(Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
CHƯƠNG 9
Đức
tin
Hoạt
động và hành động của con người đều dựa trên đức tin, niềm tin và tin tưởng, vì
những phẩm chất này là bản chất của chính cơ cấu và chức năng của tâm trí con
người, đấy là do nguồn gốc tiến hóa của nó. Như đã nhận xét trước đây, một cách
vô thức, mọi người đều cho rằng và tin rằng tâm trí của họ đang xử lý và báo
cáo cho họ biết về “thực tại”, và do đó, quan điểm của họ là đúng, có nghĩa là
quan điểm của người khác là sai hoặc sai lầm. Cùng với học vấn và trí tuệ tăng
lên, giả định cơ bản này được đẽo gọt cho vừa với chiều kích khiêm tốn hơn,
nhưng ngay cả khi đó, nó vẫn là nền tảng của sự tự tin của bản ngã cho rằng, nó
biết sự thật và, do đó, biết “thực tại”.
Về
cơ bản mọi người đều dễ sai lầm, như Chúa Jesus, Đức Phật, Socrates và các triết
gia sau này, chẳng hạn như René Descartes và nhiều người khác đã chỉ ra. Cùng với
việc thừa nhận rằng tâm trí rất khó phân biệt thật giả, đã xuất hiện những hệ
thống triết học lớn như được thể hiện trong những cuốn sách Great Books of
the Western World. Ngay cả khoa học Newton sau này cũng được thay thế bằng những
khám phá vĩ đại như thuyết tương đối, cơ học lượng tử, vật lý hạ nguyên tử, và
quan trọng là, Nguyên lý bất định Heisenberg và những lý thuyết khác. Nhưng luôn
luôn có những tôn giáo và truyền thống thần bí vĩ đại cũng như những giáo lý của
các nhà hiền triết vĩ đại đứng tách ra khỏi khoa học hay giới hàn lâm.
Như
đã nhận xét, ma trận của tâm trí là ngây thơ vì cơ cấu bẩm sinh của nó. Tâm trí
luôn luôn ở trong trạng thái tin là mình đúng. Ngay cả khi nghi ngờ, nó cũng làm
thế là do dựa một cách ngây thơ vào lập luận dường như là hợp lý. Mặc dù chế giễu
đức tin và sự tin cậy, nhưng chính những người hoài nghi lại thể hiện thái độ tự
tin ngây thơ và tin vào quá trình tri thức hóa chủ quan và tri giác đã được bộ
óc của họ xử lý. Người hoài nghi nói rằng, tâm trí không thể biết được sự thật,
và sau đó, ngược đời là, họ lại sử dụng chính tâm trí để chứng minh giá trị của
thái độ nghi ngờ và ngờ vực; do đó, ngay cả người hoài nghi, về cơ bản, cũng được
thúc đẩy bởi sự tin tưởng và niềm tin ngây thơ.
Vì trước
hết là nhờ đức tin và sự tin cậy mà người ta mới nỗ lực, cần thiết nhất là có phương
tiện để xác định sự thật và thực tại từ điểm quan sát không bị bóp méo trong
quá trình suy nghĩ hoặc thiên kiến. Không thể dùng cảm xúc để lấp đầy sự thiếu
hụt này, vì chúng là những phản ứng bản năng đối với tri giác, không có năng lực
nội tại nhằm xác minh thực tại. Vì vậy, khoa học/diễn ngôn triết học hiện nay
có những thuật ngữ như “trực giác” và “phản trực giác”, đó là luận cứ về giá trị
của cái gọi là báo cáo mang tính chủ quan của “người chứng kiến”. Cuộc tranh luận
triết học hiện nay trong khoa học liên quan tới câu hỏi liệu “chủ quan” có hiện
thực hơn hơn “khách quan” hay ngược lại. Diễn ngôn như thế thường kết thúc bằng
phỏng đoán lan man và trí tuệ hóa lòng vòng, hầu hết đều chủ yếu nhắm tới những
nhà trí thức khác, cũng có xu hướng hạn chế tương tự.
