(Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
CHƯƠNG 10
Trải
nghiệm và khái niệm
Từ “biết”
có thể ngụ ý nhiều tầng khác nhau, chẳng hạn như “nghe thấy về”, “đã tìm hiểu về”,
“cho là” hoặc “làm quen với”. Cũng có thể có nghĩa là “đã chính thức nghiên cứu”
hay thậm chí là “có chuyên môn trong một lĩnh vực nào đó”. Biết có nhiều tầng
khác nhau, nhưng hầu hết đều có thể được mô tả một cách chính xác là những khả
năng tạm thời, có tính giả định, giả thuyết, hay phỏng đoán. Còn có mức độ xác
tín, chắc chắn và thuyết phục. Như vậy là, mỗi tầng ngụ ý mức độ chắc chắn hoặc
độ tin cậy dựa trên thông tin đã được trải nghiệm, khác hẳn với các cơ cấu trí
tuệ của quá trình tư duy.
“Biết
về” có nghĩa là mặc dù chính thông tin là quen thuộc, thực tại và sự thật của
nó vẫn còn phải được xác nhận bằng trải nghiệm. Chắc chắn nhất là, muốn thực sự
biết có nghĩa là “là”, và do đó, đối tượng và người biết là một. Biết “về” thuộc
về tâm trí; biết qua trải nghiệm được chấp nhận như là hành động xác nhận. (“Thức
khuya mới biết đêm dài[1]”).
Ở những
tầng tuyến tính và khái niệm quen thuộc của đời sống, quá trình xác nhận là tương
đối dễ dàng và thiết thực. Ngược lại, trong các vấn đề tâm linh, toàn bộ quá
trình này lại có bản chất khác, tinh tế hơn, bao gồm các phương thức khác, chứ
không chỉ là những suy nghĩ, cảm xúc, hoặc các cơ cấu của tư duy. Quá trình xác
nhận thực tại tâm linh cần những phẩm chất và năng lực ý thức khác, nhờ đó thực
tại phi tuyến tính có thể thực sự được biết (ví dụ, thông qua đồng nhất).
Ai
là người biết?
Tâm
trí tin một cách ngây thơ rằng nó chính là “tôi” (me), người đang tìm kiếm sự
thật, vì nó cho rằng bản ngã/tự ngã của nó là tác giả chính và duy nhất của ý định
cũng như hành động, và do đó, là trọng tài của thực tại. Cũng ngụ ý động lực,
cũng như mục tiêu giả định của nó. Động cơ của hiểu biết có thể chỉ đơn giản là
tò mò hay mong muốn giành lợi ích, nhưng với động lực tâm linh, sẽ nảy sinh nhu
cầu bên trong trong việc xác định tính chắc chắn của sự thật bẩm sinh của những
giáo lý, phương pháp tu tập và những tôn giáo khác nhau. Khao khát tìm kiếm ý
nghĩa, sự thật và tâm linh có nguồn gốc sinh học tương quan với sinh lý não
(Newberg, 2006).
Theo
truyền thống, thái độ sẵn sàng cho việc học tập tâm linh được gọi là “chín muồi”,
là sự kết hợp bất ngờ của ý định chân thành cộng với trưởng thành, quá trình tiến
hóa của ý thức và sự kích hoạt ước muốn học hỏi theo lối trải nghiệm. Mặc dù quá
trình này có thể bắt đầu chỉ với thái độ tò mò, nhưng người đó sẽ quan tâm hơn
khi họ ngày càng nhận ra vai trò quan trọng của việc tu tập tâm linh và những hậu
quả lâu dài của nó đối với mình. Người ta sẽ nhiệt tình hơn và cuối cùng là dâng
hiến, và những mục tiêu và giá trị tâm linh thay thế dần cho những mục tiêu và
giá trị thấp kém hơn của bản ngã trần tục. Sử dụng kiến thức tâm linh sẽ dẫn đến
những nghiệm ở bên trong và trí tuệ ngày càng phát triển, và càng gia tăng thêm
động lực cho quá trình này. Những tiền đề tâm linh được trải nghiệm dần dần trở
thành thực tế và dẫn đến niềm tin khi “biết về” chuyển thành thực sự biết, đấy
là do trở thành cái được trải nghiệm.
Có
thể mô tả tiến bộ một cách rõ ràng nhất là quá trình hiển lộ những nhận thức và
mặc khải tự phát, thường được gán cho trực giác và hướng dẫn ở bên trong. Nhiều
người nói về những hướng dẫn tâm linh như là thực tế được trải nghiệm. Khi công
việc tâm linh phát triển, tự ngã dần dần tan ra và hòa nhập vào Đại ngã, với năng
lực học tập của chính nó, khác hẳn với năng lực của bản ngã/tâm trí.
Quyền
tự chủ
Trong
khi cốt lõi ái kỷ của bản ngã cho rằng nó là cội nguồn của thực tại được trải
nghiệm và tìm kiếm uy tín, quá trình xử lý tâm linh mang lại cho người ta thái
độ khiêm tốn và lòng biết ơn ở bên trong ngày càng sâu sắc hơn. Ý định tâm linh
kích hoạt Đại ngã để Nó dần dần trở thành chiếm ưu thế và việc buông bỏ các định
vị ngày càng trở nên dễ dàng hơn và tự nhiên hơn. Đây là sự dịch chuyển tinh tế
của lòng trung thành từ cái được cho là đã biết đến cái không biết. Sau đó, sẽ
xuất hiện kỷ luật ở bên trong để người ta kiên trì và quyết tâm vượt qua kháng
cự. Thành công mang lại sức mạnh, đức tin và niềm tin ngày càng lớn hơn bao giờ
hết vào chính quá trình tâm linh. Bản ngã đã suy yếu sẽ dần dần rút lui và từ bỏ
ảo tưởng về chủ quyền, tạo điều kiện cho người tìm kiếm được dẫn dắt bởi ảnh hưởng
của sự Hiện diện của Quyền lực Cao hơn.
