Pages

December 9, 2020

Chủ nghĩa tư bản và tự do (Phần 3)

 


FRIEDMAN MILTON

Đinh Tuấn Minh dịch

 

Chương I: Mối quan hệ giữa tự do kinh tế và tự do chính trị

Người ta thường nghĩ rằng chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực riêng biệt và hầu như giữa chúng không có sự liên quan; tự do cá nhân là vấn đề chính trị, còn phúc lợi vật chất là vấn đề kinh tế; và bất kỳ một thể chế chính trị nào cũng có thể kết hợp tùy ý với các thể chế kinh tế. Biểu hiện đương đại chính của ý tưởng này là trào lưu ủng hộ "chủ nghĩa xã hội dân chủ" của những người lên án mạnh mẽ sự kìm hãm tự do cá nhân của “chủ nghĩa xã hội toàn trị" ở Nga. Ngoài ra, còn có những người tin rằng quốc gia nào cũng hoàn toàn có thể áp dụng những đặc trưng cơ bản của cơ chế kinh tế Nga mà vẫn đảm bảo quyền tự do cá nhân thông qua các thể chế chính trị. Luận điểm chính của chương này sẽ chứng minh quan điểm đó là một ảo tưởng, bởi lẽ giữa kinh tế và chính trị có mối liên quan mật thiết với nhau. Chỉ tồn tại một vài kết hợp khả dĩ giữa thể chế kinh tế và thể chế  chính trị. Đặc biệt nếu xét khía cạnh bảo vệ quyền tự do cá nhân, một xã hội xã hội chủ nghĩa không thể là một xã hội dân chủ.

Các thể chế kinh tế đóng vai trò kép trong việc thúc đẩy một xã hội tự do. Một mặt, bản thân sự tự do trong các thể chế kinh tế đã là một thành tố của tự do theo cách hiểu phổ quát, do đó tự do kinh tế có mục đích tự thân. Ở góc độ thứ hai, tự do kinh tế cũng là một phương tiện không thể thiếu để đạt được tự do chính trị.

Vai trò đầu tiên trong hai vai trò trên của tự do kinh tế cần được đặc biệt nhấn mạnh bởi vì nhìn chung, giới trí thức thường có thành kiến sâu sắc và không coi khía cạnh này của tự do là quan trọng. Họ thể hiện sự khinh thường đối với những gì họ cho là khía cạnh vật chất của cuộc sống. Họ đề cao tầm quan trọng và đặc biệt chú ý đến việc mưu cầu các giá trị cao quý hơn của riêng cá nhân họ. Tuy nhiên, ngoại trừ dân trí thức ra thì đối với đa số công dân của một quốc gia, tầm quan trọng trực tiếp của tự do kinh tế ít nhất cũng tương đương với tầm quan trọng gián tiếp của nó trong vai trò là một phương tiện để đạt được tự do chính trị.

Công dân Vương quốc Anh sau Thế Chiến II không được phép đi nghỉ tại Hoa Kỳ do sự kiểm soát hối đoái. Vậy là họ bị tước đoạt mất quyền tự do cơ bản cũng giống như công dân Hoa Kỳ bị từ chối cơ hội đi nghỉ mát tại Nga vì quan điểm chính trị của anh ta. Một bên có vẻ là sự hạn chế tự do về mặt kinh tế và bên kia là về mặt chính trị, song thực chất chẳng có sự khác biệt cơ bản nào giữa hai loại cả.

Theo luật, một công dân Hoa Kỳ phải nộp một khoản bằng 10% thu nhập để mua một loại hợp đồng bảo hiểm hưu trí do nhà nước quản lý. Đây cũng có thể coi là sự tước đoạt một phần tự do cá nhân của họ. Sự tước đoạt này lớn đến mức nào và nó giống với sự tước đoạt tự do tôn giáo (thường được xem là sự tước đoạt về mặt “dân sự” hoặc “chính trị” hơn là “kinh tế”) ra sao, được thể hiện rõ nhất trong trường hợp của nhóm nông dân người Amish1. Về nguyên tắc, nhóm này coi các chương trình hưu trí bắt buộc của liên bang là một sự xâm phạm tự do cá nhân và từ chối trả tiền thuế và cũng không nhận các phúc lợi. Kết quả là, một số vật nuôi của họ đã bị bán đấu giá để đáp ứng yêu cầu chi trả tiền an sinh xã hội. Đúng là số công dân coi bảo hiểm tuổi già bắt buộc như sự tước đoạt tự do có thể không nhiều, nhưng hầu như tất cả các tín đồ của tự do đều cho là như vậy.

Việc một công dân Hoa Kỳ chịu sự chi phối bởi luật pháp nhiều bang khác nhau khiến không thể tự do theo đuổi nghề nghiệp mà anh ta lựa chọn trừ khi có giấy phép hành nghề cũng có thể coi là bị tước đi một phần tự do thiết yếu. Tương tự như vậy, trong trường hợp một người muốn trao đổi một số hàng hóa của mình để lấy một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ nhưng bị ngăn cản bởi hạn ngạch. Nếu xét theo luật "thương mại công bằng", một người California sẽ bị bỏ tù nếu anh ta bán thuốc giảm đau Alka Seltzer với giá thấp hơn giá ấn định của nhà sản xuất cũng không phải là ngoại lệ. Điều tương tự như vậy xảy ra với người nông dân khi anh ta không được trồng số lượng lúa mì mong muốn, và còn nhiều ví dụ khác nữa. Rõ ràng, tự do kinh tế, dù xét vai trò cấu thành hay tự thân, là một phần cực kỳ quan trọng của sự tự do tuyệt đối.