Trong
quá trình tìm kiếm những nguồn gốc đáng tin cậy, không thể nghi ngờ của sự thật
có thể kiểm chứng được, tâm trí của con người dựa vào các nhà tiên tri, giấc
mơ, ảo ảnh, pháp sư, học thuyết tôn giáo, uy quyền tôn giáo, lịch sử, trực
giác, mặc khải, thần thoại, trí thông minh, truyền thuyết, lời tiên tri, bói
toán, thiên văn học, chiêm tinh học, người có thể đi từ thế giới này sang thế
giới khác, người có thể tiếp xúc với thần linh, khảo cổ học, cổ sinh vật học, hệ
thống chính trị, triết học, siêu hình học, lý trí, logic, vật lý Newton, cơ học
lượng tử, thuyết tương đối, vật lý lý thuyết nâng cao và vật lý hạ nguyên tử,
và hiện nay là sự hiện thực hóa được Peter Lynds (2003) trình bày. Peter Lynds chỉ
ra rằng, những hạn chế giống nhau - thậm chí cả thời gian và độ dài của chúng -
đã được nghiên cứu ý thức phát hiện, chủ yếu là những phóng chiếu của ý thức,
không có tồn tại vật chất thực sự nào. Không có thực tại tự tồn tại như là “thời
gian”, không có “bây giờ” hay khoảnh khắc thực sự nào, và do đó, trong thực tại
vật lý, không có vị trí tương đối phụ thuộc vào thời gian. Như vậy là, Lynds giải
quyết được nghịch lý “Zeno[1]”
cổ điển được người ta nói tới ngay từ thời Hy Lạp cổ đại.
Nghiên
cứu ý thức cung cấp cho chúng ta phương tiện phân biệt thật giả, cũng như khả
năng xác định tầng sự thật trong so sánh với sự thật tuyệt đối (thang từ 1 đến
1.000). Ảnh hưởng có thể so sánh được với ảnh hưởng của việc tìm ra kính thiên
văn đối với thiên văn học, hoặc kính hiển vi trong lĩnh vực sinh học theo nghĩa
là, nghiên cứu ý thức cung cấp cho chúng ta công cụ thực dụng tạo điều kiện thuận
lợi cho việc mở ra lĩnh vực nghiên cứu hoàn toàn mới, có công cụ khách quan, thực
tế nhằm xác minh và xác nhận tầng của sự thật. Phương pháp luận nghiên cứu ý thức
đơn giản (điểm hiệu chỉnh 605), dễ hiểu và không cần trí tuệ, không yêu cầu
trình độ học vấn hay hệ thống niềm tin cao cấp nào, vì nó mang tính trải nghiệm,
phi trí tuệ và tự thể hiện thành vật chất. Nói một cách đơn giản, sự thật (thực
tại) làm cho cơ bắp mạnh lên ở những người có điểm hiệu chỉnh trên 200, và giả
dối (không có thực) làm cho họ yếu đi, tương tự như giấy quỳ có màu hồng khi
nhúng vào acid và có màu xanh khi nhúng vào chất kiềm.
Cơ sở
của hiệu chỉnh ý thức
Sự thật
làm cho cơ bắp mạnh lên, còn giả dối làm cho nó yếu đi là khám phá lâm sàng theo
lối thực nghiệm (Hawkins, 1995). Hiện tượng đó là do sự kiện là sự thật tồn tại
như một thực tại thực sự, trong khi giả dối chỉ đơn giản là không có chất nền của
thực tại. Do đó, phản ứng kiểm tra cơ là “có” hoặc “không có” (“không”). Cơ chế
được làm rõ bằng cách tìm hiểu những nguyên tắc cơ bản của vật lý lượng tử,
theo đó Nguyên lý Bất định Heisenberg là “tờ giấy quỳ”. Những hiện tượng này là
hệ quả của sự sụp đổ của “trạng thái sóng” của thế năng thành “trạng thái hạt”
của hiển lộ và hiện thực. Chúng là kết quả của ý định và chính quá trình quan
sát. Người quan sát và cái được quan sát trở thành một đơn vị hoạt động. Sự thật
có tồn tại thực sự và do đó làm sụp đổ hàm sóng. Giả dối không có thực tại
(không tồn tại) và do đó, không có phản ứng (cánh tay yếu đi). Do đó, giống như
điện, dây dẫn hoặc “bật” và truyền dòng điện (“có”) hoặc “không bật” (“không”).