Ý định
tâm linh
Thường
xảy ra nhất là, nguồn thông tin tâm linh ban đầu là thông qua một tôn giáo hay
tổ chức tâm linh đặc trưng của nền văn hóa của của gia đình và nơi sinh ra của người
đó. Khi người ta chấp nhận và trưởng thành, thực ra là không cần gì nữa, vì tiến
bộ tâm linh là kết quả thái độ dâng hiến. Hòa điệu với tôn giáo và giáo lý truyền
thống cung cấp cho người ta cốt lõi của sự thật tâm linh, được trực nhận một
cách tinh tế, rằng nó khác với những kinh sách được chau chuốt của giáo hội, những
tác phẩm này dường như phù hợp hơn với những nền văn hóa và thời đại khác.
Dù
người ta có cho rằng những tôn giáo truyền thống này có những hạn chế nào đi nữa,
thì chúng cũng phù hợp với đa phần dân chúng, chỉ một ít người nghi ngờ mà thôi.
Những giáo lý cổ điển dường như là không đủ và có vấn đề. Đặc biệt đúng đối với
những người có học hiện nay, lý trí, khoa học và trí tuệ có thể mang lại cho họ
những ngờ vực làm cho họ không yên (ví dụ, tình huống tiến thoái lưỡng nan
trong phiên tòa Scopes). Như vậy là, con người hiện đại bác bỏ nhưng đồng thời
chấp nhận luận cứ của cả hai phía trong phiên tòa Scopes. Đòi hỏi là tích hợp đức
tin, tôn giáo truyền thống, và thực tại khoa học, cũng như logic và lý trí của
trí tuệ.
Kinh
nghiệm chung là tôn giáo chính thức được chấp nhận như là một giai đoạn của thời
thơ ấu và đầu đời. Sau đó người ta lờ đi hay bỏ rơi vì có những yêu cầu cấp bách
và đòi hỏi của thời gian của tuổi trưởng thành và đời sống gia đình trong thế
giới hiện đại. Mặc dù có mong muốn quay trở lại với chấp nhận đơn giản, nhưng những
câu hỏi và nghi ngờ xuất hiện cần được giải đáp. Cùng với quá trình trưởng
thành và tuổi tác ngày càng cao, thái độ phủ nhận cái chết ngày càng giảm dần
và người ta thấy cần phải quan tâm tới giáo lý tôn giáo/tâm linh. Nhận thức được
thực tại cố hữu của giáo lý ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những sự kiện
nghiêm trọng trong đời sống, cả cá nhân lẫn xã hội, có nhiều khó khăn, chẳng hạn
như bệnh nặng, người thân qua đời hay thiên tai càng làm cho giáo lý trở thành
quan trọng hơn.
Thú
vị là, hầu hết những người sống sót sau những thảm họa lớn đều kể lại theo lối
tự phát rằng họ đã cầu nguyện thiết tha (thực ra là 99%), và một số thậm chí
còn rơi vào trạng thái bình an sâu sắc sau khi cầu nguyện và phó thác cho Chúa.
Đáng ngạc nhiên là, những người bị lốc xoáy đưa lên trên không đều kể lại đúng
như thế. Họ nói rằng đã rơi vào trạng thái tĩnh lặng và bình yên sâu sắc, vượt ra
ngoài thời gian và họ gần như cảm thấy buồn khi cơn lốc chấm dứt và họ trở lại
trạng thái tâm trí bình thường. Những trải nghiệm cá nhân này thể hiện câu châm
ngôn “Thảm họa của con người là cơ hội của Chúa”. Hằng đêm, chúng ta có thể
nghe trên kênh Weather Channel những lời chứng thực tự phát của những người sống
sót sau những sự kiện thảm khốc.
Những
khám phá về Thực tại của Thần tính là kết quả của các thảm họa cá nhân hoặc
nhóm trước đây thường bị những người hoài nghi chế giễu là do sợ hãi mà ra. Trên
thực tế, khám phá chỉ xuất hiện sau khi người ta đã buông bỏ sợ hãi. Tự thân sợ
hãi ngăn cản nhận thức về sự Hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ khi không còn sợ hãi
thì buông bỏ một cách sâu sắc bản ngã phản kháng mới hiểu được An bình là như thế
nào. Phải trải nghiệm thì mới hiểu được sự sâu sắc này, vì không thể mô tả bằng
lời. Tuy nhiên, hiệu quả chung cuộc của nó mang tính chuyển hóa và làm thay đổi
đời sống, và những người đã chuyển hóa một cách sâu xa bằng trải nghiệm sẽ có vẻ
rạng rỡ trong suốt nhiều năm sau.
Việc
khám phá ra sự Hiện diện của Thiên Chúa không phải do sợ hãi mà là do buông bỏ vì
quá sợ hãi. Trạng thái An bình sâu sắc Vô biên Vô tế ngay trước mắt thảm họa có
điểm hiệu chỉnh 600, làm cho cuộc đời chuyển hóa và kết quả là vĩnh viễn không
còn sợ chết nữa.
Xác
minh thực tại tâm linh
Trong
khi hầu hết mọi người đều có khả năng chấp nhận sự thật do các tôn giáo lớn và
các vị thầy tâm linh trong quá khứ rao giảng, thì tâm trí hiện đại thường đặt
ra những yêu cầu khác nhau, đấy là do ảnh hưởng của truyền thông, chủ nghĩa
hoài nghi hiện đại, chủ nghĩa thế tục, và quá trình phá hoại các giá trị truyền
thống. Ngoài ra, giáo dục đại học trong thời hiện đại bao gồm cả lập trình vừa tinh
tế vừa công khai, làm mất uy tín và suy yếu những giá trị truyền thống. Giới
hàn lâm thể hiện thái độ thù địch công khai, mạnh mẽ và rộng khắp trước những vấn
đề tâm linh, tôn giáo và thậm chí cả những giá trị luân lý và đạo đức truyền thống
(Kupelian, 2005). Việc nhồi sọ càng gia tăng vì những hệ thống niềm tin triết học
hậu hiện đại, tương đối luận, quá trình hiệu chỉnh tầng sự thật của những lý
thuyết này đã phát hiện được những sai lầm nội tại của chúng (từ tầng 160 đến đến
tầng 180), do đó, bản chất của chúng là sai.