Được xem là phương tiện để đạt được tự do chính trị, thể chế kinh tế đóng vai trò quan trọng vì chúng có ảnh hưởng đến sự tập trung cũng như phân tán quyền lực. Dạng thức kinh tế trực tiếp mang lại tự do kinh tế và thúc đẩy tự do chính trị chính là chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, bởi vì nó tách bạch quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị và theo đó tạo ra khả năng bù đắp lẫn nhau giữa chúng.

Mọi bằng chứng lịch sử đều thể hiện mối quan hệ giữa tự do chính trị và thị trường tự do. Tôi tin rằng dù là ở đâu hay khi nào, thì không một xã hội nào lại có được tự do chính trị trên một phạm vi rộng lớn mà không sử dụng những thể chế ví như thị trường tự do để tổ chức phần lớn các hoạt động kinh tế.

Do sống trong một xã hội tự do, nên chúng ta thường quên rằng, cái được gọi là tự do chính trị chỉ mới diễn ra đối với một phần thế giới, bởi vì chế độ nhà nước tiêu biểu của nhân loại thường mang tính độc tài, nô lệ, và khổ đau. Vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các nước phương Tây nổi lên như một ngoại lệ kinh điển giữa xu hướng phát triển chung của toàn lịch sử. Tự do chính trị thời kỳ này rõ ràng đã đi cùng với thị trường tự do và sự phát triển của các thể chế tư bản chủ nghĩa. Điều tương tự cũng đã xảy ra trong thời đại hoàng kim của Hy Lạp và trong những ngày đầu của đế chế La Mã.

Lịch sử chỉ ra một điều rằng chủ nghĩa tư bản là điều kiện cần cho tự do chính trị. Và hiển nhiên đó không phải là điều kiện đủ. Phát-xít Ý, Phát-xít Tây Ban Nha, nước Đức ở các thời điểm khác nhau vào khoảng 70 năm về trước, Nhật Bản trước Thế chiến I và II, Chế độ Sa hoàng Nga ở những thập niên trước Thế chiến I, đây là những xã hội khó có thể được mô tả là có chế độ tự do chính trị. Tuy nhiên, trong mỗi xã hội đó, doanh nghiệp tư nhân vẫn là loại hình thống trị trong các tổ chức kinh tế. Như vậy rõ ràng là tồn tại khả năng các thể chế kinh tế, mà về cơ bản mang tính tư bản chủ nghĩa, song hành với các thể chế chính trị phi tự do.

Ngay cả trong những xã hội đó, công dân còn được tự do hơn công dân của một nhà nước độc tài toàn trị hiện đại như Liên Xô hoặc Đức Quốc xã, nơi mà chế độ độc tài kinh tế được kết hợp với chế độ độc tài chính trị. Ngay cả ở nước Nga dưới thời Sa hoàng, một số công dân trong một số trường hợp có thể thay đổi công việc của họ mà không cần sự cho phép của nhà cầm quyền bởi vì chủ nghĩa tư bản và sự tồn tại của sở hữu tư nhân dưới thời này đã giúp kìm hãm một phần quyền lực của nhà nước tập quyền.

Mối quan hệ giữa tự do chính trị và tự do kinh tế rất phức tạp và hoàn toàn không phải là quan hệ đơn phương. Vào đầu thế kỷ XIX, Bentham và nhóm Triết học cấp tiến (the Philosophical Radicals) có khuynh hướng coi tự do chính trị là phương tiện để đạt được tự do kinh tế. Họ tin rằng quần chúng đang bị kìm kẹp bởi những giới hạn áp đặt lên họ và rằng nếu cải cách chính trị cho phép đa số dân chúng được đi bỏ phiếu thì họ sẽ bỏ phiếu cho những gì tốt đẹp cho họ: chế độ tự do kinh tế (laissez faire). Khi nhìn lại, người ta không thể nói rằng họ đã sai lầm. Đã có những biện pháp cải cách chính trị sâu rộng đi cùng với những cải cách kinh tế theo đường lối tự do kinh tế. Sự thay đổi về thể chế kinh tế này đã làm gia tăng phúc lợi đáng kể cho quần chúng.

Chiến thắng của chủ nghĩa tự do Bentham ở Anh thế kỷ XIX đã kéo theo một phản ứng trước hành động can thiệp ngày càng sâu rộng của chính quyền vào các vấn đề kinh tế. Khuynh hướng dẫn đến chủ nghĩa tập thể này gia tăng mạnh mẽ cả ở Anh và các nơi khác trước hai cuộc thế chiến. Phúc lợi xã hội chứ không phải là tự do đã trở thành ưu tiên hàng đầu của các nước dân chủ. Nhận thức được mối đe dọa tiềm ẩn tới chủ nghĩa cá nhân, những học giả truyền nhân của trường phái Triết học Cấp tiến là Dicey, Mises, Hayek, Simons, và nhiều người khác nữa lo sợ rằng xu hướng thiên về kiểm soát tập trung các hoạt động kinh tế là “Đường về nô lệ”, như tựa đề Hayek đã đặt cho tác phẩm của ông phân tích sâu sắc quá trình này. Các học giả này cùng nhấn mạnh rằng tự do kinh tế là một phương thức dẫn đến tự do chính trị.

