Nguyễn
Đình Hách dịch
Chương 9
1984, tại Nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA
Bây giờ là thời gian của
tôi. Tôi không nghĩ có bất kỳ ai đã nói trong chiếc ghế của vị nha sĩ. Tôi cảm
nhận đặc quyền. Tôi nhìn thấy các vị phật ghen tỵ với tôi.
Tiếp tục tái bút…
Cuốn sách đầu tiên hôm
nay: THE DESTINY OF MIND (SỐ PHẬN CỦA TÂM TRÍ) của Haas. Tôi không biết phát âm
tên ông như thế nào: h-a-a-s – tôi phát âm là Haas. Cuốn sách không nổi tiếng
lắm vì lý do đơn giản là nó quá sâu sắc. Tôi nghĩ người đồng nghiệp Haas này
chắc phải là người Đức, cho nên ông đã sáng tạo nên cuốn sách vô cùng ý nghĩa.
Ông ấy không phải là nhà thơ, ông viết như nhà toán học. Ông là người đã trao
cho tôi từ philosia.
Philosophy-triết học có
nghĩa là ‘yêu thích sự thông thái’; philo có nghĩa là tình yêu, và sophia là
thông thái, nhưng nó không thể được áp dụng ở darshan, cách phương Đông nhìn
vào cái toàn bộ. Philosophy là khắc nghiệt.
Trong cuốn sách SỐ PHẬN
CỦA TÂM TRÍ, Haas sử dụng từ philosia ở
darshan thay vì dùng từ philosophy. Philo vẫn có nghĩa là tình yêu, nhưng osia
có nghĩa là sự thật, điều thực, điều thực tối thượng – không phải là tình yêu
kiến thức hoặc trí tuệ, mà là tình yêu đối với sự thật, có thể chấp nhận hoặc
không thể chấp nhận, điều đó không thành vấn đề.
Đây là một trong những
cuốn sách đã mang phương Đông và phương Tây đến gần với nhau hơn – chỉ gần hơn,
chứ những cuốn sách không thể làm được gì hơn. Để cuộc gặp mặt diễn ra thì phải
cần đến con người, mà không phải sách, và Haas không phải là người đó. Sách của
ông tuyệt hay, nhưng bản thân ông lại là người bình thường. Với cuộc gặp mặt
thực sự thì vị Phật, vị Bồ Đề Đạt Ma, vị Jesus, vị Mohammed hoặc Baal Shem là
cần thiết. Nói tóm lại thiền là cần thiết, và tôi không nghĩ rằng cái ông Hass
này đã từng thiền. Có thể ông ấy đã suy tưởng – người Đức biết nhiều về suy tư,
những trại tập trung (ý nói những trại tập trung của phát xít – ND)… thật vĩ
đại! Tôi đã tổ chức những trại thiền và họ đã tổ chức những trại tập trung! Tập
trung là Đức, chứ không phải thiền. Đúng, tình cờ ở Đức đã xuất hiện thiền
nhân, nhưng đó không phải là quy luật, chỉ là ngoại lệ, và ngoại lệ luôn chứng
tỏ quy luật. Tôi biết Eckhart, và tôi biết Boehme…
Tên thứ hai của tôi hôm
nay là Eckhart. Tôi thích ông ấy sinh ra ở phương Đông. Sinh ra giữa những người
Đức và nói về điều tối thượng là một việc khó. Nhưng người đàn ông tội nghiệp
đã làm việc đó, và đã làm một cách hoàn hảo. Người Đức là người Đức; dù họ làm
gì thì họ cũng làm một cách hoàn hảo. Ngay cả hôm nay, có vẻ như có một
sannyasin Đức vẫn đang gõ cửa. Hoàn hảo làm sao! Hãy lắng nghe những tiếng gõ
của anh ta, âm thanh của chúng giữa sự tĩnh lặng này mới đẹp làm sao.
Eckhart là người thiếu
học. Thật kỳ lạ là có nhiều nhà huyền môn lại thiếu học. Chắc phải có một cái
gì đó với hệ thống giáo dục? Tại sao lại không có nhiều nhà huyền môn có học.