Các
xu hướng trí tuệ của giới hàn lâm hiện nay có điểm hiệu chỉnh ở tầng 180-190. Nó
còn được củng cố thêm bởi các hệ tư tưởng chính trị có điểm hiệu chỉnh từ 160 đến
190 hay thậm chí thấp hơn và dẫn đến kết quả là họ thông cảm và biện hộ cho sự
giả dối của phép ngụy biện. Như vậy là, sinh viên tốt nghiệp đại học hiện nay
thực sự có hạn chế về trí thông minh và kiểm nghiệm thực tại của họ tương đối
kém, đặc biệt là tính chính trực trí tuệ và khả năng nhận ra sai lầm của những
lời đao to búa lớn.
Trong
khi “vô minh” của các thế hệ trước chủ yếu là do hiện tượng vốn có trong cơ cấu
bản ngã/tâm trí, vấn đề hiện nay trở thành phức tạp hơn là do các tầng mà quá
trình nhồi sọ trí tuệ tinh tế và lập trình đưa thêm vào. Trong khi việc nhồi sọ
được che giấu khéo léo dưới vỏ bọc của chủ nghĩa lý tưởng, sức hấp dẫn thực sự
của nó đối với những người kiêu căng về trí tuệ là cho rằng mình là những người
vượt trội và tự coi mình là vĩ đại.
Tất cả các triết lý và hệ
thống chính trị xã hội theo tương đối luận tương đối phổ biến hiện nay đều có điểm
chỉnh dưới tầng 200, và sự hấp dẫn của chúng nói chung là đối với tính ái kỷ và
đặc biệt hấp dẫn đối với thế hệ “YouTube/me”, như trang bìa tời tạp chí Time nổi
tiếng ngày 25 tháng 12 năm 2006 cho thấy. Lợi ích của sự công nhận và sự thừa
nhận của xã hội đang nổi lên hiện nay là “tôn thờ bản ngã”, là do đấy là điều kiện cần trước khi người ta có
thể siêu việt được nó.
Hậu
quả của tất cả những điều vừa trình bày là, hiện nay khả năng xác nhận tầng
chân lý của bất kỳ đạo sư, giáo lý, nhóm tôn giáo tâm linh, các khoa đại học, tổ
chức, v.v.. còn cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên để cho nỗ lực
tâm linh thành công là thái độ khiêm tốn trí tuệ, để cuộc điều tra có thể tiến
hành một cách có lợi.
Trong
khi đó, tầng hiệu chỉnh tổng thể của nước Mỹ hiện nay là 421, thì văn hóa của
giới hàn lâm có điểm hiệu chỉnh thấp làm người ta phải kinh ngạc - 190. Bản ngã
ái kỷ của chủ nghĩa hậu hiện đại hay chủ nghĩa vô chính phủ dẫn đến việc thần
thánh hóa chủ nghĩa khoái lạc, hư vô chủ nghĩa (Marcuse, Chomsky, et al.), và vứt
bỏ trí tuệ triết học của những cuốn sách The Great Books (điểm hệu chỉnh
460). Tính chính trực trí tuệ của những
cuốn sách kinh điển vĩ đại này từng là xương sống của giáo dục đại học. Tuy
nhiên, hiện nay như đã nói trước đây, Ivy League, “Big Ten” (mười trường đại học),
hay thậm chí các trường đại học dòng Tên, chẳng hạn như Notre Dame, muốn trở thành
“hiện đại” và liên kết với các diễn giả và những giáo lý đã bị chính trị hóa
(Goshgarian, 2005) có điểm hiệu chỉnh dưới 200. Do đó, sự xuống dốc của nền văn
minh phương Tây là hệ quả của cả tương đối luận và sự phục tùng của nó trước
thái độ hân hoan của Hồi giáo như Giáo hoàng Benedict (2006) và nhiều nhà phân
tích tin tức đã mô tả (ví dụ, Beck, 2006). Sự xuống dốc như thế là một ví dụ về
ảnh hưởng của “việc nhắc đi nhắc lại” - một thuật ngữ xuất phát từ động lực học
phi tuyến tính, nói rằng ngay cả một kích thích nhỏ, nếu được lặp lại thường
xuyên, cũng có thể dẫn đến thay đổi lớn (mời xem Power vs. Force).
Vì tất
cả những lý do vừa nêu và cả những lý do khác nữa mà chúng ta chưa thảo luận,
quan trọng hơn bao giờ hết là có thể chính thức xác nhận sự thật của giáo lý của
bất kỳ nhóm hay tổ chức triết học, chính trị, tâm linh hay tôn giáo nào. Do đó,
yêu cầu đầu tiên để cho nỗ lực tâm linh thành công là thái khiêm tốn trí tuệ, để
cuộc điều tra có thể tiến hành một cách có lợi.
Đặc điểm của các đạo sư tâm linh, các giáo lý và các tổ chức tâm linh chính trực, chính danh được xác định bởi danh sách sau đây (in lại từ tác phẩm Truth vs. falsehoos):
Nhận dạng và Đặc điểm của Sự thật Tâm linh, Đạo sư và Giáo lý
Chính trực
1.
Tính phổ quát: Sự thật là sự thật mọi
lúc mọi nơi, không phụ thuộc vào văn hóa, cá tính hay hoàn cảnh.
2.
Bao gồm tất cả: Sự thật bao hàm tất
cả, không có bí mật và không thuộc về giáo phái nào.
3.
Có sẵn: Dành cho tất cả mọi người,
không độc quyền. Không có bí mật nào cần phải tiết lộ, che giấu hoặc bán, và
không có công thức ma thuật hay “bí ẩn” nào.
4.
Mục đích chính trực: Không có gì để
được hay mất.
5.
Không giáo phái: Sự thật không phải là
sự trình bày giới hạn.
6.
Độc lập về quan điểm: Sự thật là phi
tuyến tính và không bị giới hạn bởi trí tuệ hay hình tướng.
7.
Không định vị: Sự thật không “chống”
bất cứ điều gì. Giả dối và ngu dốt không phải là kẻ thù của sự thật, mà chỉ là thể
hiện trạng thái không có sự thật.