Các sự kiện xảy ra sau khi Thế chiến II kết thúc vẫn thể hiện sự không đồng điệu giữa tự do kinh tế và tự do chính trị. Kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã thực sự can thiệp vào tự do cá nhân. Tuy nhiên, chí ít là ở một số quốc gia, nó chưa dẫn đến triệt tiêu tự do, mà lại góp phần khiến các chính sách kinh tế đảo chiều. Nước Anh một lần nữa là một minh chứng điển hình. Bước ngoặt ở đây có lẽ là sự ra đời của luật "kiểm soát việc làm", mà Đảng Lao động cho rằng cần phải áp dụng để thực hiện các chính sách kinh tế bất chấp nhiều hoài nghi. Nếu được thông qua và thực thi triệt để, luật này sẽ phân bổ tập trung các nguồn lực vào các ngành nghề. Điều này mâu thuẫn sâu sắc với các quyền tự do cá nhân vì thế nó chỉ được được thực thi trong một vài trường hợp không đáng kể và cuối cùng luật này đã bị bãi bỏ sau một thời gian ngắn có hiệu lực. Việc hủy bỏ luật này tạo ra sự thay đổi dứt khoát trong các chính sách kinh tế, đánh dấu bằng việc giảm phụ thuộc vào các "kế hoạch" và "chương trình" tập trung, bằng việc gỡ bỏ nhiều kiểm soát, và chú trọng hơn vào thị trường tư nhân. Sự chuyển đổi tương tự trong chính sách cũng đã diễn ra ở hầu hết các nước dân chủ khác.

Sự lý giải thỏa đáng nhất cho những thay đổi chính sách này là kế hoạch hóa tập trung chỉ gặt hái được những thành công hạn chế hay thậm chí là thất bại hoàn toàn khi cố đạt được những mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, thất bại này chính là do kế hoạch hóa tập trung tác động đến chính trị và sự miễn cưỡng theo đuổi lý luận của nó, bởi vì khi làm vậy đòi hỏi phải chà đạp thô bạo lên những quyền cá nhân quý giá. Cũng có thể sự thay đổi chính sách này chỉ là một gián đoạn tạm thời trong khuynh hướng chủ nghĩa tập thể của thế kỷ này. Kể cả như vậy, nó cũng minh họa mối quan hệ chặt chẽ giữa tự do chính trị và thể chế kinh tế.

Nếu chỉ bằng chứng lịch sử thôi thì chưa đủ. Có thể đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi sự mở rộng tự do xảy ra cùng lúc với sự phát triển của các thể chế tư bản và thị trường. Tại sao lại tồn tại mối liên quan giữa các sự kiện đó? Mối quan hệ logic giữa tự do kinh tế và tự do chính trị là gì? Để thảo luận những câu hỏi này, đầu tiên, chúng ta sẽ coi thị trường như một thành tố trực tiếp của tự do, và sau đó là mối quan hệ gián tiếp giữa thể chế thị trường và tự do chính trị. Ngoài ra quá trình này sẽ giúp chúng ta phác họa các thể chế kinh tế lý tưởng cho một xã hội tự do.

Là một người theo chủ nghĩa tự do, chúng ta lấy tự do của cá nhân, hoặc có thể là gia đình, làm mục đích tối thượng khi đánh giá các thể chế xã hội. Tự do theo nghĩa này liên quan đến mối tương quan giữa người với người; nó không có nghĩa lý gì đối với Robinson Crusoe trên hoang đảo (mà không có anh bạn Thứ Sáu). Robinson Crusoe trên đảo hoang phải chịu sự "giam hãm", anh ta bị hạn chế về "sức lực" và không có nhiều lựa chọn thay thế, nhưng không có nghĩa là tự do mà anh ta có liên quan đến cuộc thảo luận của chúng ta ở đây (nhưng chúng ta không bàn luận về kiểu tự do mà anh ta có). Tương tự như vậy, trong một xã hội, sự tự do không liên quan đến cách một cá nhân sử dụng sự tự do của họ; vì đó không phải là một xã hội hoàn toàn dựa trên luân lý. Thật vậy, mục tiêu chính của tự do là để cho các cá nhân tự giải quyết các vấn đề luân lý. Những vấn đề luân lý "thực sự" quan trọng là những gì một cá nhân sẽ phải đối diện trong một xã hội tự do – đó là anh ta nên làm gì với tự do của mình. Do vậy, có hai hệ giá trị mà một người tự do chú trọng – một là những giá trị có liên quan đến mối quan hệ giữa con người, đó là bối cảnh mà anh ta đặt ưu tiên hàng đầu cho tự do; và hai là các giá trị liên quan đến việc sử dụng quyền tự do của mình, đó là lãnh địa của luân lý cá nhân và triết học.

Người theo chủ nghĩa tự do quan niệm về bản chất con người là không hoàn hảo. Anh ta cho rằng vấn đề tiêu cực của tổ chức xã hội, dù là trong việc ngăn chặn "người xấu" làm việc ác hay là cho phép "người tốt" làm việc thiện, là như nhau; và tất nhiên, người "xấu" và người "tốt" có thể là cùng một người, tùy thuộc vào ai là người đánh giá họ.

Vấn đề cơ bản của tổ chức xã hội là làm sao để phối hợp các hoạt động kinh tế giữa rất nhiều người. Ngay cả trong những xã hội tương đối lạc hậu, thì việc phân công lao động và chuyên môn hóa các chức năng một cách rộng khắp là cần thiết để sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có. Trong các xã hội tiên tiến, mức độ phối hợp cần thiết để tận dụng triệt để những lợi thế của khoa học, kĩ thuật hiện đại còn lớn hơn rất nhiều. Để sản xuất ra loại bánh mỳ chúng ta ăn hàng ngày, hàng triệu người phải phối hợp với nhau, đó là chưa kể việc sản xuất ô tô hàng năm. Thách thức đối với các tín đồ của tự do chính là việc tạo ra sự hòa hợp giữa sự tương thuộc rộng khắp này với tự do cá nhân.

Về cơ bản, chỉ có hai cách để phối hợp các hoạt động kinh tế cho hàng triệu người. Một là chỉ huy tập trung gắn với sử dụng mệnh lệnh ép buộc. Đây là chiến lược quân sự và được sử dụng trong nhà nước độc tài toàn trị hiện đại. Cách khác là dựa trên sự hợp tác tự nguyện của các cá nhân – hay cách thức vận hành của thị trường.