Chắc giáo dục là một cái gì đó hủy hoại, và điều đó ngăn cản mọi người trở
thành nhà huyền môn. Đúng, giáo dục hủy hoại. Hai mươi lăm năm liên tục, từ lớp
mẫu giáo cho tới cử nhân ở trường đại học, những gì đẹp và thẩm mỹ trong bạn
đều liên tục bị nó hủy hoại. Bông sen bị đè nát bởi học bổng, bông hồng bị kết
liễu bởi cái gọi là các vị giáo sư, các thầy cô giáo, các vị hiệu phó, hiệu
trưởng. Những cái tên đẹp mà họ đã chọn cho họ.
Nền giáo dục thực sự còn
chưa bắt đầu. Nó phải bắt đầu. Nó sẽ là nền giáo dục của trái tim, chứ không
phải của cái đầu; của tính nữ trong bạn chứ không phải của tính nam.
Thật đáng ngạc nhiên
rằng Eckhart, giữa những người Đức, một chủng tộc sô vanh nhất trên thế giới,
lại vẫn giữ mình trong trái tim, và đã nói từ đó. Thiếu học, nghèo nàn, không
có địa vị chính trị, không có địa vị kinh tế, không có địa vị gì cả – chỉ là
một kẻ khất thực, nhưng lại rất giàu có. Rất ít người đã từng rất giàu có. Giàu
có trong bản thể mình – BẢN THỂ của người đó.
Hãy viết chữ BẢN THỂ
bằng chữ hoa.
Hai từ đang tồn tại và
sẽ trở thành phải được hiểu. Sẽ trở thành là quá trình không có khởi dầu và
không có kết thúc, là một sự liên tục. Nhưng tồn tại không bao giờ là quá
trình, nó đơn giản là vậy. Gọi nó là vậy, và bạn sẽ rất gần với nó.
Tồn tại không phải là
thời gian hoặc không gian, nó là sự siêu việt. Siêu việt – lại viết bằng chữ
hoa, SIÊU VIỆT. Chao ôi, bạn không thể viết nó bằng chữ vàng. Nó là từ nên được
viết bằng vàng, vàng tinh khiết – không phải mười tám carat mà là hai mươi bốn
carat, một trăm phần trăm vàng.
Eckhart chỉ nói một vài
điều, nhưng chỉ thế cũng đủ để chọc tức giới tu sĩ xấu xa, giáo hoàng và những
quỷ giữ quanh ông ta. Ngay lập tức họ bắt Eckhart dừng. Họ bắt ông ấy nói gì và
không nói gì. Điều đó cần một người điên như tôi để không nghe những kẻ ngốc
đó. Nhưng Eckhart là một người đàn ông giản dị; ông đã nghe, đã nghe theo quyền
lực. Một người Đức sau tất cả những người Đức. Khi bạn nói “quay trái” ông ấy
quay trái; khi bạn nói “quay phải” ông ấy quay phải.
Tôi đã bị trục xuất khỏi
trại huấn luyện quân sự ở trường đại học bởi vì khi họ nói “quay phải” tôi lại
nghĩ ngược lại. Ngay lập tức mọi người
quay, ngoài tôi. Viên sĩ quan quân đội đã bối rối. Ông ta nói, “Có vấn đề với
bạn? Bạn không thể nghe sao? Tai bạn có vấn đề sao?”
Tôi nói, “Không, một cái
gì đó sai với tôi. Tôi không nhìn thấy giá trị. Tại sao tôi lại quay trái hoặc
quay phải? Không cần thiết, không có lý do nào. Và những kẻ ngốc tội nghiệp đó
đã quay trái, quay phải rồi sẽ trở lại vị trí cũ như tôi thôi.”
Lẽ đương nhiên, tôi bị
trục xuất – và tôi vô cùng thích thú. Mọi người nghĩ đó là điều tồi tệ, và tôi
nghĩ đó lại là điều may mắn. Họ thì thầm rằng chắc có điều gì đó sai trong tôi:
“Cậu ta bị trục xuất mà vẫn thích thú…” Tôi đã tổ chức bữa tiệt rượu với mọi
người.
Eckhart đã nghe theo.
