (民可使由之,不可使知之).
[5] Mật vụ KGB của Liên Xô cũ?
[6] Thạch (石): Cách tính độ nặng khi kéo cây cung của thời cổ đại Trung Quốc, một thạch cần sức kéo 60 cân.
[7] Hậu chủ nghĩa toàn trị là giai đoạn mà động lực ban đầu của chủ nghĩa toàn trị đã suy kiệt. Kẻ nắm quyền lực đã không còn tính tôn nghiêm và sức sáng tạo mà những thế hệ quyền lực trước từng có. Tuy vậy, về đại thể thì thể chế vẫn vận hành nguyên trạng, do quán tính hoặc tính trơ ỳ
Nguồn bài đăng : dcvonline.net
Mục đích chính của DCVOnline, với trách nhiệm truyền thông độc lập, là cổ xúy dân chủ, nhân quyền và phát triển bền vững cho Việt Nam.”
Cái gọi là “Định luật trên dưới cùng ngu”, là chỉ trong xã hội chuyên chế, kẻ thống trị thực hành chính sách ngu dân; có “chính sách ngu dân” tất sẽ xuất hiện “đối sách ngu quân” trong triều đình và dân chúng. Đây gọi là “trên dưới cùng ngu”. Hệ quả của “trên dưới cùng ngu” là trên có hôn quân, dưới có ngu dân, xấu thắng tốt thua, luân lý hao mất, xã hội đen tối, giả dối lên ngôi, hủ bại lạc hậu, hèn hạ bạc nhược.
“Chính sách ngu dân” của kẻ thống trị tự cho mình thông minh
Có hiện tượng kỳ quái trong lịch sử [TQ], đó là có một số phần tử trí thức không cầm quyền, không phải thành viên lớp hạt nhân chuyên chế, nhưng lại nhiệt thành bỏ hết tinh lực giúp kẻ thống trị bày vẽ mưu kế. Từ khá sớm, vị chuyên gia đã vô tư dâng hiến tuyệt chiêu “chính sách ngu dân” phải kể là Lão Tử Lý Đam. Ông ấy nói: “Ngày trước, kẻ khéo hành đạo thì không cho dân sáng suốt, phải làm cho họ ngu muội. Khó trị được dân khi họ có nhiều trí tuệ” [2], “Trí tuệ của thánh nhân [là làm cho dân]: Lòng rỗng, bụng no, chí hèn, xương cứng, làm cho dân không biết không ham” [3]. Khổng Tử thánh nhân cũng theo chủ trương này, ông ấy nói: “Muốn sai bảo dân, không để cho họ hiểu biết” [4]. Hậu thế “vì nể người hiền”, cho rằng lời của Lão Tử và Khổng Tử cần có cách giải thích khác, ví như giải thích “trí, 智” mà Lão Tử nói có nghĩa là “xảo trá”, còn “ngu, 愚” là “chất phác”; làm mới lại lời của Khổng Tử… kỳ thực chỉ là trò chơi chữ mà thôi.
Theo quan điểm của Lão Tử, khó quản dân khi dân hiểu biết. Nhà chính trị cao minh không nên để cho dân có hiểu biết, cần làm cho dân ngu xuẩn. Nếu mọi người dân đều đần độn, nhận thức kém và không có dục vọng, như vậy thiên hạ sẽ ổn định.
Lý luận thường lạc hậu so với thực tiễn. Thực tế, từ khi Lão Tử còn chưa ra đời, các vua nhà Tây Chu đã biết thực hiện “chính sách ngu dân”. Nhiều người quá quen câu chuyện Chu Lệ Vương (890 Tr.CN – 828 Tr.CN) “dẹp lời bài báng”. Khi đó, để ngăn chặn dân chúng tranh luận việc triều chính, Chu Lệ Vương thực hiện chính sách chính trị hà khắc, nhân dân không còn bất cứ tự do ngôn luận nào, đến cả việc chào hỏi khi gặp nhau trên đường cũng không dám, chỉ có thể dùng ánh mắt ra hiệu. Khi mọi người im lặng, Chu Lệ Vương tự cho rằng thiên hạ ổn định, dương dương tự đắc khoe khoang với đại thần Thiệu Công. Nhưng không bao lâu sau thì xảy ra bạo loạn khắp nước, Chu Lệ Vương bị lưu đày.