Khả năng phối hợp thông qua hợp tác tự nguyện dựa trên một nguyên lý cơ bản, nhưng lại thường bị bác bỏ, đó là đôi bên cùng có lợi, miễn là đó là giao dịch song phương tự nguyện và dựa trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau.  

Vì thế sự trao đổi có thể thúc đẩy hợp tác mà không cần ép buộc. Mô hình hoạt động xã hội được tổ chức thông qua trao đổi tự nguyện là nền kinh tế tư nhân tự do kinh doanh – thường được gọi là chủ nghĩa tư bản cạnh tranh.

Ở hình thức đơn giản nhất của nó, ví dụ như một xã hội bao gồm một số hộ gia đình độc lập như ngày xưa, thì là một tập hợp các Robinson Crusoes. Mỗi hộ sử dụng các nguồn lực mình kiểm soát để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ dùng để trao đổi lấy hàng hóa, dịch vụ do hộ khác sản xuất, với điều kiện thỏa thuận mua bán được cả hai bên chấp thuận. Nhờ vậy các hộ có khả năng thỏa mãn nhu cầu của mình một cách gián tiếp bằng cách sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho hộ khác, chứ không phải trực tiếp sản xuất hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tức thì của mình. Động lực trong việc áp dụng cách thức gián tiếp này chắc chắn là sự gia tăng các sản phẩm nhờ phân công lao động và chuyên môn hoá các công đoạn. Vì các hộ luôn có phương án thay thế, đó là tự sản xuất trực tiếp, nên họ không cần phải thực hiện bất kỳ trao đổi nào trừ khi có lợi. Do đó, việc trao đổi sẽ không xảy ra trừ khi cả hai bên cùng có lợi. Nhờ thế sự trao đổi diễn ra không cần ép buộc.

Chuyên môn hóa chức năng và phân công lao động sẽ không thể mang lại hiệu quả cao nếu các đơn vị sản xuất cuối cùng là các hộ gia đình. Trong xã hội hiện đại, chúng ta đã đi xa hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp hình thành đóng vai trò trung gian giữa các cá nhân với chức năng là nhà cung cấp dịch vụ và người mua bán hàng hóa. Và tương tự, chuyên môn hoá chức năng và phân công lao động không thể phát triển được mạnh nếu chúng ta phải tiếp tục trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng. Kết quả là, tiền tệ ra đời đóng vai trò là một phương tiện xúc tác cho trao đổi và giúp tách bạch hành vi mua và bán hàng.

Mặc dù, các doanh nghiệp và tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hiện tại, cũng như làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, song đặc trưng cốt yếu của công cụ thị trường trong việc tạo ra quan hệ hợp tác được bộc lộ đầy đủ ngay cả trong nền kinh tế trao đổi đơn giản dù không tồn tại các doanh nghiệp hay tiền tệ. Trong mô hình đơn giản đó, hay là trong nền kinh tế phức tạp hơn với sự hiện diện của các doanh nghiệp và dùng tiền làm phương tiện trao đổi, thì sự hợp tác luôn mang tính chất cá nhân và tự nguyện với điều kiện: (a) các doanh nghiệp là của tư nhân, để sao cho các bên thực hiện hợp đồng xét đến cùng là những cá nhân và (b) các cá nhân hoàn toàn có quyền tham gia hoặc không tham gia vào bất kỳ một trao đổi cụ thể nào, do đó mọi giao dịch hoàn toàn là tự nguyện.

Việc nêu ra các điều kiện một cách chung chung như trên dễ hơn rất nhiều so với việc cố gắng phát biểu chúng một cách chi tiết, hoặc xác định chính xác các thiết chế thuận lợi nhất để duy trì chúng. Thật vậy, phần lớn các công trình nghiên cứu kinh tế kỹ thuật đã đề cập đến những câu hỏi này. Điều kiện tiên quyết cơ bản là phải duy trì luật pháp và trật tự để ngăn ngừa sự đàn áp của cá nhân này với cá nhân khác, tạo hiệu lực cho các hợp đồng tự nguyện, nhờ đó đem lại tính chất "tư nhân". Bên cạnh đó, có lẽ các vấn đề nan giải nhất nảy sinh từ sự độc quyền, điều này làm hạn chế tự do đáng kể bởi nó ngăn cản các cá nhân có các lựa chọn thay thế khi thực hiện một trao đổi cụ thể, và từ "hiệu ứng lân cận2" làm ảnh hưởng đến các bên thứ ba khi việc tính phí tổn hoặc đền bù cho họ là không khả thi. Những vấn đề này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương sau.

Vì vậy, miễn là sự tự do trao đổi được duy trì hiệu quả thì tính năng cốt yếu của cách thức tổ chức thị trường các hoạt động kinh tế là ngăn ngừa ai dó can thiệp vào phần lớn hoạt động của một người khác. Người tiêu dùng được bảo vệ khỏi sự bắt chẹt của người bán vì còn có những người bán hàng khác để mua. Người bán được bảo vệ khỏi sự chèn ép của người mua vì còn có những khách hàng khác để bán. Người lao động được bảo vệ khỏi sự áp đặt của người tiêu dùng bởi vì họ có thể bán cho người tiêu dùng khác. Và thị trường thực hiện điều này tự động, không nhằm vào ai và không cần có quyền lực tập trung.

Thực tế thì nguyên nhân chính của việc phản đối một nền kinh tế tự do chính xác là bởi vì thị trường vận hành quá tốt. Nó mang lại cho mọi người những gì họ thực sự muốn chứ không phải những gì mà một nhóm người nào đó nghĩ rằng họ nên có. Hầu hết những tranh luận chống lại thị trường tự do về cơ bản là do thiếu niềm tin vào tự do.