Mô tả chi tiết được trình bày trên web site cá nhân của Henry Stapp và Scott
Jeffrey (Jeffrey và Colyer, 2007).
Quá
trình tiến hóa của đức tin
Khi
trường năng lượng phi tuyến tính, đầy sức mạnh, vô biên vô tế của ý thức (Ánh
sáng của Thiên Chúa) tương tác với vật chất, thì sự sống có nguồn gốc từ chất nền
hữu cơ xuất hiện (được hiệu chỉnh là đúng ở tầng Vô biên Vô tế). Các hình tướng
của đời sống ban đầu không có nguồn năng lượng bên trong để có thể tồn tại và
phát triển; cho nên, nó phải tìm năng lượng và lấy từ môi trường trong khu vực
xung quanh. Tuy nhiên, thực vật sử dụng chất diệp lục để chuyển ánh sáng mặt trời
thành năng lượng, nhưng động vật phải nhận chất dinh dưỡng cần thiết bằng cách
tiếp xúc và sáp nhập. Do đó, động vật phải học cách phân biệt các chất duy trì
sự sống có thể sử dụng được với những chất có hại cho đời sống và do đó, phát
triển trí thông minh.
Tự
thân khả năng sống sót là dựa vào quá trình tiến hóa của khả năng phát triển việc
thu thập thông tin đáng tin cậy, giải thích và sắp xếp dữ liệu (ví dụ, phân biệt
“tốt” với “xấu”). Đây là cái mà sau này được gọi là trí thông minh, với khả
năng bẩm sinh của nó là sắp xếp, phân tầng và lưu trữ dữ liệu tuyến tính thông
qua ý nghĩa (bản chất) và giá trị đối với việc sinh tồn. Dựa vào thông tin đúng
đắn để sống sót sẽ tạo ra ma trận, đức tin (mức độ tin cậy) tiến hóa từ ma trận
này.
Ở
con người, không chỉ khả năng xử lý và giải thích dữ liệu tuyến tính phát triển,
mà còn có năng lượng phi tuyến tính của ý thức/nhận thức, được gọi là “tâm linh”,
vì cội nguồn của năng lượng này là phi vật chất và không thể định nghĩa được bằng
các khái niệm tuyến tính. Nó cũng tiến hóa cùng với quá trình phát triển của con
người và được gọi là “linh hồn của con người”. Đặc điểm của nó là sự xuất hiện cơ
thể năng lượng, phi vật chất (“thể phách”), tồn tại và tiến hóa một cách độc lập
với chính cơ thể vật chất. Như vậy là, linh hồn có liên quan với bản chất, và là
nguyên nhân của hình tướng và định nghĩa tuyến tính.
Như
có thể thấy từ quá trình phát triển mang tính tiến hóa của nó, đức tin là nhu cầu
sinh học cho khả năng sống còn, nằm trong cấu trúc cơ bản của bản ngã, như là ý
thức về tự ngã. Năng lực nhận thức về và trải nghiệm tự ngã là phẩm chất nhận
thức mang tính tri giác, là bẩm sinh của thế giới động vật. Như vậy là, nhân loại
sống bằng đức tin. Bản ngã ngây thơ tin trước hết vào cốt lõi ái kỷ của chính bản
ngã (ví dụ, tri giác/ý kiến), rồi bản ngã nhận quyền tự chủ và chủ quyền như là
trọng tài của thực tại. Bản ngã, do cơ cấu và nguồn gốc của nó, không nhận thức
được những hạn chế của chính mình.
Đức
tin và lý trí
Sự
phân đôi như thế có thể được mô tả một cách chính xác hơn là tin cậy vào thực tại
mang tính bối cảnh phi tuyến tính, tối thượng, không nhìn thấy được so với tin
cậy vào sự thật dựa trên nội dung tuyến tính hạn chế của tư duy. Nói chung, các
cấu trúc mang tính trí tuệ tuyến tính, ví dụ như khoa học và triết học, được
coi là giả định khách quan, có thể kiểm chứng và chứng minh được, trong khi thực
tại phi tuyến tính được mô tả là chủ quan, thần bí, không thể diễn tả được và
(trước khi có nghiên cứu về ý thức) không thể xác nhận được.