Người Đức không thể là người chứng ngộ thực sự, điều đó sẽ rất khó. Vimalkirti
có thể là người Đức đầu tiên chứng ngộ. Nhưng Eckhart chỉ rất gần; chỉ một bước
nữa và thế gian sẽ kết thúc… và sự mở ra, sự mở ra của những ô cửa, sự mở ra
với bên kia. Nhưng ông ấy đã nói – mặc dù ông là người Đức, và dưới sức ép của
giáo hoàng – ông ấy đã nói những điều tuyệt đẹp. Chỉ một chút sự thật đã đi vào
những câu nói của ông, do vậy mà tôi tính cả ông.
Thứ ba, một người Đức
khác: Boehme. Tôi không biết phát âm tên ông như thế nào, nhưng ai quan tâm! Nó
được viết: B-o-e-h-m-e. Chắc người Đức phát âm khác, tôi bảo đảm rất khác.
Nhưng tôi không phải là người Đức. Dù sao tôi cũng không phải thỏa hiệp với bất
kỳ ai. Tôi đã luôn gọi ông là “Boomay.” Nếu ông ấy đến với tôi và nói, “Đó
không chính xác là tên tôi,” tôi sẽ nói, “Xéo đi! Với tôi thì đây là tên của
ông, và đây sẽ là tên ông, Boomay.”
Thật kỳ lạ, bất kỳ khi
nào Arpita đến phòng tôi, tôi ngửi thấy Boehme, đột nhiên tôi nhớ Boehme. Có
thể đó chỉ là sự liên hệ, bởi vì ông ấy chỉ là người thợ làm giầy và Arpita là
thợ làm giầy của tôi. Nhưng Arpita, bạn được ban phúc vì bạn nhắc tôi về
Boehme, một trong những người Đức tuyệt nhất. Ông ấy tuyệt đối nghèo. Có vẻ như
người ta phải nghèo để trở nên trí huệ; cho đến bây giờ trường hợp đã là vậy.
Nhưng không phải sau tôi. Sau tôi bạn phải trở nên giàu có để trở nên chứng
ngộ. Hãy để tôi nhắc lại: bạn phải trở nên giàu có để trở nên chứng ngộ.
Jesus nói người giàu sẽ
không được vào vương quốc Thượng đế của ông ấy. Ông ấy nói theo lối cũ. Tôi
nhấn mạnh rằng, chỉ có người giàu nhất sẽ vào vương quốc của Thượng đế. Và nên
nhớ, điều tôi đang nói cũng tương tự như Jesus đã nói, nó không đối nghịch.
Người ‘nghèo’ theo cách dùng từ của Jesus và người ‘giàu’ theo cách của tôi có
nghĩa chính xác như nhau. Ông ấy gọi người nghèo là người đã mất chính mình,
bản ngã mình, và đó là người tôi gọi là giàu. Bạn càng vô ngã thì bạn càng
giàu. Nhưng trong quá khứ, một người như Boehme sinh ra trong một gia đình giàu
có là hiện tượng rất hiếm hoi, đặc biệt là ở phương Tây.
Ở phương Đông không như
vậy. Phật là hoàng tử, Mahavira là hoàng tử; hai mươi bốn vị tirthankara của
Jain đều là vua. Krishna là vua, Rama là vua. Tất cả đều giàu có, vô cùng giàu.
Điều đó có ý nghĩa nào đó; ý nghĩa là tôi đang nói về sự giàu có. Một người là
giàu khi bản ngã người đó không còn. Khi người đó không còn thì người đó tồn
tại.
Boehem nói một vài điều,
chỉ vài điều. Ông ấy không thể nói nhiều điều, cho nên đừng sợ hãi. Một điều
tôi muốn nói đến là: trái tim là ngôi đền của Thượng đế. Đúng, Boehme, đó là
trái tim chứ không phải cái đầu.
Thứ tư: Một người đàn
ông, Idries Shah. Tôi sẽ không nói đến bất kỳ cuốn sách nào của ông bởi vì tất
cả chúng đều tuyệt đẹp. Tôi đã nhận xét từng cuốn sách của người người đàn ông
này.
Đừng sợ, tôi vẫn còn
điên. Không gì có thể làm cho tôi lành mạnh. Nhưng một cuốn sách của Idries
Shah vượt hẳn lên tất cả những cuốn khác. Tất cả chúng đều đẹp, tôi muốn nhắc
đến tất cả chúng, nhưng cuốn THE SUFIS (NHỮNG VỊ SUFI) là viên kim cương. Giá
trị mà ông ấy đã thực hiện trong cuốn sách NHỮNG VỊ SUFI là không thể đo lường.
Đừng ngắt lời, đây sẽ là
điều tuyệt vời.
Với tôi, nói là điều quá
dễ dàng. Tôi có thể nói ngay cả trong lúc ngủ, và lại rất có lý nữa. Tuyệt. Bất
kỳ khi nào tôi nhận ra một cái gì đó giống như thế này tôi luôn đánh giá cao
nó. Và đây là điều tuyệt vời – đây là điều mà bạn sẽ hiểu nếu bạn có thể hiểu
cuốn sách NHỮNG VỊ SUFI của Idries Shah. Ông ấy là người đã giới thiệu Mulla
Nasriddin với phương Tây, và ông đã thực hiện một việc không thể tin. Ông ấy
không thể được đền đáp lại. Phương Tây phải mãi mãi đội ơn ông. Idries Shah đã
làm cho những giai thoại ngắn về Nasruddin đẹp hơn. Người đàn ông này không chỉ
có khả năng dịch chính xác những chuyện ngụ ngôn, mà còn làm cho chúng thêm đẹp,
cảm động và sắc nét hơn. Tôi tính tất cả những cuốn sách của ông.
Con số của tôi có đúng
không?
“Dạ đúng, thưa Osho.”
Thứ năm, tôi sẽ tính một
người đàn ông khác, Alan Watts, cùng tất cả những cuốn sách của ông. Tôi vô
cùng yêu con người này. Tôi yêu Phật vì những lý do khác; tôi yêu Solomon vì lý
do khác. Họ là những người chứng ngộ, Alan Watts thì không. Ông ấy là người Mỹ…
không sinh ra ở Mỹ, đó là hy vọng duy nhất của ông; ông đã định cư ở đó. Nhưng
ông đã viết những cuốn sách vô cùng giá trị. THE WAY OF ZEN (CON ĐƯỜNG CỦA ZEN)
nên được tính đến như là một trong những cuốn quan trọng nhất; THIS IS IT (NÓ
LÀ THẾ ĐÓ) là một tuyệt tác về vẻ đẹp và sự hiểu biết – và lại là của một người
đàn ông còn chưa chứng ngộ. Do vậy mà nó được đánh giá cao.
Khi bạn chứng ngộ, dù
bạn nói gì thì cũng đều đẹp; nó phải như vậy. Nhưng khi bạn chưa chứng ngộ và
còn mò mẫm trong bóng tối, và bạn tìm ra một cửa sổ nhỏ ánh sáng, điều đó cũng
quá tuyệt, như mơ. Alan Watts là người say, nhưng ông đã rất gần.
Có một lần ông được
phong chức tu sĩ Cơ đốc – thật không may! – nhưng ông đã từ chối. Rất ít người
có đủ dũng khí để từ chối chức tu sĩ, bởi vì chức vị đó được hưởng rất nhiều
thứ từ xã hội. Ông đã từ chối tất cả và trở thành gần như kẻ sống lang thang.
Một kẻ sống lang thang! – điều đó gợi nhớ lại Bồ Đề Đạt Ma, Basho, hoặc Rinzai.
Alan Watts không thể mãi không trở thành một vị phật. Ông ấy chết trước đó từ
lâu; tới lúc đó, ông ấy chắc đã rời trường học… chắc sẵn sàng đến với tôi! Tôi
đang chờ đợi tất cả những người đó. Alan Watts là một trong số họ – tôi đang
chờ đợi ông ấy.
Thứ sáu… bây giờ, dù sao
tôi cũng đã nhắc đến cái tên Rinzai. Cuốn thứ sáu là tác phẩm của ông, SAYINGS
(NHỮNG PHÁT BIỂU), tuyển tập những bài nói của ông. Con số của tôi có đúng
không?