Sự tồn tại của một thị trường tự do tất nhiên không loại bỏ vai trò của nhà nước. Ngược lại, nhà nước rất cần thiết khi cùng lúc thực hiện vai trò là một diễn đàn quyết định các "luật chơi" và như một trọng tài giải thích và thực thi các luật đã được quy định. Thị trường làm giảm đáng kể phạm vi mà các phương tiện chính trị can thiệp nhằm giải quyết vấn đề, và qua đó giảm thiểu phạm vi và mức độ chính quyền tham gia trực tiếp vào “trò chơi”. Đặc trưng của hành động thông qua các kênh chính trị là nó có xu hướng bắt buộc sự tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt. Trong khi đó ưu điểm lớn nhất của thị trường là nó cho phép sự đa dạng. Theo ngôn từ chính trị, đó một hệ thống đại diện theo tỷ lệ. Mỗi người có quyền lựa chọn màu sắc cho chiếc cà vạt mình muốn và mua nó; anh ta không cần phải xem số đông muốn màu sắc nào và rồi hùa theo nếu anh ta thuộc về thiểu số.

Đó chính là nét đặc trưng của thị trường chúng ta thường bàn đến khi nói rằng thị trường mang lại tự do kinh tế. Nhưng đặc trưng này còn có ý nghĩa vượt xa khía cạnh kinh tế hạn hẹp. Tự do chính trị có nghĩa là một người không bị áp bức bởi những người khác. Mối đe dọa cơ bản tới tự do là quyền lực trấn áp nằm trong tay của một vị vua, nhà độc tài, một chính thể đầu sỏ, hoặc một đám đông nhất thời. Việc duy trì tự do đòi hỏi phải loại bỏ sự tập trung quyền lực này ở mức triệt để và với bất cứ loại quyền lực nào không thể loại bỏ thì cần phân tán chúng thông qua một hệ thống kiểm soát cân đối lẫn nhau (check and balance). Bằng cách đưa tổ chức hoạt động kinh tế thoát khỏi sự kiểm soát của quyền lực chính trị, thị trường loại bỏ nguồn quyền lực cưỡng chế này. Nó cho phép sức mạnh kinh tế trở thành đối trọng kiểm soát quyền lực chính trị hơn là công cụ tăng cường.

Quyền lực kinh tế có thể được phân tán rộng rãi. Không có định luật bảo toàn nào buộc phải đánh đổi các trung tâm hiện thời để phát triển của các trung tâm quyền lực kinh tế mới. Mặt khác, quyền lực chính trị lại khó phân tán hơn. Có thể có nhiều chính quyền nhỏ và độc lập nhưng để duy trì nhiều trung tâm quyền lực chính trị bình đẳng trong một chính quyền lớn duy nhất sẽ gian nan hơn rất nhiều so với việc duy trì nhiều trung tâm kinh tế trong một nền kinh tế lớn duy nhất. Có thể có nhiều triệu phú trong một nền kinh tế lớn. Nhưng liệu có thể có nhiều hơn một nhà lãnh đạo thực sự xuất sắc, người mà được nhân dân đặt trọn niềm tin vào nhiệt huyết và sức lực của anh ta? Nếu chính quyền trung ương có thêm quyền lực thì thường các chính quyền địa phương sẽ bị suy giảm về quyền lực. Có vẻ quyền lực chính trị ở đây giống như là một tập hợp quyền lực cố định để phân chia. Do đó, nếu quyền lực kinh tế gắn liền với quyền lực chính trị, thì sự tập quyền dường như là không thể tránh khỏi. Mặt khác, nếu quyền lực kinh tách biệt với quyền lực chính trị, thì nó có thể trở thành một phương thức kiểm soát và đối trọng với quyền lực chính trị.

Sức mạnh của luận điểm trừu tượng này có lẽ tốt nhất nên được chứng minh thông qua các ví dụ. Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét một ví dụ giả định để có một hình dung về các nguyên tắc liên quan, và sau đó thông qua một số ví dụ thực tế từ các sự kiện gần đây minh họa cách thức thị trường vận hành để duy trì tự do chính trị.

Một đặc điểm của xã hội tự do đó là các cá nhân có quyền tự do vận động và tuyên truyền công khai cho những thay đổi căn bản trong cơ cấu xã hội miễn là sự vận động này trong khuôn khổ cho phép và không bao gồm vũ lực hay các hình thức ép buộc khác. Đó là dấu hiệu của tự do chính trị trong một xã hội tư bản nơi mọi người có thể một công khai ủng hộ và thậm chí phục vụ cho chủ nghĩa xã hội. Tương tự, tự do chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa nghĩa là để mọi người tự do ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Nhưng làm sao sự tự do ủng hộ chủ nghĩa tư bản có thể được duy trì và bảo vệ trong một xã hội xã hội chủ nghĩa?

Để một người ủng hộ điều gì đó thì trước tiên họ phải có khả năng tự kiếm sống. Điều này làm này sinh một vấn đề trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, vì tất cả các công việc đều nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của chính quyền. Để một chính quyền xã hội chủ nghĩa cho phép cán bộ của mình ủng hộ các chính sách đối lập với quan điểm chính thống, cần có hành động “tự từ chối” (self-denial), và đây là điều thực sự khó khăn như đã được minh chứng qua kinh nghiệm của Hoa Kỳ sau Thế Chiến II liên quan đến vấn đề “an ninh” xảy ra với các công chức của Chính quyền Liên bang.