Vụ
án Scopes là ví dụ nổi tiếng nhất về cuộc đối đầu giữa những khác biệt của những
hệ hình này. Thực ra, như đã viết trước đây, không có xung đột thực sự nào, ngoài
“xung đột” giữa chất hữu cơ và chất vô cơ, hoặc giữa các thực thể sống và không
sống. Hạn chế này chỉ là do tạo tác của giới hạn của điểm nhìn, nó xảy ra khi
chủ đề được giải quyết từ những tầng ý thức khác nhau (Van Biema, 2006).
Trên
thang đo ý thức đã được hiệu chỉnh, như đã nói trước đây, chiều kích tuyến
tính, có thể chứng minh được có điểm hiệu chỉnh lên tới 499, còn những tầng phi
tuyến tính của ý thức lại từ 500 trở lên, là trải nghiệm được, có thể xác nhận được
và có thể chỉ ra được, nhưng không thể “chứng minh được” bằng các quy tắc của
lý trí hoặc logic, vì chúng vượt ra ngoài hệ hình của thực tại, được xác định bởi
tầng ý thức từ 400 tới 499. Thông minh là khả năng phân biệt các mô thức
(nguyên tắc) cơ bản, rồi sau đó vận dụng một cách sáng tạo để giải quyết các vấn
đề.
Sự
thay đổi trong sinh lý não (xem Chức năng não, Chương 4) ở tầng 200 cho thấy sự
dịch chuyển chất dẫn truyền thần kinh. Sự thay đổi lớn này trong sinh lý căn bản
của chính não bộ là xác nhận vai trò quan trọng của việc dựa vào các giá trị
tinh thần và đóng góp, vai trò và ý nghĩa của chúng. Như vậy là, quá trình phát
triển lên những tầng cao hơn của con người được thể hiện thông qua việc dụng
trí thông minh nhằm phụng sự cho ý định đã thăng hoa thành tâm linh.
Tò
mò: Động cơ của tâm trí để sống sót
Muốn
cho đời sống tiếp tục tồn tại, sinh vật phải liên tục tìm kiếm nguồn năng lượng
bên ngoài, cũng như để xác định nơi có nước, điều kiện vật chất và điều kiện môi
trường thuận lợi. Nó đòi hỏi phải phát triển năng lực thu thập mẫu và xác định dữ
liệu và cuối cùng là nhận ra những nguyên tắc cơ bản. Mô thức “tìm kiếm và lấy
mẫu” là quá trình được xác định như là sự tò mò và thám hiểm, sau đó thông tin
được lưu trữ, xử lý và phân loại nhằm thu được hiệu quả. Năng lực này xuất hiện
như là trí thông minh, và sản phẩm mang tính biểu tượng tuyến tính của nó là lý
trí và tư duy.
Lý
trí là khả năng phân loại và xử lý các biểu tượng và hình ảnh, xuất phát từ việc
rút ra những nguyên tắc từ thế giới vật lý để trải nghiệm có thể được mở rộng
thêm và được chau chuốt nhờ khả năng tư duy, mà không cần tiếp xúc hay trải
nghiệm thế giới vật lý. Như vậy là, cuộc thí nghiệm có thể được làm bên ngoài địa
điểm vật chất và lời giải thích có thể làm cho cuộc phiêu lưu thêm phấn khích
và có thêm niềm vui từ “những điều mới mẻ”, cũng như tái xác nhận những thứ đã
quen. Những cuộc khám phá của con amip để sinh tồn đã trở thành “nghiên cứu và
phát triển” của thế giới ngày nay, được coi là hoạt động quan trọng của tất cả
các lĩnh vực kinh doanh, công nghiệp và thương mại.
Các
lý thuyết khoa học tiến hóa qua suốt nhiều thế kỷ thông qua cuộc thảo luận và
sàng lọc khá căng thẳng, và hiện vẫn đang tiến hóa, đặc biệt thuyết lượng tử (Rosenblum,
2006). Lợi ích của đức tin vào khoa học không phải là chỉ trí tuệ, mà còn bao gồm
cả sản phẩm công nghệ và những phương tiện khác nhằm xác minh và chứng minh mức
độ tin cậy của quá trình xử lý tuyến tính. Ngược lại, trong quá khứ, việc xử lý
thông tin trong lĩnh vực tâm linh phi tuyến tính là hoàn toàn có tính chủ quan
và mang tính trải nghiệm và do đó, dựa vào lời chứng của chính người trải nghiệm.