8.
Không yêu cầu hoặc đòi hỏi: Không có
yêu cầu về tư cách thành viên, phí, quy định, lời thề, quy tắc hoặc điều kiện.
9.
Không kiểm soát: Sự trong sạch tâm
linh không quan tâm đến đời sống cá nhân hay quần áo, trang phục, phong cách, đời
sống tình dục, kinh tế, gia đình, lối sống hoặc thói quen ăn uống của những người
tầm đạo.
10.
Không dùng vũ lực hoặc đe dọa: Không
tẩy não, không nịnh bợ các nhà lãnh đạo, không có nghi lễ đào tạo, không nhồi sọ
hay xâm phạm đời tư.
11.
Không ràng buộc: Không có quy định,
luật lệ, sắc lệnh, hợp đồng hoặc cam kết.
12.
Tự do: Người tham gia được tự do đến
và đi, không ai thuyết phục, ép buộc, đe dọa hoặc gây hậu quả gì cho họ. Không
có thứ bậc; thay vào đó, có sự tự nguyện hoàn thành các nhu cầu và nhiệm vụ thiết
thực.
13.
Điểm chung: Được công nhận là vì con
người mà một người nào đó đã trở thành chứ không phải vì các danh hiệu, tước vị
mà người đó được gán cho.
14.
Truyền cảm hứng: Sự thật thường
tránh xa vẻ hào nhoáng, quyến rũ và mầu mè.
15.
Phi vật chất: Sự thật không cần của
cải, danh vọng, phô trương hay nhà to cửa rộng của thế gian.
16.
Viên mãn: Sự thật đã là toàn bộ và
trọn vẹn, không cần phải cải đạo hoặc thu hút tín đồ, đệ tử hay “đăng ký thành
viên”.
17.
Không dính chấp: Không can dự vào
các vấn đề của thế gian.
18. Nhân từ: Sự thật là quá trình tăng dần
từng bước một. Sự thật không có “đối lập” và do đó không có “kẻ thù” để kết tội
hay chống đối.
19. Không cố ý: Sự thật không can thiệp,
cũng không có chương trình nghị sự để đề xuất, áp đặt hoặc ban hành.
20. Bất nhị: Tất cả diễn ra là do thiên hướng
bên trong (nghiệp), diễn ra bên trong trường mà nhờ đó tiềm năng hiển lộ thành
hiện thực, chứ không phải do “nhân” và quả.
21. Tĩnh lặng và An bình: Không có “vấn đề”
hoặc thiên kiến. Không có mong muốn thay đổi người khác hoặc áp đặt lên xã hội.
Ảnh hưởng của năng lượng cao hơn là bẩm sinh và không phụ thuộc vào sự truyền
bá hay nỗ lực. Chúa không cần giúp đỡ, cũng như lực hấp dẫn không cần sự “giúp
đỡ” của quả táo rơi khỏi cành cây.
22.
Bình đẳng: Bình đẳng được thể hiện
trong sự tôn trọng tất cả sự sống trong tất cả các biểu hiện của nó và chỉ
tránh những gì có hại chứ không đối đầu với nó.
23.
Phi thời gian: Sự sống được nhận thức
là vĩnh cửu và cơ thể là tạm thời. Sự sống không bao giờ chết.
24.
Không thể chứng minh: Cái “có thể chứng
minh” là tuyến tính, có giới hạn và là sản phẩm của trí thức hóa và tư duy. Thực
tại không cần người ta đồng ý. Thực tại không phải là cái giành được, mà thay
vào đó, là nhận thức chủ quan, hoàn toàn tự phát khi người ta hoàn toàn từ bỏ
những định vị của bản ngã nhị nguyên.
25.
Thần bí: Nguồn gốc của sự thật là sự
tỏa sáng và soi sáng tự phát, đó là Mặc khải thay thế cho vọng tưởng về một cá
nhân riêng biệt, bản ngã và tâm trí của nó.
26.
Bất khả thuyết: Sự thật là không thể
định nghĩa. Tính chủ quan triệt để thuộc về trải nghiệm. Đó là một hoàn cảnh mới
thay thế cho hoàn cảnh cũ. Với sự kiện này, bối cảnh thay thế cho nội dung,
không phải tạm thời và vượt thời gian. Thực tại không tồn tại trong thời gian, cũng
không là một phần của nó, hoặc ở bên trên hay bên ngoài nó, và nó không có mối
quan hệ nào với những điều mà tâm trí bịa tạc ra. Do đó, nó vượt lên tất cả các
danh từ, tính từ hoặc động từ.
27. Đơn
giản: Người đó nhìn thấy vẻ đẹp nội tại và sự hoàn hảo của tất cả những gì
tồn tại, vượt trên vẻ ngoài và hình tướng.
28.
Khẳng định: Sự thật vượt trên mọi
quan điểm hay khả năng chứng minh. Sự xác nhận hoàn toàn là do nhận thức chủ
quan của nó; tuy nhiên, nó có thể được xác định bằng các kỹ thuật hiệu chỉnh ý
thức.
29.
Không làm: Chân lý không “làm” gì
hay “là nguyên nhân” của bất cứ thứ gì; nó là tất cả.
30.
Mời gọi: Trái ngược với quảng cáo
hay thuyết phục.
31.
Không dự đoán: Bởi vì Thực tại là
phi tuyến tính, nó không thể bị địa phương hóa hoặc mã hóa trong những giới hạn
của hình tướng, chẳng hạn như những thông điệp bí mật, mã, số và chữ khắc, hoặc
ẩn trong những dấu tích bí hiểm, đá, kích thước của kim tự tháp, ADN hoặc lông
mũi của lạc đà. Sự thật không có bí mật. Thực tại của Thiên Chúa có mặt khắp
nơi và vượt ra ngoài sự hệ thống hóa hoặc tính độc quyền. Mật mã thể hiện trí
tưởng tượng của con người chứ không phải sự thất thường của Thần tính.
32.
Không bị cảm xúc chi phối: Đa cảm dựa
trên nhận thức. Từ bi là kết quả của việc phân biệt được sự thật.
33.
Không độc đoán: Không có luật lệ hay
mệnh lệnh nào phải tuân theo.
34.
Vô vị kỷ: Đạo sư được tôn trọng
nhưng từ chối những lời nịnh bợ hoặc ưu đãi dành cho cá nhân họ.
35.
Có tính giáo dục: Cung cấp thông tin
dưới nhiều dạng thức khác nhau và đảm bảo tính khả dụng.
36.
Tự lập: Không hám lợi, không ham vật
chất.
37.
Độc lập: Trọn vẹn mà không phụ thuộc
vào uy quyền bên ngoài hay trong lịch sử.
38.
Tự nhiên: Không có những trạng thái
ý thức bị biến đổi, bị nhồi nhét hoặc thao túng bằng các phương tiện nhân tạo
(nghĩa là không phụ thuộc vào hình tướng).
39. Trọn
vẹn: Không bóc lột hay thu lợi.
40. Phi
bạo lực: Không ép buộc; nhân từ; không đe dọa.
Ngoài
những yêu cầu bên trên, để thuận tiện, chúng tôi cũng đưa thêm danh sách sau
đây về các tầng hiệu chính của giáo lý lớn thế giới (in lại từ tác phẩm Truth
vs. Falsehood):
Các giáo lý tâm linh
Abhinavagupta[2] |
655 |
A
Course in Miracles[3]
(sách hướng dẫn) |
600 |
Aggadah[4] |
645 |
A
Course in Miracles (sách giáo khoa) |
550 |
Apocrypha[5] |
400 |
Giáo
lý Thiền của Bồ Đề Đạt Ma |
795 |
Bhagavad-Gita[6] |
910 |
Book
of Kells[7] |
570 |
Book
of Mormon[8] |
405 |
Cloud
of Unknowing[9] |
705 |
Dead
Sea Scrolls[10] |
260 |
Kinh
Pháp cú (Dhammapada) |
840 |
Kinh
Kim Cương (Diamond Sutra) |
700 |
Doctrine
and Covenants: Pearl of Great Price[11] |
455 |
Sáng
thế ký |
660 |
Các
sách Phúc âm |
400 |
Phúc
âm theo Luca |
699 |
Phúc
âm cùa Thomas |
660 |
Granth
Sahib-Adi (đạo Sikhs) |
505 |
Bát
nhã tâm kinh |
780 |
Giáo
lý của Hoàng Bá |
960 |
Kabbalah[12] |
605 |
Bản
King James[13] |
475 |
Koran |
700 |
Lamsa
Bible[14] |
495 |
Lamsa
Bible (không có Cựu ước, Khải huyền, nhưng có Sáng Thế Ký, Thánh vịnh (Thi
thiên) và Châm ngôn) |
880 |
Đạo
đức kinh |
610 |
Kinh
Pháp hoa |
780 |
Midrash[15] |
665 |
Mishneh[16] |
665 |
Kinh
Tân ước (King James không có Khải huyền) |
790 |
Kinh
Tân ước (King James dịch từ tiếng Hy Lạp) |
640 |
Nicene
Creed[17] |
895 |
Thánh
vịnh (Thi thiên)[Lamsa Bible] |
650 |
Châm
ngôn (Lamsa Bible) |
350 |
Ramayana[18] |
810 |
Rhubyat
of Omar Khayyam[19] |
590 |
Rig
Veda[20] |
705 |
Talmud[21] |
595 |
Tử
thư Tây Tạng |
575 |
Torah[22] |
550 |
Trinity[23]
(khái niệm) |
945 |
Upanishads[24] |
970 |
Vedanta[25] |
595 |
Vedas[26] |
970 |
Vijnane
Bhairava[27] |
635 |
Yoga
Sutras, Patanjali[28] |
740 |
Zohar[29] |
905 |
Nỗ lực
tâm linh bắt đầu bằng việc nhận trách nhiệm chứ không phụ thuộc vào sự bốc đồng
ngây thơ hoặc cải đạo. Quan trọng là nhận ra rằng nó không chỉ là lời dạy theo
nghĩa đen mà là toàn bộ trường năng lượng của vị thầy hay tổ chức tạo ra hiệu ứng
trường tinh tế, không thể nhìn thấy được đối với đệ tử. Trí huệ chứa đựng trong
câu châm ngôn xưa cũ: “làm bạn với thiện tri thức” và tránh xa những thứ không
chính trực. Chỉ cần nhìn qua thì đã thấy dường như là ngu ngốc khi coi thường
những lời dạy của Chúa Jesus Christ, Đức Phật hay Krishna - đều có điểm chỉnh
1.000, và thay thế những giáo lý này bằng sự thần thánh hóa giả mạo những giáo
lý của những người vô chính phủ vô thần, những giáo lý sai lầm của họ đã làm
cho, ngay trong kiếp sống này, hàng trăm triệu người chết theo đúng nghĩa đen của
từ này.
Xác thực bằng trải nghiệm
Hòa
điệu tâm linh và ý định cộng với dâng hiến là có tính chuyển hóa vốn có và mang
lại những thay đổi theo hướng đi lên trong phẩm chất của trải nghiệm đời sống. Nó
xảy ra một cách tự động, đấy là do ảnh hưởng của trường và do đó, không phải là ý chí cá nhân “gây ra”. Sự hợp nhất
các giá trị tâm linh là vì lợi ích của chính nó chứ không phải vì một số lợi
ích hoặc sự kiểm soát mà người ta tưởng tượng được, ngược đời là nó chống lại
và cản trở mục đích ban đầu.
Niềm
vui tinh tế ở bên trong song hành với nỗ lực tâm linh chân chính. Phẩm chất
bình an và viên mãn ở bên trong song hành với sự hiểu biết tinh tế ở bên trong
rằng cuối cùng mình đã “trở về nhà” trong quá trình chuyển hóa từ thế giới của tự
ngã sang thế giới nhận thức mở rộng của Đại ngã. Ngoài ra còn giảm nhẹ mặc cảm
tội lỗi tâm linh ở bên trong, song hành với thái độ cẩu thả tâm linh và cố tình
chiều chuộng những đòi hỏi và mong muốn giành giật của bản ngã.