Nhưng chúng ta hãy cứ giả sử hành vi “tự từ chối” này xảy ra. Song để sự ủng hộ chủ nghĩa tư bản có một sức nặng nào đó, thì những người chủ xướng phải có khả năng tài trợ cho phong trào của họ, ví dụ như tổ chức các cuộc mít-tinh công khai, phát tờ rơi, trả tiền cho thời gian phát thanh, xuất bản báo và tạp chí, và các chi phí khác. Làm thế nào để họ có thể gây quỹ? Có thể và có lẽ trong xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ có những người thu nhập cao, thậm chí là sở hữu những nguồn vốn rất lớn ví như dưới dạng trái phiếu chính phủ, nhưng họ hẳn nhiên là cán bộ cấp cao. Việc một số quan chức trong chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn có thể giữ được ghế của mình mặc dù công khai ủng hộ chủ nghĩa tư bản vẫn có thể xảy ra. Nhưng gần như là điều hoang tưởng khi tưởng tượng những quan chức cấp cao nhất chế độ xã hội chủ nghĩa lại đi tài trợ cho những hoạt động "lật đổ" như vậy.

Lựa chọn duy nhất để gây quỹ cho phong trào là những khoản tiền nhỏ từ một bộ phận đông đảo các cán bộ cấp thấp. Nhưng việc này cũng phi thực tế. Vì để khai thác nguồn này, thì phải thuyết phục được nhiều người, và vấn đề chính yếu mà chúng ta cần giải quyết đó là làm thế nào để phát động và tài trợ cho một chiến dịch để thực hiện điều đó. Các phong trào cải cách cấp tiến trong xã hội tư bản chưa bao giờ được tài trợ theo cách này. Chúng thường được hỗ trợ bởi một vài cá nhân giàu có – những người bị phong trào thuyết phục, cụ thể bởi những tên tổi bật gần đây như Frederick Vanderbilt Field, Anita McCormick Blaine hay Corliss Lamont, hoặc xưa kia thì có Friedrich Engels nếu lùi lại xa hơn. Đó chính là vai trò của sự chênh lệch giàu nghèo đối với việc duy trì tự do chính trị, một vai trò bảo trợ hiếm khi được ghi nhận.

Trong một xã hội tư bản, chỉ cần thuyết phục được một vài “Mạnh Thường Quân” gây quỹ là có thể theo đuổi được bất kỳ ý tưởng gì, và có rất nhiều người như vậy, rất nhiều nguồn hỗ trợ độc lập. Và thậm chí không cần phải thuyết phục những nhà bảo trợ hoặc các tổ chức tài chính có quỹ tài trợ về tính đúng đắn của ý tưởng được truyền bá. Chỉ cần thuyết phục họ rằng sự phát triển và nhân rộng ý tưởng đó có thể tạo ra những thành công về mặt tài chính, và tờ báo hoặc tạp chí, những cuốn sách hoặc các khoản đầu tư khác sẽ thu được lợi nhuận. Ví dụ như, một nhà xuất bản để cạnh tranh được sẽ không đi xuất bản chỉ những gì mà cá nhân họ tán đồng, tiêu chuẩn của họ phải là khả năng có một thị trường đủ lớn để mang lại lợi nhuận khả quan cho khoản đầu tư của mình.

Bằng cách này, thị trường phá vỡ vòng luẩn quẩn và cuối cùng có thể nuôi sống những chiến dịch đó bằng số tiền tài trợ nhỏ từ rất nhiều người mà không cần phải thuyết phục họ trước. Viễn cảnh này dường như rất khó xảy ra trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khi chỉ có một nhà nước với quyền lực tuyệt đối.

Hãy thử thả lỏng trí tưởng tượng và giả định rằng có một chính quyền xã hội chủ nghĩa gồm những người khao khát bảo vệ tự do nhận thức được vấn đề này. Liệu họ có thể tài trợ hoạt động này? Có thể, nhưng thật khó để hình dung cách làm của họ. Họ có thể thiết lập một cơ quan chuyên trợ cấp các hoạt động tuyên truyền “lề trái”. Nhưng họ biết hỗ trợ ai? Nếu ai cần họ cũng hỗ trợ thì quỹ sẽ chẳng mấy chốc mà cạn tiền, vì ngay cả chủ nghĩa xã hội cũng không thể loại bỏ một quy luật kinh tế cơ bản là với một mức giá đủ cao sẽ tạo ra một nguồn cung lớn. Chỉ cần các cuộc vận động cải cách được đền đáp thỏa đáng, nguồn ủng hộ sẽ là không giới hạn.

Hơn nữa, tự do ủng hộ những phong trào không có tính đại chúng không có nghĩa là việc vận động như vậy không kèm chi phí. Trái lại, chẳng xã hội nào có thể ổn định nếu việc vận động cho các phong trào cải cách toàn triệt lại không tốn kém, không cần nhiều nguồn tài trợ. Việc một người hi sinh để ủng hộ những chiến dịch mà họ tin tưởng sâu sắc là một việc hoàn toàn thích đáng. Thật vậy, chúng ta cần bảo vệ tự do của những người sẵn sàng “tự từ chối”, vì nếu không làm như vậy, tự do sẽ thoái hóa thành sự phóng túng và vô trách nhiệm. Điều cần thiết là chi phí ủng hộ các phong trào cải cách không có tính đại chúng phải ở mức chấp nhận được và không bị cấm đoán.

Nhưng ngay cả như vậy vẫn chưa vượt qua hết các chướng ngại. Trong một xã hội thị trường tự do, chỉ cần có tiền là đủ. Các nhà cung cấp giấy in sẵn sàng bán cho bất kể tờ nào từ báo bình dân như Daily Worker cho đến cao cấp hơn như The Wall Street Journal. Nhưng trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, có tiền chưa hẳn là đủ. Nếu giả sử có những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản, họ sẽ phải thuyết phục một nhà máy quốc doanh sản xuất giấy bán cho họ, một nhà in quốc doanh in tờ rơi cho họ, và một bưu điện quốc doanh phân phát tờ rơi tới mọi người, và một cơ quan nhà nước khác thuê một phòng để tổ chức hội họp, v.v.