“Đúng, thưa Osho.”
Điều đó là tốt. Bạn đã
thì thầm một cái gì đó với Ashu, cho nên tôi đã ngạc nhiên. Xin lỗi vì đã can
thiệp vào bạn. Bạn đang rất tập trung để ghi chép.
Rinzai… tên Trung Quốc
của ông là Lin Chi; trong tiếng Nhật Bản là Rinzai. Tôi chọn tên Nhật, Rinzai.
Rinzai đẹp hơn, thẩm mỹ hơn.
NHỮNG PHÁT BIỂU của
Rinzai là một thùng thuốc nổ. Ví dụ ông ấy nói: bạn là kẻ ngốc, bạn là người
theo Phật, từ bỏ với ông ấy! Nếu bạn không từ bỏ với ông ấy, bạn sẽ không nhận
ra Người. Rinzai yêu Phật, chính vì vậy mà ông ấy đã nói điều này: trước khi
bạn sử dụng tên Phật Gautam, nên nhớ rằng tên đó không phải là thực tại. Vị
phật bên ngoài, trong chùa, không phải là phật thực. Vị đó ở bên trong bạn… bạn
hoàn toàn không nhận biết về vị đó, bạn chưa bao giờ nghe về vị đó. Đó là vị
phật thực sự. Hãy rũ bỏ vị phật bên ngoài để bạn có thể có được vị phật bên
trong. Rinzai nói: không có học thuyết, không có thuyết giảng, không Phật. Và
nên nhớ, ông ấy không phải là kẻ thù của Phật mà là người theo, là môn đệ.
Rinzai là người đã mang
bông hoa Zen từ Trung Quốc tới Nhật Bản. Ông ấy đã truyền tinh thần của Zen vào
ngôn ngữ Nhật, và không chỉ cho ngôn ngữ mà cả cho văn hóa, để chuẩn bị cho sự
nở hoa, cho thơ ca, cho sự làm vườn và những điều bình thường. Một người, chỉ
một người đàn ông thôi, đã làm chuyển hóa toàn bộ cuộc sống của một đất
nước.
Thứ bảy: Thứ bảy không
phải là người chứng ngộ như Rinzai, mà rất gần với chứng ngộ. Hazrat Inayat
Khan, là người đã giới thiệu truyền thống Sufi với phương Tây. Ông ấy không
viết cuốn sách nào, nhưng tất cả những bài thuyết giảng của ông đã được tuyển
tập thành hai mươi tập. Chúng đẹp, chỗ này chỗ kia. Hãy tha thứ cho tôi, tôi
không thể nói chúng hoàn toàn đẹp, mà chỗ này chỗ kia, tình cờ, đặc biệt là khi
ông ấy đang nói về câu chuyện Sufi, lúc đó ông thật đẹp.
Ông ấy cũng là nhạc sĩ
nữa; về khía cạnh này thì ông là nhà soạn nhạc đại tài. Ông ấy không phải là
Bậc Thầy trong thế giới tâm linh, nhưng trong thế giới âm nhạc thì chắc chắn
ông là bậc thầy. Tình cờ ông đã bay đến tâm linh, ông đã vượt lên những đám
mây… tất nhiên, để rồi ngã uỵch. Chắc ông ấy đã chịu đựng vì… Devaraj, bạn gọi
là gì? Gẫy vụn? Có lẽ gẫy vụn là từ đúng.
Thứ tám: Người con trai
của Hazrat Inayat Khan. Tên của ông ấy nổi tiếng trong giới những người tìm
kiếm ở phương Tây: Hazrat Vilayat Ali Khan. Ông là một người đàn ông đẹp. Ông
vẫn còn đang sống. Người cha đã chết, Vilayat còn sống, và khi tôi nói còn
sống, tôi thực sự muốn nói – không chỉ thở… tất nhiên là còn thở, nhưng không
chỉ thở. Vì thế, tất cả những cuốn sách của ông đều được tính. Vilayat Ali Khan
cũng là nhạc sĩ, như cha ông, chỉ khác là phẩm chất cao hơn, có độ sâu hơn. Ông
ấy sâu sắc hơn… và – lắng nghe khoảng tạm dừng này – cũng tĩnh lặng hơn.
Thứ chín: Tôi cũng muốn
đếm cuốn sách khác của Kahlil Gibran: JESUS, THE SON OF MAN (JESUS, CON TRAI
CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG). Đó là một trong những cuốn sách gần như không được thừa
nhận. Người Cơ đốc không thừa nhận nó bởi vì nó gọi Jesus là con trai của một
người đàn ông. Họ không chỉ không thừa nhận nó mà họ còn lên án nó. Và tất
nhiên, ai quan tâm đến Jesus? Nếu chính người Cơ đốc đang lên án mình thì không
ai còn quan tâm về điều đó.
Kahlil Gibran là người
Syri, rất gần với Jerusalem. Thực tế, trong những vùng đồi núi Syri, nhiều
người – ít nhất là một số người – vẫn nói tiếng Aramaic, ngôn ngữ của Jesus.
Giữa những đỉnh cao đó – tới những cây tuyết tùng, bất kỳ ai, thậm chí là một
kẻ ngốc, cũng buộc phải ngạc nhiên, bối rối. Kahlil Gibran ra đời ở Syri, trong
rừng cây tuyết tùng cao vút tới những vì sao. Ông ấy đến rất gần với sự hiện
diện con người thực Jesus – gần hơn so với cái gọi là bốn môn đệ đã viết sách
phúc âm. Họ còn tầm phào hơn sách phúc âm. Kahlil gần hơn, nhưng người Cơ đốc
lại rất tức giận bởi vì ông ấy gọi Jesus là con trai của một người đàn ông. Tôi
yêu cuốn sách đó.
Cuốn sách thuật lại
những câu chuyện khác nhau về Jesus của mọi người: người lao động, nông dân,
ngư dân, nhân viên thu thuế – đàn ông, đàn bà, tất cả. Dường như Kahlil Gibran
đang hỏi nhiều người về Jesus – Jesus thực, chứ không phải Jesus Cơ đốc; Jesus
thực, bằng xương bằng thịt… và những câu chuyện đó thật đẹp. Mỗi câu chuyện cần
được thiền về. JESUS, CON TRAI CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG là sự lựa chọn thứ chín của
tôi hôm nay.
Thứ mười: Một cuốn sách
khác của Kahlil Gibran, THE MADMAN (KẺ ĐIÊN). Tôi không thể bỏ nó, mặc dù tôi
thừa nhận tôi muốn điều đó. Tôi muốn bỏ nó lại bởi vì tôi là kẻ điên đó, người
mà ông ấy đang nói đến. Nhưng tôi không thể để nó lại. Ông ấy nói một cách vô
cùng ý nghĩa, vô cùng đích thực về chính cốt lõi sâu thẳm của người điên. Và
người điên này không phải là người điên bình thường, mà là vị Phật, vị Rinzai,
vị Kabir nào đó. Tôi ngạc nhiên – tôi đã luôn ngạc nhiên – làm sao mà Kahlil
Gibran lại có thể làm được điều đó. Chính ông không phải là người điên, chính
ông không phải là người chứng ngộ. Ông ấy ra đời ở Syri, nhưng thật không may
lại sống ở Mỹ.
Nhưng có những sự ngạc
nhiên và những điều kỳ diệu, những câu hỏi mà không có những câu trả lời. Làm
sao ông ấy có thể? Có lẽ ông ấy không tự… có lẽ một cái gì đó – các vị Sufi gọi
là Khird, và các nhà Thần trí gọi là K.H, Koothumi – chắc đã chiếm lĩnh ông.
Ông ấy bị chiếm lĩnh, nhưng không thường xuyên. Khi ông ấy không viết, ông là
người rất bình thường, thực tế còn bình thường hơn những người được gọi là bình
thường: rất ghen tỵ, giận dữ, muốn chiếm lấy mọi thứ. Nhưng tình cờ ông ấy bị
chiếm lĩnh, chiếm lĩnh từ bên trên, và thế rồi có một cái gì đó bắt đầu tuôn
chảy thông qua ông… những bức họa, thơ ca, những câu nguyện ngụ ngôn.
No comments:
Post a Comment