Lợi ích của nhận thức tâm linh phi tuyến tính là có thể quan sát được và kiểm
chứng được, nhưng không thể chứng minh được như những dữ liệu tuyến tính có thể
xác minh được. Trải nghiệm tâm linh là hệ quả tất yếu của năng lượng tần số cao
vượt ra ngoài phạm vi ý thức của những hiện tượng có thể chứng minh được. Có thể
quan sát được những biểu hiện của chúng, cũng như có thể nhận biết được thái độ
thân thiện, trái ngược với thái độ thờ ơ. Do nó tác động lên sinh lý não và những
quá trình nội tiết tố, bối cảnh tâm linh tác động lên tầng sinh học, đã được
các nhóm hồi phục dựa trên đức tin trên toàn thế giới chứng minh, trong những
nhóm này, cái trước đây là bất khả thi thì giờ đây lại trở thành khả thi.
Ý định,
cam kết và hòa điệu tâm linh làm thay đổi bối cảnh, trong đó nội dung bị tác động
và bị sửa đổi. Tương tự như thế, khi áp dụng Nguyên lý bất định Heisenberg, ý định
tâm linh làm sụp đổ hàm sóng, biến tiềm năng thành thực tại. Ý định tâm linh
cũng có ảnh hưởng đáng kể tới chính tri giác, sao cho các sự kiện trong đời sống
và sự tương tác của con người được trải nghiệm, chứng kiến và hiểu biết từ tầng
tri giác cao hơn (ví dụ, những hiện tượng “kỳ diệu”). Nó cũng dẫn đến những
thay đổi lớn về cảm xúc, hậu quả của sự dịch chuyển thuận lợi hơn của chức năng
não và con đường xử lý thông tin của nó, cũng như thay đổi các hormone thần
kinh và chất dẫn truyền thần kinh.
Cùng
với tiến bộ tâm linh, quá trình chứng kiến mang tính trải nghiệm chủ quan cũng
có sự chuyển hóa, song hành với những thay đổi tích cực, phù hợp với biểu hiện
bên ngoài của thế giới và những sự kiện của nó. Người ta phát hiện được rằng nỗ
lực tâm linh là rất thú vị, mang lại phần thưởng và kết quả là sự hài lòng và lợi
ích, cuối cùng vươn tới tầng, chỉ có thể được mô tả là “kỳ diệu”, vì chúng xuất
hiện một cách tự phát, đấy là do sức mạnh bên trong của bối cảnh phi tuyến
tính, chứ không phải do nội dung tuyến tính “gây ra”.
Ý
nghĩa, tầm quan trọng và giá trị được bộc lộ qua trải nghiệm ngay trong quá
trình chúng xuất hiện, chứ không phải dường như xảy ra như là kết quả của quan
hệ “nhân quả” mà người ta giả định, theo logic. Quy luật của bối cảnh là những
quy luật mang tính thống trị, tạo ảnh hưởng và xác suất xảy ra ngày càng gia
tăng, do đó, khác với nội dung của tư duy thông thường.
Với
sự thăng tiến của ý thức, những sự thật của thực tại tâm linh sẽ trở nên hiển
nhiên theo lối tự phát, mặc dù tâm trí tư duy không thể hiểu được theo lối logic.
Chứng kiến các sự kiện dẫn tới kết quả là hiểu biết ngày càng được đưa vào bối
cảnh mới, vượt xa hiểu biết bình thường. Quá trình chuyển hóa diễn ra khá rõ ở
tầng ý thức 540 trở lên, tất cả các trải nghiệm đều được chuyển hóa. Tới tầng ý
thức từ 570 đến 590, vẻ đẹp và sự hoàn hảo ngày càng mở ra và tăng lên, và chứng
kiến những hiện tượng dường như là kỳ diệu có thể trở thành gần như liên tục.
Phát
triển đức tin
Năng
lực tâm lý dành cho phát triển đức tin của mỗi người bắt đầu ngay từ khi đứa trẻ
vẫn còn phụ thuộc vào quá trình nuôi dạy đáng tin cậy, trong đó nuôi dưỡng phù
hợp với tầng chịu đựng của đứa trẻ sơ. Với quá trình huấn luyện phù hợp, khả
năng chịu đựng khó khăn sẽ tăng lên, đấy là do đức tin gắn liền với kỳ vọng. Giai
đoạn này cũng tạo ảnh hưởng lên xu hướng lạc quan hay bi quan, sẽ xuất hiện
trong những giai đoạn sau, cũng như sự tin tưởng vào các nhân vật có thẩm quyền.
Cha
mẹ khen thưởng những hành vi tích cực và ngăn chặn những hành vi tiêu cực thậm
chí có thể có những biện pháp trừng phạt nếu không nghe lời. Sau đó bản ngã/tự
ngã tích hợp mô thức của cha mẹ về “tôt đối với tôi” và “xấu đối với tôi” cũng
như các khái niệm “tốt-xấu” về thẩm quyền. Từ sự phân đôi này xuất hiện mặc cảm
tội lỗi và thái độ căm ghét hay chấp nhận chính mình. Đau đớn vì mặc cảm tội lỗi
giảm bớt khi người ta phát hiện được trách nhiệm, lời bào chữa, và hợp lý hóa. Sau
đó, xu hướng tin tưởng được hợp nhất vào quá trình phát triển như là kỳ vọng
tâm linh và niềm tin vào Thiên Chúa và sự thật tâm linh.
Mọi
người đều có tầng ý thức có thể hiệu chỉnh được ngay từ khi mới chào đời, không
phụ thuộc vào những yếu tố hoặc hoàn cảnh trên thế gian này. Nó phù hợp với
nguyên tắc kinh điển của nghiệp lực, mặc dù đây không phải là thuật ngữ của phương
Tây, có thể tìm thấy những biểu hiện của nó trong các tôn giáo phương Tây (số
phận, định mệnh). (Tầng sự thật có thể hiệu chỉnh được của nguyên tắc nghiệp lực
là 1.000.)
Tầng
ý thức có thể hiệu chỉnh được của trẻ sơ sinh cho biết một cách đại khái mức độ
tiến hóa tâm linh đã xảy ra và cũng ngụ ý khối lượng công việc cần phải làm. Tất
cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều công nhận nguyên tắc cơ bản này, họ cũng đồng
ý rằng kiếp sau của linh hồn là hậu quả của những lựa chọn tâm linh đã được thực
hiện khi người đó còn sống trên trần gian.
Những
giáo lý nhấn mạnh Cứu rỗi và/hoặc Chứng ngộ là để tạo điều kiện cho người ta chấp
nhận số phận của con người, song hành với những lợi ích của Hồng ân xuất phát từ
đức tin. Vì vậy, lời dạy “hãy tin ta” bắt nguồn từ giáo lý của Krishna, Đức
Phật, Chúa Jesus Christ, Muhammad và các đại giác giả của người Aryan cổ đại. “Vương
quốc của Thiên Chúa ở trong bạn” được xác nhận bằng hiệu chỉnh ý thức, cũng như
bằng trải nghiệm chủ quan của con người về sự chuyển dịch bản sắc từ tự ngã
sang Đại ngã (Hawkins, 2007).
Có
thể tin một cách ngây thơ và sai lầm vào những vị thầy không phù hợp hoặc không
chính trực hay đi sai đường, như đã trình bày chi tiết trong tác phẩm Truth vs. Falsehood. Đức tin đặt nhầm chỗ
là nền tảng của những thảm họa, cả cá nhân lẫn tập thể - sự ngây thơ của những
tín đồ ngây thơ bị các nhà lãnh đạo và giáo lý chỉ có điểm hiệu chỉnh 90 hoặc
thấp hơn bóc lột. Vì vậy, tin vào sự thật có thể kiểm chứng được là con đường dẫn
tới Cứu rỗi và Chứng ngộ. Ngược lại, tin vào những thứ sai lầm là cái bẫy dành cho
những người không cảnh giác. Vì vậy, Chúa Jesus Christ, Đức Phật và tất cả những
bậc thầy vĩ đại khác đã dạy rằng, tội lỗi cơ bản của con người là do vô minh và
số phận của anh ta phụ thuộc vào việc vượt qua sự vô minh này. Vì vậy, việc xác
định và xác minh sự thật là cực kỳ quan trọng đối với số phận của con người, cả
tập thể lẫn cá nhân. Như chúng ta có thể thấy qua phân tích lịch sử, tầng ý thức
của nhân loại đã dần dần được nâng lên qua nhiều thế kỷ.
Tự nhiên thần giáo và hữu thần luận ở Mỹ
Mặc
dù chủ nghĩa thế tục được những nhóm người hoạt động chính trị/pháp luật được
tài trợ rất mạnh truyền bá, nhưng phần lớn người Mỹ (92%) tin vào Chúa, và 90%
có quan hệ dựa trên tôn giáo hoặc đức tin (Baylor Survey of Religion,
2006). Chỉ có 5% là người vô thần (tỷ lệ trên toàn thế giới cũng như thế). Cuộc
khảo sát cho biết Chúa có thể được coi là người độc đoán (31%), nhân từ (23%),
phê phán/phán xét (16%), hoặc ở xa (24%). Trong số những người không tham gia
các nhóm tôn giáo, 60% tin vào Chúa. Như vậy là, đại đa số người Mỹ tin vào Quyền
lực Cao hơn.
Thông
thường, mức độ tin cậy, sự tham gia và quan niệm về Chúa dao động trong suốt cuộc
đời, kết quả là có những giai đoạn rất tin, cũng như những giai đoạn thờ ơ. Sau
đó, lại hồi sinh, đặc biệt là để ứng phó với những căng thẳng và thiên tai. Vì
vậy, đức tin có thể hoạt động hoặc tiềm ẩn.
Cần có lý trí
Như
đã thấy, sự tin tưởng và niềm tin ngây thơ, mà không có đối trọng của lý trí,
logic và học vấn có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Như vậy là, mức độ
tin cậy của nguồn thông tin cho thấy vai trò quan trọng của khả năng phân biệt
sự thật có thể kiểm chứng được với giả dối. Duy lý đòi hỏi thông tin chính xác cộng
với khả năng xử lý dữ liệu thông qua trải nghiệm và trưởng thành, trí tuệ và tính
xác thực gia tăng là sản phẩm cuối cùng của trải nghiệm. Như vậy là, bằng quá
trình xử lý, tuyến tính được tích hợp và tổng hợp vào bối cảnh của trường tổng
thể phi tuyến tính của sự biết và hiểu.
Nếu
không có lý trí làm chất xúc tác và đưa vào bối cảnh mới, đức tin tôn giáo có
thể dẫn đến chủ nghĩa cực đoan phi lý và những quá lạm mang tính tôn giáo, trở
thành cuồng tín. Vì vậy, nạn diệt chủng và tình trạng hỗn loạn dã man đã xảy ra
trong suốt chiều dài của lịch sử và hiện đang được thể hiện như là chủ nghĩa khủng
bố Hồi giáo và chủ nghĩa phát xít.
Như
đã thể hiện trên toàn thế giới, không có lý trí và tính duy lý làm đối trọng, Hồi
giáo hiện đang gây chiến ở nhiều nước khác nhau. Những lời chỉ trích mà thế giới
nhắm vào Hồi giáo là tôn giáo này không có lý trí và thậm chí không hiểu được
giá trị của nó (Warraq, 2002). Khó khăn là do Hồi giáo chỉ trích lý trí, coi nó
là đe dọa đối với đức tin (theo kinh Koran).
Ảnh
hưởng của tôn giáo trong xã hội Mỹ
Ảnh
hưởng tổng thể của các tôn giáo khác nhau có điểm hiệu chỉnh như sau:
Vô
thần luận 165
Giới
hàn lâm 190
Chủ
nghĩa tự do cá nhân 185
Chủ
nghĩa khoái lạc 180
Tương
đối luận đạo đức 180-185
Ngụy
biện (Chính trị) 185
Hồi
giáo 190
Chủ
nghĩa thế tục 190
Hollywood
190
Tâm
lý học tiến hóa 210
Kitô
giáo 450
Do
Thái giáo 450
Công
giáo 450
Tin
lành 450
Chủ
nghĩa truyền thống 450
Đạo
Phật 455
Hiệp
sỹ 455
Chương
trình 12 bước 525
Như
đã trình bày bên trên, nguồn gốc của xung đột và tranh cãi chính trị-xã hội-triết
học diễn ra giữa các nhóm xã hội có điểm hiệu chỉnh dưới 200 và các nhóm có điểm
hiệu chỉnh trong những tầng 400. Nó chứng minh truyền thuyết của người Mỹ da đỏ,
nói rằng bên trong mỗi người đều có hai con sói. Một con ác độc và giận dữ,
ghen tị, tham lam, kiêu ngạo, và có thái độ kiêu hãnh sai lầm và bản ngã kiêu
ngạo. Con kia là tốt và là niềm vui, hòa bình, tình yêu, hy vọng, thanh thản, khiêm
tốn, nhân hậu, rộng lượng và chân thật. Vì thế, hãy cẩn thận với con sói mà bạn
đang nuôi (Wheat, 2007). Một con sói dẫn đến tình trạng nô lệ, con kia dẫn tới
tự do (freedom) và tự do (liberty) (Williams, 2007, trích dẫn qua Alan Keyes).
Đức
tin - hòn đá tảng của nước Mỹ
Kể từ
ngày thành lập, tự nhiên thần giáo/hữu thần luận là nền tảng chính của nước Mỹ
và nó tiếp tục là nền tảng vì sự tiếp tục của tự do, cơ hội và sức mạnh, chính
Hiến pháp Hoa Kỳ đảm bảo như thế. Chi tiết đã được giải thích rõ ràng trong các
tác phẩm God and Religion in America (Gingrich, 2006) and The
Preacher and the Presidents (Gibbs and Duffy, 2007). Rõ ràng là từ tất cả
những điều đã trình bày, chính đức tin có sức mạnh đến mức nó giữ được sự chính
trực về mặt đạo đức khi đối mặt với thách thức và đe dọa hủy diệt trên toàn thế
giới. Do đó, các vị tổng thống đã củng cố lý trí bằng những cuộc điều tra đạo đức
sâu rộng và diễn ngôn mang tính mục vụ.
Mục
sư Billy Graham đã phục vụ 11 vị tổng thống và đất nước trong suốt 50 năm. Vì vậy,
đức tin không chỉ truyền cảm hứng mà còn có tác dụng cực kỳ thực tiễn trong khả
năng đưa logic và lý trí vào bối cảnh. Những quyết định nghiệt ngã được ban
hành trong thời chiến là hệ quả tất yếu của bối cảnh lịch sử bao trùm của những
mối đe dọa đến sự sống còn. Sau đó là những thách thức to lớn trước cuộc xâm lăng
của các chế độ toàn trị (ví dụ, Đế quốc Nhật Bản và Đức Quốc xã), rồi đến quân
đội cộng sản, và hiện nay, chủ nghĩa toàn trị Hồi giáo và cuộc tấn công vào
chính nước Mỹ.
Căng
thẳng khác của nhiệm kỳ tổng thống là thường xuyên bị đe dọa ám sát, nhiều vị cựu
tổng thống đã từng bị thương hoặc bị sát hại. Căng thẳng ghê gớm khác là lòng hận
thù thường xuyên nhắm vào tất cả các vị tổng thống, dưới mọi hình thức phỉ báng
và đe dọa. Không có niềm tin, các vị tổng thống không thể thực hiện được chức
năng của mình.
[1] Nghịch lý Zeno bao gồm nhiều vấn
đề thuộc lĩnh vực triết học được cho là do triết gia Hy Lạp Zeno xứ Elea đặt ra
nhằm củng cố học thuyết “vạn vật quy nhất” của Parmenides, phủ định tính hiển
nhiên của các giác quan, phủ nhận niềm tin vào có sự khác biệt hay có sự biến đổi,
đặc biệt ông cho rằng mọi sự chuyển động không tồn tại vì đó chỉ là ảo giác mà
thôi - ND.
No comments:
Post a Comment