Có lẽ cũng có một số cách giúp người ta vượt qua những khó khăn này và bảo toàn tự do trong một xã hội xã hội chủ nghĩa. Không thể nói rằng đó là điều bất khả thi. Tuy nhiên, rất rõ ràng là có nhiều khó khăn thực sự cản trở việc tạo dựng các thiết chế có thể duy trì sự bất đồng chính kiến​​. Theo như tôi được biết, không ai trong số những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và cũng ủng hộ cho tự do đã từng thực sự phải đối mặt với vấn đề này, nhưng họ cũng chưa có được những bước khởi đầu đáng kể nào trong việc xây dựng những thể chế cho phép tự do tồn tại dưới chế độ chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, có một điều rõ ràng rằng một thị trường tư bản tự do nuôi dưỡng tự do.

Một ví dụ ấn tượng minh họa cho những nguyên tắc trừu tượng này là trường hợp của Thủ tướng nước Anh Winston Churchill. Từ năm 1933 cho đến khi Thế chiến II bùng nổ, Churchill không được phép phát biểu trên sóng phát thanh Anh quốc, vốn do chính phủ độc quyền quản lý thông qua đài BBC (British Broading Coporation). Đây là trường hợp của một công dân tiên phong của đất nước, một thành viên Quốc hội, một cựu bộ trưởng nội các, một người đang nỗ lực tìm mọi cách có thể để thuyết phục đồng bào mình hành động để tránh khỏi các mối đe dọa của Hitler. Ông không được phép phát biểu trên đài phát thanh với người dân Anh lúc bây giờ vì BBC là một cơ quan độc quyền của chính phủ và quan điểm của ông vốn quá "gây tranh cãi".

Một ví dụ nổi bật khác là vụ “Blacklist Fadeout” (Danh sách đen mờ dần) được đăng trên tờ Time trong số ngày 26 tháng 1 năm 1959. Tờ báo này viết:

Nghi thức trao giải Oscar tượng trưng cho đỉnh cao danh giá ở Hollywood, nhưng hai năm trước danh giá ấy đã bị hoen ố. Khi Robert Rich được công bố là nhà biên kịch đoạt giải với tác phẩm The Brave One (Người Dũng Cảm), nhưng ông ta không bao giờ bước ra nhận giải. Robert Rich thực ra là một bút danh của một người trong nhóm khoảng 150 nhà văn. . . bị ngành giải trí liệt vào danh sách đen kể từ năm 1947 vì bị nghi ngờ là Cộng sản hoặc đồng lõa với Cộng sản. Đây thực sự là một sự bẽ bàng vì Viện Hàn lâm Điện ảnh đã ra quy định cấm người Cộng sản hoặc những người viện dẫn Tu chính án số năm tham gia cuộc đua giành giải Oscar. Tuần trước, cả quy định này và bí ẩn về nhân thân của Rich đã bất ngờ được viết lại.

Rich hóa ra là Dalton Trumbo (nổi tiếng với tiểu thuyết phản chiến Johnny Got His Gun), là một thành viên trong nhóm "Hollywood Ten" từ chối làm chứng tại phiên điều trần về chủ nghĩa cộng sản trong ngành công nghiệp điện ảnh năm 1947. Nhà sản xuất phim Frank King, người đã kiên định cho rằng Robert Rich chỉ là "một thằng cha có râu ở Tây Ban Nha": "Chúng tôi có nghĩa vụ với các cổ đông của mình là phải mua kịch bản tốt nhất có thể. Ông Trumbo mang The Brave One tới và chúng tôi đã mua lại nó "...

Thực tế mà nói sự kiện này đã chính thức đặt dấu chấm hết cho danh sách đen Hollywood. Với các nhà văn bị liệt vào danh sách đen, thì cái kết ngầm đã diễn ra từ lâu. Theo báo cáo, ít nhất 15% kịch bản phim hiện tại ở Hollywood được viết bởi các nhà văn trong danh sách đen. Nhà sản xuất King cho biết "Có nhiều bóng ma ở Hollywood hơn cả trong nghĩa trang Forest Lawn3. Bất kỳ công ty nào trong thành phố cũng sử dụng các tác phẩm của những người trong danh sách đen. Chúng tôi chỉ là người đầu tiên xác nhận những đều mà ai cũng biết."

Ai đó, cũng giống như tôi, có niềm tin rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ hủy hoại tất cả các quyền tự do của chúng ta, ai đó có thể chống lại nó kiên quyết và mạnh mẽ, tuy nhiên, tôi đồng thời cũng tin rằng trong một xã hội tự do việc một người bị ngăn cản không được hội họp tự nguyện với những người cùng đam mê chỉ bởi vì anh ta tin vào hoặc đang góp phần xây dựng chủ nghĩa cộng sản là một điều không thể chấp nhận được. Tự do của anh ta bao gồm tự do ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Tất nhiên, tự do cũng bao gồm quyền tự do của những người khác không đồng quan điểm với anh ta. Danh sách đen Hollywood là một điều luật phi tự do, tước đoạt tự do bởi vì nó là một cơ chế thông đồng, được sử dụng để cưỡng chế ngăn chặn những trao đổi tự nguyện. Nó đã không hiệu quả bởi vì trên thị trường, việc cố gắng bảo vệ danh sách đen này sẽ rất tốn kém. Xét trên khía cạnh thương mại, thực tế là những người chủ doanh nghiệp luôn có động cơ kiếm nhiều tiền nhất có thể, đã bảo vệ tự do cho những cá nhân bị liệt vào danh sách đen bằng cách tuyển dụng dưới một hình thức khác hoặc khuyến khích người khác tuyển dụng họ.