Kháng
cự
Nguồn
gốc của sự kháng cự lại nỗ lực tâm linh là cốt lõi ái kỷ của chính bản ngã, nó bí
mật tuyên bố về chủ quyền và quyền tác giả về sự tồn tại, về quyết định và hành
động của người đó. Như vậy là, mặc cho những nỗ lực cao nhất của người đó, thái
độ ngoan cố và ham muốn đạt được lợi ích hay kiểm soát cứ liên tục phát tác. Có
thể giảm bớt mô thức này bằng cách đơn giản là chấp nhận bản tính tự nhiên của
bản ngã là viển vông, tham lam, hận thù, kiêu ngạo, bực bội, ghen tị..v.v.. Đây
là những tầng được xếp chồng lên bản ngã trong quá trình phát triển theo lối tiến
hóa của nó qua vô lượng kiếp. Vì vậy, không cần phải có mặc cảm tội lỗi, vì trong
quá trình chuyển hóa từ lợi ích của tự ngã sang lợi ích của Đại ngã, ta chỉ cần
loại bỏ và vứt bỏ những cảm xúc nguyên thủy này là được rồi.
Tiến
bộ tâm linh
Xác
nhận rằng sự thật tâm linh thực sự là chủ quan, mang tính trải nghiệm, tăng dần.
Thường diễn ra như là khám phá tự phát, mặc khải tinh tế và xuất hiện nhận thức
mới, ngày càng mở rộng hơn. Đây là kết quả của việc chuyển từ đồng nhất với nội
dung sang đồng nhất với bối cảnh. Một sự thỏa mãn tinh tế, song hành với quá
trình phát triển ở bên trong khẳng định rằng hiểu biết là hậu quả của buông bỏ,
và buông bỏ đã mời gọi Ân sủng Thiêng liêng. Những sự tình này phải được coi là
những món quà, chứ không phải là thủ đắc hay kết quả của những nỗ lực cá nhân
người đó. Người đó trải nghiệm rằng lợi ích không phải do mình thủ đắc được mà
là được trao tặng; do đó, lòng biết ơn sẽ thay thế cho thái độ kiêu ngạo tâm
linh hay thái độ phù phiếm của bản ngã tâm linh đang tìm cách đòi khen ngợi.
Không
thể đoán trước được tiến bộ tâm linh, nhiều yếu tố chưa biết, trong đó có cả những
khuynh hướng nghiệp báo, có thể tạo được ảnh hưởng tới quá trình này. “Bản ngã
tâm linh” muốn trỗi dậy, đấy khi người tìm kiếm bắt đầu trải nghiệm hiện tượng
gọi là công năng đặc dị (siddhis),
thường xuất hiện trong trường năng lượng ở tầng 540 và đặc biệt là ở tầng khoảng
570. (Các tầng này đã được được mô tả chi tiết trong những tác phẩm trước). Không
được tìm kiếm công năng đặc dị, cũng không được coi chúng là tầng thứ trong tu
luyện, vì những hiện tượng này sẽ tự xuất hiện khi năng lượng tâm
linh/kundalini gia tăng. Chúng là món quà của linh hồn, phải chấp nhận với lòng
biết ơn. Không thề kiểm soát, mà chỉ có thể chứng kiến những hiện tượng này.
Bản
chất kỳ diệu của công năng đặc dị thực sự làm người ta kinh ngạc và đầy ấn tượng
khi chúng mới bắt đầu xuất hiện và có thể, cuối cùng, trở nên gần như sẽ xuất
hiện thường xuyên hơn. Thái độ khiêm tốn tạo điều kiện cho người ta chứng kiến
sự việc đang xảy ra mà không tuyên bố tác quyền, nếu không được cảnh báo trước thì
đòi tác quyền là cạm bẫy và sai lầm của đệ tử.
Việc
bắt chước các công năng đặc dị giả được các tổ chức không chính trực, tư lợi
rao bán để lấy tiền. Hành động bắt chước những công năng đặc dị là hiện tượng đặc
hữu trong nhiều nền văn hóa, chẳng hạn như những người được gọi là “thánh nhân”
ở Ấn Độ. Tuyên bố rằng mình có thể làm “phép lạ” cũng là hiện tượng trong những
người đứng đầu các giáo phái, nó lại dẫn tới tình trạng thổi phồng bản ngã. Tuy
nhiên, có những trường hợp chữa bệnh tự phát, đấy là kết quả của thôi miên do những
người chữa lành trên sâu khấu - gợi ý cộng với những màn trình diễn.
Như
đã mô tả, những hiện tượng kỳ diệu do công năng đặc dị thực hiện có thể tồn tại
trong vài năm, xuất hiện rồi biến mất. Như đã nói bên trên, những hiện tượng
này thực sự có thể làm người ta kinh ngạc và rất ấn tượng, vì chúng xảy ra mà
không cần bất kỳ ý chí cá nhân nào. Chúng rất thực, có thể xác nhận được và có
thể cực kỳ chính xác. Chúng là nguyên nhân của “sự thuyên giảm tự phát”, thường xảy ra ở những
bệnh nhân mắc một căn bệnh nào đó hoặc tất cả các loại bệnh tật và đã được ghi
lại một cách chi tiết.
Hiện
tượng kỳ diệu là do sự kích hoạt của nguyên tắc tiềm năng trở thành thực tại khi
có điều kiện thích hợp, chẳng hạn như sự hiện diện của sức mạnh bên trong của trường
năng lượng tâm linh cao cấp. Theo truyền thống, năng lượng có ảnh hưởng này được
gọi là “kundalini”, nó chỉ đơn giản là tên gọi năng lượng tâm linh chảy bên
trong hệ thống năng lượng và cuối cùng, cung cấp năng lượng và thắp sáng cơ thể
thể phách, cơ thể năng lượng tâm linh cao hơn.
Năng
lượng tâm linh xuất hiện và bắt đầu gia tăng ở tầng ý thức 200. Lợi ích ban đầu
của nó là làm thay đổi sự thống trị của não và các chất dẫn truyền thần kinh.
Nó cũng kích hoạt quá trình giải phóng endorphin sao cho quá trình xử lý thông
tin của não không những thay đổi mà còn tạo ra những thay đổi có tính chuyển
hóa của tri giác (Newberg, 2006). Như vậy là, ở tầng tâm linh cao hơn của ý thức,
chữa lành kỳ diệu xảy ra, đó là lý do vì sao con đường tâm linh nổi tiếng được
gọi là “A Course in Miracles” (Khóa học về phép lạ). Kinh nghiệm lâm sàng xác
nhận rằng sức mạnh bên trong của trường ý thức kích hoạt tiềm năng để nó trở
thành hiện thực.
Nỗ lực tâm linh mang lại nhiều lợi ích, cả nhìn thấy được lẫn không nhìn thấy được, và có rất nhiều nghiên cứu cho thấy năng lực xã hội gia tăng, cũng như những lợi ích lớn hơn về sức khỏe và hành vi, đối với cả gia đình. Ngoài ra, về mặt thống kê, tầng hạnh phúc tổng thể có liên quan trực tiếp với tầng ý thức giữ thế thượng phong, được in lại từ cuốn Transcending the Levels of Consciousness.
Tương quan giữa các tầng ý
thức và mức độ hạnh phúc
TẦNG |
LOGARIT |
% HẠNH PHÚC |
Chứng
ngộ |
700-1.000 |
100 |
An
bình |
600 |
100 |
Niềm
vui |
570 |
99 |
Tình
yêu vô điều kiện |
540 |
94 |
Tình
yêu |
500 |
89 |
Lý
trí |
400 |
79 |
Chấp
nhận |
350 |
71 |
Sẵn
sàng |
310 |
68 |
Trung
dung |
250 |
60 |
Can
đảm |
200 |
55 |
Kiêu
hãnh |
175 |
22 |
Giận
dữ |
150 |
12 |
Khát
khao |
125 |
10 |
Sợ
hãi |
100 |
10 |
Đau
khổ |
75 |
9 |
Thờ
ơ, hận thù |
50 |
5 |
Tội
lỗi |
30 |
4 |
Nhục
nhã |
2 |
1 |
Tóm
lại, chúng ta có thể thấy rằng thế giới được trải nghiệm theo lối chủ quan là hệ
quả của tầng ý thức đã được hiệu chỉnh xuất phát từ bên trong, không phục thuộc
vào các sự kiện bên ngoài. Như vậy là, không thể xác định chính xác thực tại thực
sự của thế giới, vì người ta chỉ trải nghiệm thế giới mà người ta tri giác được.
Khi nhìn từ tầng cao nhất, thế giới là hoàn hảo, vì nó mang lại cơ hội cao nhất
cho quá trình tiến hóa tâm linh.
[1] Dịch thoát ý câu: The proof of
the pudding is in the eating – ND.
[2] Abhinavagupta (950 – 1016) - triết
gia, nhà thần bí học và chuyên gia thẩm mỹ đến từ Kashmir. Ông cũng được coi là
một nhạc sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà chú giải, nhà thần học và nhà logic học
có ảnh hưởng - một nhân cách đa nhân cách có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa Ấn Độ
- ND.
[3] A Course in Miracles là một cuốn
sách năm 1976 của Helen Schucman. Tiền đề cơ bản là "phép màu" lớn nhất
chỉ đơn giản là đạt được "nhận thức đầy đủ về sự hiện diện của tình
yêu" trong cuộc sống của một người – ND.
[4] Nói chung, Aggadah là một bản
tóm tắt tác phẩm của các giáo sĩ Do Thái, kết hợp văn hóa dân gian, giai thoại
lịch sử, lời khuyên đạo đức và lời khuyên thiết thực trong các lĩnh vực khác
nhau, từ kinh doanh đến y học – ND.
[5] Apocrypha - Ngụy thư, là những
tác phẩm thường không rõ tác giả hoặc có nguồn gốc đáng ngờ - ND.
[6] Bhagavad Gita, thường được gọi
là Gita, là một bản kinh Hindu dài 700 câu, là một phần của sử thi Mahabharata,
có niên đại vào nửa sau của thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và là điển
hình cho sự tổng hợp của người Hindu. Nó được coi là một trong những thánh kinh
cho Ấn Độ giáo – ND.
[7] Phúc Âm Kells, hay Sách Kells
(tiếng Ireland: Leabhar Cheanannais) là một thủ bản minh họa Phúc Âm viết bằng
tiếng Latinh, bao gồm bốn Phúc Âm thuộc Tân Ước cùng với những chú dẫn, bảng biểu
- ND.
[8] Sách Mặc Môn là văn bản tôn giáo
của phong trào Thánh hữu ngày sau (một hình thức phục hồi Ki-tô giáo), được
Joseph Smith, Jr. xuất bản lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1830. Sách Mặc Môn được
xem là một trong những ấn phẩm sớm nhất của phong trào Thánh hữu ngày sau – ND.
[9] Cloud of Unknowing - Đám mây
không biết là một tác phẩm ẩn danh về chủ nghĩa thần bí Cơ đốc giáo được viết bằng
tiếng Anh trung đại vào nửa sau của thế kỷ 14. Văn bản là một hướng dẫn tâm
linh về cầu nguyện chiêm niệm vào cuối thời Trung Cổ. Thông điệp cơ bản của tác
phẩm này gợi ý rằng cách để biết Chúa là từ bỏ việc xem xét các hoạt động và
thuộc tính cụ thể của Chúa, đồng thời đủ can đảm để phó thác tâm trí và bản ngã
của mình cho lĩnh vực “không biết”, lúc đó người ta có thể bắt đầu thoáng thấy
bản chất của Thiên Chúa – ND.
[10] Các Cuộn Sách Biển Chết là tập hợp
981 bản ghi khác nhau được phát hiện trong các năm 1946/47, 1956 và 2017 tại 12
hang động (Các hang động Qumran) ở phía đông Hoang mạc Judaea, Bờ Tây ngày nay
- ND
[11] Pearl of Great Price - Viên Ngọc
Vô Giá cũng là tên được đặt cho một trong bốn tập thánh thư được gọi là “các
tác phẩm tiêu chuẩn” của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Jeus Christ -
ND.
[12] Kabbalah nghĩa đen là "tiếp
nhận, truyền thống" hoặc "trao truyền" là phương pháp bí truyền,
một lĩnh vực và trường phái trong chủ nghĩa thần bí Do Thái giáo. Người thực
hành Kabbalah truyền thống trong Do Thái giáo được gọi là Mequbbāl – ND.
[13] Phiên bản King James, cũng là
Kinh thánh King James và Phiên bản được ủy quyền, là bản dịch tiếng Anh của
Kinh thánh Cơ đốc cho Nhà thờ Anh, được ủy quyền vào năm 1604 và xuất bản vào
năm 1611, dưới sự tài trợ của Vua James VI và I.
[14] Thánh Kinh từ các Bản thảo
Phương Đông Cổ đại được xuất bản bởi George M. Lamsa vào năm 1933.
[15] Midrash là nhà chú giải Kinh
thánh của người Do Thái mở rộng bằng cách sử dụng phương thức giải thích của
giáo sĩ Do Thái nổi bật trong Talmud - ND.
[16] Mishneh Torah, còn được gọi là
Sefer Yad ha-Hazaka, là một bộ luật tôn giáo Do Thái giáo, Maimonides là tác giả.
Mishneh Torah được biên soạn từ năm 1170 đến 1180 CN – ND.
[17] Tín điều Nicene lần đầu tiên được
thông qua tại Hội đồng Nicaea đầu tiên vào năm 325. Năm 381, nó được sửa đổi tại
Hội đồng đầu tiên của Constantinople. Hình thức sửa đổi còn được gọi là Tín điều
Nicene, hoặc Tín điều Niceno-Constantinople – ND.
[18] Rāmāyaṇa là một sử thi cổ đại viết
dưới dạng trường ca bằng tiếng Sanskrit và là một phần quan trọng của bộ kinh Ấn
Độ giáo. Đây là bộ sử thi bằng tiếng Phạn nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ cổ đại.
Người ta cho rằng tác giả của Ramayana là nhà thơ Valmiki – ND.
[19] Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam là
tên gọi mà Edward FitzGerald đặt cho bản dịch thơ Omar Khayyam sang tiếng Anh.
Từ Rubaiyat có xuất xứ từ tiếng Ả Rập, từ tương đương của tiếng Việt là “thơ tứ
tuyệt” - ND.
[20] Rigveda là một tập hợp của các
bài thơ thánh ca Ấn Độ cổ đại tiếng Phạn. Đây là một trong bốn bản kinh thánh
kinh điển của Ấn Độ giáo được biết đến với tên kinh Vệ-đà. Rigveda là một tập hợp
1.028 bài thánh ca và 10.600 câu thơ, đóng thành mười cuốn sách – ND.
[21] Talmud là một văn bản trung tâm
của giáo sĩ Do Thái giáo. Nó cũng được gọi theo cách truyền thống là Shas, một
từ viết tắt tiếng Do Thái của shisha sedarim, "sáu thứ bậc" của Luật
Miệng của Do Thái giáo - ND.
[22] Nói chung, Torah bao gồm các câu
chuyện nền tảng của người Do Thái: lời gọi của Thiên Chúa để hình thành nên dân
tộc họ, những thử thách và đau khổ của họ, và giao ước của họ với Thiên Chúa,
trong đó bao gồm việc tuân giữ cách sống được hiện thực hóa trong một tập hợp
các nghĩa vụ tôn giáo và luân lý cũng như các luật pháp dân sự (halakha) - ND.
[23] Trinity - Ba Ngôi là Thiên Chúa,
theo giáo lý của hầu hết các giáo hội thuộc cộng đồng Kitô giáo, Thiên Chúa là
duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần –
ND.
[24] Upanishads - Áo nghĩa thư,
"kinh điển với ý nghĩa uyên áo", là một loại văn bản được xem là thuộc
hệ thiên khải, nghĩa là được "bề trên khai mở cho thấy" trong Ấn Độ
giáo. Chúng kết thúc hoặc hoàn tất các loại thánh kinh được xếp vào Phệ-đà của Ấn
Độ giáo - ND.
[25] Vedanta là một trường phái triết
học nằm trong Ấn Độ giáo xem xét đến bản chất của thế giới hiện thực. Từ
Vedanta là từ ghép của veda, tức "kiến thức" và anta, tức "cuối
cùng, kết luận", dịch ra là "kiến thức cao nhất" - ND.
[26] Vedas - Kinh Vệ-đà, hay Phệ-đà
xem như là cỗi gốc của giới Bà La Môn và là suối nguồn của nền văn minh Ấn Độ.
Véda có nghĩa là "tri thức". Trong kinh có những bản tụng ca để ca ngợi
các vị thần, như thần lửa, thần núi, thần sông... Phần lớn ca tụng những vẻ đẹp
huy hoàng, tưng bừng và mầu nhiệm của cuộc sống trong vũ trụ - ND.
[27] Vijñāna-bhairava-tantra là một
Tantra Shaiva, thuộc truyền thống Kaula Trika của Kashmir Shaivism. Rất khó xác
định niên đại chính xác của văn bản, và nó có thể được viết vào một thời điểm
nào đó từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 8 CN - ND.
[28] Yoga Sutras of Patañjali là một
tập hợp các bài kinh tiếng Phạn về lý thuyết và thực hành yoga - 195 bài kinh
và 196 bộ kinh. Kinh Yoga được biên soạn vào những thế kỷ đầu CN bởi nhà hiền
triết Patanjali ở Ấn Độ, người đã tổng hợp và sắp xếp kiến thức về yoga từ
các truyền thống lâu đời hơn - ND.
[29] Zohar là một tác phẩm nền tảng
trong văn học về tư tưởng thần bí của người Do Thái được gọi là Kabbalah. Đây
là một nhóm sách bao gồm bình luận về các khía cạnh thần bí của Torah và các giải
thích kinh thánh cũng như tài liệu về thần bí, vũ trụ thần thoại và tâm lý học
thần bí - ND.
No comments:
Post a Comment