Khổng Tử, ông trùm của chính sách ngu dân
Một là áp chế dư luận, phong tỏa thông tin, đàn áp văn nhân, thiêu hủy sách vở. Như Tần Thủy Hoàng và Lý Tư “đốt sách chôn nho” chính là cách phong tỏa thông tin, kiềm chế tư tưởng, biến mọi người thành người điếc, người mù; chúng còn đẩy mạnh chính trị KB [5], tước đoạt quyền tự do ngôn luận của nhân dân, biến mọi người thành như người câm. Nhân dân có mắt không được thấy, có tai không được nghe, có miệng không dám nói, biến thành người mù, điếc, câm, như thế kẻ độc tài có thể tùy tiện tự tung tự tác. Tù ngục tắm máu chữ nghĩa trong lịch sử Trung Quốc càng ngày càng tàn khốc, như phong trào kiểm duyệt thư tịch phạm húy trên quy mô rộng của triều đình nhà Thanh là một dẫn chứng kinh điển của “chính sách ngu dân”.
Hai là gạt bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia; cấm cản hết thảy tự do tư tưởng, ngôn luận. Ngoài bạo lực khủng bố, kẻ thống trị còn tìm đến thứ lý luận có lợi mà vô hại đối với kẻ thống trị chuyên chế, xem đó là tư tưởng chỉ đạo để thuần hóa nhân dân. Đề xuất chủ ý này là một bậc thầy và chuyên gia, tên là Đổng Trọng Thư (179 Tr.CN – 104 Tr.CN). Ông ta chủ trương dùng học thuyết Nho gia làm tư tưởng cầm quyền nhằm “giáo hóa” nhân dân. Trong sớ dâng Hán Võ Đế (156 Tr.CN – 87 Tr.CN), ông ấy ghi: “Kẻ không học Lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân, Thu), tư tưởng của Khổng Tử, phải cắt đường thăng tiến, chớ nên tuyển chọn” (Chư bất tại lục nghệ chi khoa Khổng Tử chi thuật giả, tất tuyệt kỳ đạo, vật sử tính tiến). Từ đây, Hán Võ Đế “loại bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia”. Tư tưởng này gây ra nền chính trị tàn bạo, làm cho người Trung Quốc bị mất năng lực sáng tạo và tư duy độc lập về các phương diện văn hóa và khoa học, sau này xã hội Trung Quốc không còn xuất hiện trường hợp như “trăm nhà đua tiếng” nữa.
Ba là tự thần thánh hóa bản thân, mượn danh lừa đời, đặt chuyện hoang đường, tô vẽ cảnh thái bình. Những kẻ độc tài muốn chứng minh bản thân “phụng mệnh Trời”, “duy ngã độc tôn”, “Trời trao anh minh”, “Trời trao năng lực phi phàm”, tự tạo dựng thần thoại dối trá, nào là khi Thái hậu mang thai “giao long quấn lấy”, “mơ Mặt trời nhập thai”; nào là khi Hoàng đế chào đời “gian phòng tỏa hào quang”, “ngoài sân mây tía”… chứng minh Hoàng đế khác người phàm, là “con Trời”, là thánh nhân siêu phàm, được thần thánh trao ngôi báu, có quyền ban quan tước, “khắp gầm trời đâu cũng là đất của vua, người sống trên đó đều là thần dân của vua”. Phàm những lời vua nói đều là lời vàng ngọc, một câu trên cả vạn câu; phàm việc vua làm toàn là vĩ đại anh minh, mãi mãi không có sai lầm. Đồng thời, những kẻ thống trị còn không ngừng tạo dựng những tấm gương giả tạo, bài học giả tạo cho toàn dân học tập, dùng lời hoang đường mê hoặc dân chúng, dùng lời suông trị nước, tô vẽ cảnh thái bình, lừa mình lừa người.
Tóm lại, tinh túy của “chính sách ngu dân” là nhờ vào che giấu, lừa lọc và khủng bố, biến nhân dân thành khờ khạo và ngớ ngẩn. Như thế, kẻ thống trị được hiện thân như vị anh hùng vĩ đại, nhằm củng cố quyền thống trị chuyên chế.
“Đối sách ngu quân” làm kẻ độc tài thành đần độn
Tục ngữ có câu: “Trên có chính sách, dưới có đối sách.” Ở trên thực hiện “chính sách ngu dân”, ở dưới tự nhiên có “đối sách ngu quân”.
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tiên sinh từng kể câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ”, tổng kết rằng: “Vì hoàng đế và đại thần có ‘chính sách ngu dân’, bách tính cũng tự có ‘đối sách ngu quân’.” Nói phương pháp mà bách tính lừa hoàng đế là “chính sách” thì không chuẩn xác. Câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ” chưa hẳn có thật, nhưng lại phản ánh trí tuệ mà bách tính dùng để lừa gạt hoàng đế, một câu chuyện rất điển hình.
Lỗ Tấn, ảnh chụp gần cuối đời.
Trong sách “Hàn Phi Tử” cũng ghi chép lại câu chuyện ngu quân. Tề Tuyên Vương (trị vì 342 Tr.CN-323 Tr.CN) rất thích bắn cung, có thể kéo được cây cung tam thạch. Những kẻ xu nịnh bên cạnh Tề Tuyên Vương khi kéo thử đều giả bộ gắng hết sức nhưng không thể kéo nổi, nói rằng cây cung này có đến cửu thạch. Tề Tuyên Vương nghe thế thì đắc ý, tưởng rằng bản thân là đại lực sĩ, “thứ chưa đến tam thạch, nhưng cả đời tưởng rằng mình có sức kéo cung cửu thạch.” [6]
Loại “ngu quân” tâng bốc này rất phổ biến. Đặc biệt là khi biết cấp trên có hứng thú, sở trường đối với một vấn đề nào đó, cấp dưới sẽ tìm mọi cách dùng nó vào mục đích nịnh hót. Vậy là cái tôi của kẻ độc tài càng lúc càng được bay bổng, dần dần không còn năng lực phán đoán và tư duy chính xác, ngày càng ngu muội. Như câu chuyện thiếu nhi “Áo mới của Hoàng đế” có kể, rõ ràng Hoàng đế đang cởi truồng, nhưng vì những lời xu nịnh của các đại thần mà tưởng rằng mình đang mặc bộ đồ đẹp nhất thế gian. Thậm chí, khi kẻ độc tài nói lời vô nghĩa, kẻ xu nịnh cũng nói rằng “lời vàng thước ngọc”, “nhận định sáng suốt”, cùng tổ chức học theo triệt để, toàn diện. Khắp cả nước đều nhất loạt lấy làm gương để học tập. Thôn lừa xã, xã lừa huyện, cứ thế bên dưới lừa bên trên, lừa lên đến cung điện. Loại hôn quân này chỉ thích được tâng bốc, tưởng đâu thế là vô hại, thực tế nó như thuốc độc mãn tính, làm cho cấp trên ngày càng ngu đần, cởi chuồng chạy khắp nơi đến chết vẫn không nhận ra.
Một cách “ngu quân” nữa là che giấu, lừa dối. Hoàng đế Càn Long (1711 – 1799) có thể xem là vị vua thông minh trong các triều đại, một lần ông ấy hỏi đại học sĩ Uông Do Đội (1692-1758): “Trời chưa sáng mà ông đã thượng triều, đã dùng bữa ở nhà chưa?” Uông Do Đội đáp: “Nhà thần nghèo, bữa sáng chỉ dùng bốn trứng gà.” Càn Long giật mình, nói: “Một trứng gà giá 12 lượng bạc, bốn trứng là 40 lượng. Trẫm không dám xa xỉ như thế, sao khanh có thể nói nhà mình nghèo?” Uông Do Đội bị dọa chỉ biết nói úp mở, ậm ờ cho qua. Nhưng câu chuyện không phải duy nhất. Vốn là mỗi ngày Hoàng đế Quang Tự (1871 – 1908) ăn bốn trứng gà, trong sổ ở ngự thiện phòng ghi lại chi phí là 34 lạng bạc, như vậy giá mỗi trứng gà hơn 8 lạng bạc. Một lần ông ta hỏi thầy dạy mình là Ông Đồng Hòa (翁同龢, 1830 – 1904): “Thứ quý giá này thầy đã dùng chưa?” Ông Đồng Hòa nghe hỏi thì biết thái giám giở trò, nhưng nghĩ nếu nói thật thì đắc tội với các thái giám, bèn đáp: “Thứ quý này, khi thờ cúng vào ngày lễ lớn thì thần thỉnh thoảng mới dùng một chút, bình thường không dùng đến.” Có lẽ các Hoàng đế triều Thanh đều cho rằng trứng gà là đồ ăn quý giá!
Trường hợp nhiều hơn là cấp dưới buộc phải lừa cấp trên, không dám nói sự thật cho cấp trên. Thích nghe lời ngọt là thiên tính của con người. Đặc biệt là kẻ độc tài, ngày ngày bị bọn xu nịnh vây quanh, luôn tưởng rằng mình thông minh biết nhiều, anh minh uy phong. Quen nghe lời xu nịnh, họ không còn nghe được lời không vừa ý nhưng chân thật. Dẫn chứng có vô số trong lịch sử. Vì mọi người đều học cách ngoan ngoãn nghe lời, cấp trên thích nghe gì thì nói vậy. Đây gọi là “bị ép ngu quân”. Như Tần Nhị Thế (229 Tr.CN – 207 Tr.CN) rơi vào nghiện ngập trụy lạc, bị Thừa tướng Triệu Cao (258 Tr.CN – 207 Tr.CN) giấu giếm thông tin. Tần Nhị Thế lờ mờ biết nghĩa quân nổi dậy nhiều như ong, thiên hạ đại loạn, nhưng khi hỏi Triệu Cao, Triệu Cao chỉ thưa: “Chẳng qua là vài tên giặc cỏ, không làm nên trò trống gì.” Bỏ mặc Tần Nhị Thế an tâm hưởng lạc trong cung điện. Cho đến khi Triệu Cao phái con rể vào cung giết Tần Nhị Thế, lúc này Tần Nhị Thế mới vỡ ra, liền trách mắng tên thái giám bên cạnh: “Tại sao ngươi không sớm nói cho ta sự thật?” Thái giám nói: “Tiện nhân không dám nói. Nếu nói sự thật thì sớm đã bị ngài giết chết rồi, sao có thể sống đến giờ?” Câu chuyện về Tùy Dạng Đế cũng có thể xem là điển hình. Ông ta thích nghe lời ngon ngọt, vì thế quần thần chỉ dám báo chuyện vui không dám báo chuyện buồn. Có cung nữ báo lại rằng, bên ngoài có người tạo phản. Tùy Dạng Đế lại cho rằng cô cung nữ có mưu đồ mê hoặc làm loạn, bèn mang giết đi. Vậy là không còn ai dám nói lời thật trước mặt ông ta. Khi thiên hạ đại loạn, ông ta bị khốn trong cung Dương Châu, nhưng vẫn không ai dám nói thật cho ông ta. Điều lạ là, bên ngoài cung, các tướng lĩnh ngự lâm quân cứ điềm nhiên mở hội bàn việc phản loạn mà không phải lo lắng có ai vào cung mật báo; trong cung, các cung nữ đều biết tình thế bên ngoài đã đến mức không thể dẹp nổi, nhưng không một ai dám nói sự thật cho Tùy Dạng Đế. Vậy là chỉ còn mình ông ta chìm trong u mê.
Trên dưới làm nhau cùng ngu
Trong lịch sử, bất kể “chính sách ngu dân” hay “đối sách ngu quân” đều có được “thành công” nhất định. Loại “thành công” này quả là nỗi đau xót của nước, nỗi xót xa của dân.
Lỗ Tấn tiên sinh từng nói: “Xảy ra ngu dân là hệ quả của chính sách ngu dân.” “Chính sách ngu dân” sinh ra ra hàng loạt dân ngu, họ không thể biết được sự thật, trong tình trạng thông tin không có ứng đối, ngày ngày chỉ nghe được những lời dối trá, lời nói dối lặp đi lặp lại mãi được xem thành sự thật. Sự xuất hiện của vô số dân ngu, ở mức độ nhất định giúp gia cố quyền lực của kẻ thống trị độc tài, nhưng đồng thời lại làm cho toàn xã hội bao phủ trong không khí giả dối, bạo ngược, ngu muội, bạo lực, dễ tạo thành thảm họa mang tính toàn quốc.
Cuối đời nhà Thanh, do ảnh hưởng của chính sách bài ngoại mù quáng của triều đình nhà Thanh, các dân ngu thành lập Nghĩa Hòa Đoàn, mê tín vào công phu Trung Quốc, cho là vũ khí [nước ngoài] không làm gì được, rêu rao giúp Thanh diệt ngoại bang, ngăn chặn văn minh bên ngoài. Điều này cũng tương tự cảnh người dân Iraq thề bảo vệ Saddam Hussein, quyết chiến đến cùng với quân Anh và Mỹ. Từ Hy Thái Hậu (1835 – 1908) cũng bị dân ngu lừa gạt, cứ thế tin theo, ngang tàng tuyên chiến với 11 nước mạnh nhất thế giới, mong ngóng Nghĩa Hòa Đoàn diệt ngoại bang, trừ đại nạn. Nhưng rồi chỉ cần tám nước liên kết tổ chức đội quân có 20.000 người, đổ bộ lên từ Thiên Tân, không bao lâu đã đánh đến Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu và Hoàng đế Quang Tự phải tháo chạy. Đây gọi là “quốc nạn Canh Tý” nhục nhã trong lịch sử Trung Quốc. Quân nhà Thanh cùng hàng trăm ngàn người của Nghĩa Hòa Đoàn đầy hào hùng oai khí nhưng hoàn toàn bất lực, câu chuyện không khác gì cảnh cuộc chiến ở Iraq khi liên quân Anh Mỹ tiến thẳng vào Baghdad.
Từ Hy Thái Hậu chạy thoát thân sang phương Tây mới hiểu rằng đã bị Nghĩa Hòa Đoàn làm cho u mê; khi Saddam bị lính Mỹ lôi ra khỏi hầm, có lẽ mới nhận ra bản thân đã bị người dân của ông ta làm cho mụ mị.
Nhưng khi kẻ độc tài nắm đại quyền trong tay, chỉ vui thích khi hắn thực hiện “chính sách ngu dân” thành công, không nhận ra được rằng chính bản thân cũng bị nhân dân làm cho ngu muội. Trên chỉ thích ca ngợi thái bình, thích lời “khen ngợi” rỗng tuếch, “lòng người như một”, thế là bên dưới cứ thế mà theo, tạo cảnh bình an giả tạo, báo cáo thành tích giả dối. Cấp trên nghĩ ra một chủ ý vụng về, cấp dưới hoan hô sáng suốt như thần thánh, chuyện gì cũng chỉ biết tán đồng.
Tháng Giêng năm 610, Tùy Dạng Đế (569 – 618) không màng đến hoàn cảnh, vì muốn chứng tỏ đất nước hùng cường nên bất ngờ đưa ra ý tưởng kỳ lạ, cho mở hội rầm rộ tại Lạc Dương: Biểu diễn tạp kỹ (xiếc, nhào lộn) long trọng, “thâu đêm suốt sáng, khắp nơi đèn đuốc rực sáng đến tận cuối tháng, tốn kém kinh phí vô kể.” Nhiều nhà buôn các nước Tây Vực cảm thấy kỳ lạ, ở Lạc Dương họ dùng bữa không tốn tiền, nơi ở được miễn phí. Các ông chủ khách điếm thì tự hào nói với người nước ngoài: “Trung Quốc giàu có, tiệc rượu có gì đáng bàn.” Người nước ngoài khi thấy cảnh lụa là quấn quanh những cây đại thụ trên đường phố Lạc Dương, trong khi bên đường có nhiều dân nghèo khổ, họ bèn hỏi thị dân Lạc Dương: “Trung Quốc còn có người nghèo, áo mặc rách rưới, sao có thể dùng thứ này quấn cho cây?” Người được hỏi ngượng ngùng không thể trả lời. Tùy Dạng Đế vốn muốn làm công trình này để thể hiện hình ảnh thời đại rực rỡ, “khắp nơi hướng về”, không ngờ lại thành trò hề, để lại trò cười cho hậu thế.
Nhà văn Václav Havel, là cựu Tổng thống Cộng hòa Séc (Czech Republic – DCVOnline), khi bàn về thời hậu toàn trị [7] đã chỉ ra, trò ngụy trang, biểu diễn và trang trí màu mè, giả tạo là đặc điểm cốt lõi của xã hội toàn trị. Cuộc sống trong thời đại toàn trị là sống trong không khí giả dối, mọi người muốn sống phải giả dối, phải chấp nhận làm bạn với giả dối.
Thực tế, ở thời hậu toàn trị, chế độ chuyên chế làm toàn xã hội cùng ngu, từ trên xuống dưới, dối trá trở thành dầu bôi trơn duy trì hoạt động của xã hội toàn trị. Kẻ thống trị độc tài xa rời dối trá thì không thể duy trì được quyền lực; quốc dân không dối trá thì khó bề tồn tại. Trên dưới cùng ngu làm xã hội Trung Quốc chìm trong bể che giấu và lừa bịp, không thể tự thoát khỏi.
Khác biệt giữa thời toàn trị và hậu toàn trị là, trong thời toàn trị, “chính sách ngu dân” của kẻ độc tài tạo ra hàng loạt dân ngu, còn “đối sách ngu quân” của các thần dân lại làm cho kẻ độc tài sống trong u tối, trở thành hôn quân. Trên dưới cùng ngu, không ai được thức tỉnh. Còn ở thời hậu toàn trị, đa số mọi người đã nhận thức rõ chiêu trò vụng về của “chính sách ngu dân”, nhưng bề ngoài vẫn giả dạng tin theo, giả điếc giả câm, lòng thì vui mừng khi thấy nó thất bại; trong lòng kẻ độc tài cũng hiểu rõ “đối sách ngu quân” của dân chúng, nhưng cũng giả bộ tin theo.
Phải nhấn mạnh, trên dưới cùng ngu không chỉ là hoàng đế làm ngu dân, dân chúng làm ngu hoàng đế, mà là theo tầng bậc từng cấp mắt xích, hình thành sợi xích với vô số mắt cùng làm ngu nhau. Mỗi cá nhân đều là một mắt xích của sợi xích, tức kẻ lừa người cũng bị người lừa.
Dù sao, một xã hội mà trên dưới cùng ngu không phải một xã hội khỏe mạnh, càng không thể là xã hội hài hòa. Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.
Nguồn: “李忠琴:中国历史上的愚民政策”
hx.cnd.org, 26.09.2017
Chú thích:
[1] Định luật đũa ngà voi (Tượng nha khoái, 象牙筷): Chỉ kẻ lên cầm quyền bắt đầu sa đọa, phung phí, trác táng… Câu chuyện kinh điển: vua Trụ tại vị không bao lâu thì lệnh cho làm cho họ đôi đũa ngà voi. Hiền thần Cơ Tử thấy thế lo lắng nói, “đũa ngà voi không thể đi cùng đồ sành sứ, phải đi cùng chén tê giác, ly bạch ngọc. Ly ngọc không thể chứa lương thực rau dại, chỉ để dùng sơn hào hải vị. Dùng sơn hào hải vị không thể mặc đồ sơ sài, ở nhà tranh, phải mặc gấm vóc, đi kiệu hoa, ở nhà lầu. Trong nước không thỏa mãn được, phải ra ngoài tìm kiếm báu vật quý hiếm. Thần lo thay cho người.”
* Định luật thỏ chết chó hầm (thỏ tử cẩu phanh, 兔死狗烹): Sau khi tận tâm cống hiến hết sức lực cho kẻ thống trị thì bị kẻ thống trị giết bỏ. Câu chuyện kinh điển: Việt Vương Câu Tiễn vì báo thù rửa hận, nằm gai nếm mật, tinh thần thật phi thường. Nhưng phẩm cách của Việt Vương Câu Tiễn rất tệ. Trong tình hình gian khổ tột cùng đã có hai công thần giúp ông ta, nhưng sau khi thành đại nghiệp thì một người bị giết chết, một người phải tháo chạy thoát thân
* Định luật bao vây [xu nịnh] (bao vi, 包 围): Một người đứng đầu (vua chúa…) luôn có vài người bao vây xung quanh nịnh hót, hệ quả là làm cho người này ngày càng ngu đần, có xu thế biến thành gần như con rối. Đây là định luật bao vây, diễn ra thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. Câu chuyện kinh điển: Trong “Xuất sư biểu”, Gia Cát Lượng đã luận về hưng vong của thiên hạ, “thân cận bề tôi tài đức, tránh xa tiểu nhân, thời Tiên Hán hưng thịnh nhờ thế; thân tiểu nhân, xa bề tôi tài đức, thời Hậu Hán bại suy vì vậy.” Tuy gian thần và tiểu nhân bị người người khinh bỉ, nhưng chúng lại chiếm giữ vị thế quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, quyết định hưng vong của một triều đại
* Định luật dè chừng kẻ thù (thù giới, 敌戒): Nghĩa là bản thân chỉ mạnh mẽ hơn nhờ lòng cảnh giác, tranh đấu với kẻ thù
* Định luật bè đảng (bằng đảng, 朋党): Tình trạng kéo kết bè phái làm sụp đổ triều đại
* Định Luật Hoàng Tôn(黄宗): Dựa vào tổng kết của nhà tư tưởng triều Thanh là Hoàng Tông Hy (黄宗羲, 1610-1695), theo đó, trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề cải cách thuế khóa diễn ra liên miên, nhưng qua mỗi lần cải cách, sau khi người nông dân được hưởng mức thuế hạ thấp một thời gian thì lại chịu một mức khác cao hơn lúc trước cải cách
* Định luật xử trảm năm đời (五世而斩): Công danh sự nghiệp của một người có ảnh hưởng đến nhiều đời sau (7).
* Định luật quyền lớn hiếp chủ: Lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm luôn có khởi đầu và kết thúc theo kiểu “quyền lớn hiếp chủ” làm suy sụp triều đại: con Sở Thành Vương (楚成王, ?-626 TCN) ép Sở Thành Vương tự sát; công tử Quang của nước Ngô phái thích khách Chuyên Chư (专诸, ? – 515 Tr.CN) hành thích Ngô vương Liêu thành công và lên ngôi vương, tức Ngô vương Hạp Lư; thời Tây Hán có Vương Mãng soán ngôi, thời Tấn có loạt bát vương, do tám vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, làm nhà Tây Tấn suy yếu và khởi nguồn của loạn Ngũ Hồ Thập lục quốc của các tộc người tại Trung Nguyên dẫn đến sụp đổ nhà Tây Tấn; thời Tam Quốc có Tào Tháo… Triều Thanh (cuối thời Phong kiến Trung Quốc), Viên Thế Khải lộng quyền, đánh dấu hồi kết của vương triều này
* Định luật da lông (皮毛): từ sau khi Tần Thủy Hoàng “đốt sách chôn nho”, giới trí thức Trung Quốc biến thành “lông”, chỉ còn làm phụ họa cho người chủ/lãnh đạo (da), họ không còn tư tưởng độc lập, đánh mất chính mình
* Chính quyền từ báng súng: Chỉ Trung Quốc không có dân chủ, lịch sử Trung Quốc thường chỉ dựa vào đấu tranh vũ trang để giành chính quyền (10).
[2] Nguyên văn: Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa (古之善为道者,非以明民,将以愚之。民之难治,以其智多).
[3] Nguyên văn: Thị dĩ thánh nhân chi trí, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ trí, cường kỳ cốt, thường sử dân vô tri vô dục (是以圣人之智,虚其心,实其腹,弱其智,强其骨,常使民无知无欲).
[4] Nguyên văn: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi (民可使由之,不可使知之).
[5] Mật vụ KGB của Liên Xô cũ?
[6] Thạch (石): Cách tính độ nặng khi kéo cây cung của thời cổ đại Trung Quốc, một thạch cần sức kéo 60 cân.
[7] Hậu chủ nghĩa toàn trị là giai đoạn mà động lực ban đầu của chủ nghĩa toàn trị đã suy kiệt. Kẻ nắm quyền lực đã không còn tính tôn nghiêm và sức sáng tạo mà những thế hệ quyền lực trước từng có. Tuy vậy, về đại thể thì thể chế vẫn vận hành nguyên trạng, do quán tính hoặc tính trơ ỳ
Nguồn bài đăng : dcvonline.net
Mục đích chính của DCVOnline, với trách nhiệm truyền thông độc lập, là cổ xúy dân chủ, nhân quyền và phát triển bền vững cho Việt Nam.”
Đã đăng trên Văn Việt.
No comments:
Post a Comment