Nếu Hollywood và ngành công nghiệp điện ảnh là các doanh nghiệp nhà nước hoặc nếu ở Anh, nhà đài BBC chắc chắn sẽ đặt câu hỏi về vấn đề tuyển dụng ở đây. Như vậy thì nhóm "Hollywood Ten" hoặc các nhóm tương tự rất khó có thể tìm được việc làm. Trong hoàn cảnh đó, những người ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân và doanh nghiệp tư nhân, hoặc thậm chí là những người ủng hộ cho bất kỳ quan điểm nào khác với quan điểm của chính quyền sẽ gần như không thể kiếm được việc làm.

Một ví dụ khác về vai trò của thị trường trong việc bảo vệ tự do chính trị, đã được hé lộ qua trường hợp chủ nghĩa chống cộng cực đoan Mc Carthy4. Nếu đặt bên lề những vấn đề về quyền hạn và nhiệm vụ liên quan cũng như sự chính đáng của những lời buộc tội thì các cá nhân, mà ở đây cụ thể là các công chức nhà nước, dựa vào điều gì để bảo vệ mình trước những lời vu cáo và chứng cứ vô trách nhiệm về các vấn đề mà lương tâm họ không cho phép đưa ra? Nếu họ viện dẫn Tu chính án số năm thì đó sẽ chẳng khác một sự giễu cợt vô nghĩa đối với việc phụng sự chính quyền.

Cứu cánh của họ ở đây chính là sự tồn tại của một nền kinh tế thị trường tư nhân mà ở đó họ có thể kiếm sống. Nhưng xin nhắc lại, sự bảo vệ này không phải là tuyệt đối. Nhiều nhà tuyển dụng tư nhân tiềm năng, có thể đúng hoặc sai, không thích thuê những người bị tai tiếng. Quả là có hiện tượng phí tổn mà những người liên đới phải chi trả ít được cảm thông hơn so với phí tổn mà những người cổ vũ những sự nghiệp không mang tính đại chúng nói chung phải gánh chịu. Nhưng thông điệp chính ở đây là phí tổn là có chừng mực và không bị ngăn cấm, đấy là so với trường hợp làm việc cho chính quyền là lựa chọn duy nhất.

Một điều thú vị khác cần lưu ý là, phần nhiều những người có liên quan rõ ràng có tham gia vào các lĩnh vực cạnh tranh nhất của nền kinh tế như kinh doanh nhỏ lẻ, thương mại, nông nghiệp. Đây là những lĩnh vực mà thị trường tiến gần nhất đến thị trường tự do lý tưởng. Một người mua bánh mì không thể biết được liệu thứ bột mỳ đó được trồng bởi một người Cộng sản hay một người Cộng hòa, bởi một người ủng hộ chủ nghĩa hợp hiến hay một tay phát xít, bởi một người da đen hay da trắng. Đây chính là cách thức thị trường không phân biệt ai với ai, nó tách biệt các hoạt động kinh tế khỏi quan điểm chính trị và bảo vệ con người khỏi bị phân biệt đối xử trong các hoạt động kinh tế vì những lý do không liên quan đến năng suất - bất kể là những lý do đó gắn liền với quan điểm hay màu da của họ.

Ví dụ này cho thấy, trong xã hội chúng ta, các nhóm có nhu cầu lớn nhất trong việc bảo vệ và củng cố chủ nghĩa tư bản cạnh tranh chính là những nhóm thiểu số vốn có thể dễ dàng trở thành đối tượng của sự ngờ vực và thù địch của đa số. Đó có thể là những trường hợp dễ thấy như người da đen, người Do Thái, người sinh ra ở nước ngoài và các nhóm khác nữa. Tuy nhiên, nghịch lý là những kẻ thù của thị trường tự do – Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản – tập hợp khá nhiều thành viên từ các nhóm này. Thay vì công nhận rằng sự tồn tại của thị trường đã bảo vệ họ trước thái độ phân biệt của những người cùng quốc tịch, họ lại nhầm lẫn cho rằng sự phân biệt đối xử còn sót lại là do thị trường.

(Còn nữa)

Chú thích:

(1) Một nhóm các tín hữu Kitô giáo duy truyền thống có nguồn gốc Thụy Sỹ. Người Amish được biết đến với cuộc sống đơn giản, trang phục giản dị, và vẫn duy trì chế độ tự cung tự cấp, ít phụ thuộc vào công nghệ hiện đại. Ở Mỹ, họ chủ yếu sống tại bang Pennsylvania – ND

(2) Hiện tượng một người có xu hướng đưa ra các quyết định hay lựa chọn theo những người sống xung quanh họ - ND

(3) Nghĩa trang tư nhân Forest Lawn là nơi an nghỉ của rất nhiều nhân vật nổi tiếng trong ngành công nghiệp giải trí Hoa Kỳ cùng nhiều người Mỹ tên tuổi khác – ND

(4) Chủ nghĩa McCarthy là chủ nghĩa chống cộng sản được đặt tên theo tên của thượng nghị sỹ McCarthy Đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1950-1956. Thứ chủ nghĩa này được hiểu là trào lưu mị dân, buộc tội, vu cáo các đối thủ chính trị vô căn cứ. Ví dụ ở đây phân tích về bi kịch của những nạn nhân của chủ nghĩa McCarthy bị vu khống là thân cộng, vong quốc mà không thể minh oan cho bản thân vì bí mật chính phủ mà họ nắm giữ - ND

Nguồn: Milton Friedman, Capitalism and Freedom, The University of Chicago Press, 1962

1 comment: